Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng có hiệu quả cho trẻ tại các trường mầm non của huyện hoằng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.84 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình mầm non hiện nay, song song với việc đổi mới nội
dung, phương pháp giảng dạy thì việc đổi mới trang thiết bị và đồ dùng dạy học,
đồ chơi tự tạo là một việc làm không thể thiếu trong mỗi nhà trường. Điều quan
trọng đối với trẻ mầm non “Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, trẻ học mà
chơi, chơi mà học” qua chơi trẻ lĩnh hội tri thức thông qua các hoạt động phong
phú, đa dạng trong cuộc sống hàng ngày, vui chơi là món ăn tinh thần không thể
thiếu được của trẻ nói chung trong đó có trẻ mầm non, trong vui chơi cần phải
có đồ chơi. Muốn làm được điều đó, công tác làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo đóng
vai trò hết sức quan trọng.
Đồ chơi là phương tiện giúp trẻ thực hiện các lĩnh vực hoạt động của trẻ
đồng thời cũng chính là cách giúp trẻ tiếp thu bài học một cách sinh động, hấp dẫn
và hiệu quả hơn. Điều quan trọng trẻ còn nhỏ tư duy, sự tập trung còn rất hạn chế,
trẻ không thể tiếp thu các kiến thức một cách bài bản, có hệ thống như học sinh phổ
thông. Vì thế cần tạo cho trẻ môi trường vật chất đồ dùng, đồ chơi để trẻ được hoạt
động, trải nghiệm, vui chơi, từ đó trẻ có thể tiếp thu kiến thức một cách nhẹ nhàng,
tự nhiên hơn. Trẻ học mà chơi, chơi mà học, qua chơi việc học của trẻ trở nên nhẹ
nhàng và đạt hiệu quả cao hơn. Bởi vì nhu cầu chơi với đồ chơi của trẻ rất lớn mà
thực tế đồ chơi tự tạo chưa đầy đủ, hơn nữa đồ dùng, đồ chơi tự làm phải đảm bảo
thực hiện theo mục tiêu giáo dục, mang tính thẩm mỹ, phải giúp trẻ phát triển trí
tưởng tượng, kích thích cho trẻ tính độc lập, sáng tạo, đồng thời phải phù hợp với
từng lứa tuổi và đảm bảo được sự an toàn cho trẻ. Bên cạnh đó đồ chơi bán sẵn rất
nhiều nhưng chất liệu đảm bảo thì giá cao, chất liệu không đảm bảo nếu cho trẻ
chơi sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của trẻ.
Căn cứ vào đặc điểm phát triển tư duy của trẻ mầm non là tư duy trực quan
nên việc tổ chức các hoạt động vui chơi giúp trẻ “Học mà chơi, chơi mà học” tại
các trường mầm non luôn được gắn với các sự vật - hiện tượng ở xung quanh trẻ.
Việc sử dụng các đồ dùng trực quan một cách hợp lý, sáng tạo sẽ tạo điều kiện cho
trẻ hoạt động, khám phá bằng nhiều giác quan, từ đó kích thích trẻ quan sát, suy
nghĩ, suy luận, nêu ý kiến, đưa câu hỏi giúp trẻ phát huy tính độc lập, hành động


tích cực và tự giải quyết vấn đề qua đó giúp trẻ phát triển một cách toàn diện hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo đáp ứng
nhu cầu chơi cho trẻ mầm non, tôi mạnh dạn trao đổi vấn đề: “Một số biện
pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng có hiệu quả cho trẻ
tại các trường Mầm non của huyện Hoằng Hóa” hy vọng rằng được trao đổi
cùng bạn bè, đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vai trò của đồ dùng, đồ chơi
đối với hoạt động vui chơi của trẻ để đề xuất áp dụng một số biện pháp chỉ đạo
giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ mầm non.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ tại các
trường Mầm non của huyện Hoằng Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1


Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn, các công văn chỉ đạo của ngành về
cách làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ Mầm non; nghiên cứu các tài liệu và
học trực tuyến bồi dưỡng quản lý, giáo viên mầm non theo chu kỳ BDTX; Tạp
chí giáo dục .v.v...
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Thông qua việc quan sát, trò chuyện, sử dụng phiếu điều tra.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Sử dụng một số công thức toán học thống kê để xử lý số liệu kết quả
nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học.
Điều tra khảo sát thực tế:
Kiểm tra, dự giờ, quan sát, ghi chép việc sử dụng đồ dùng học tập, đồ
chơi cho trẻ thông qua các hoạt động học, vui chơi nhằm tìm hiểu những biểu

hiện hứng thú của trẻ với đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến kinh nghiệm đã áp dụng hiệu quả các biện pháp đó là:
Việc hướng dẫn giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng có hiệu quả đồ
dùng, đồ chơi tự tạo cho trẻ tại các trường mầm non.
Tuyên truyền với nhân dân và cha mẹ trẻ về tầm quan trọng của việc làm
đồ dùng, đồ chơi và sử dụng hiệu quả thông qua hội thi “ Làm đồ dùng, đồ
chơi sáng tạo cho trẻ mầm non” cấp trường, cấp huyện.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến.
Như chúng ta đã biết trong trường Mầm non, vui chơi là hoạt động chủ
đạo, là “cuộc sống” của trẻ lứa tuổi mầm non và đồ chơi là người bạn đồng hành
thân thiết của trẻ, đem lại niềm vui cho trẻ, khởi nguồn của những cảm xúc tình cảm tích cực của trẻ. Việc sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương
để làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ là hết sức cần thiết với phương châm
“ Học bằng chơi, chơi mà học” vì đồ dùng học tập, đồ chơi giúp trẻ mở rộng và
hiểu biết về thế giới xung quanh. Ngoài ra đồ dùng học tập, đồ chơi còn góp
phần giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm, kỹ
năng xã hội và thẩm mỹ, khả năng giao tiếp ứng xử trong cuộc sống.
` Đồ dùng, đồ chơi cùng với trò chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu
được đối với cuộc sống của trẻ. Đồ dùng, đồ chơi còn là phương tiện để trẻ hoạt
động vui chơi mà hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mầm non.
Ngoài đồ dùng học tập ra thì đồ chơi vốn là thứ trẻ yêu thích nhất, không có đồ
chơi trẻ không có phương tiện, môi trường để hoạt động và thực hiện các trò
chơi cách thức chơi với đồ chơi mà trẻ yêu thích được thay đổi theo sự phát triển
và hiểu biết của trẻ thì chính đồ chơi đó lại trở thành đồ dùng học tập của trẻ,
giúp trẻ có nhiều cơ hội trải nghiệm và lĩnh hội các kiến thức, thông qua đồ chơi
được sử dụng trong các trò chơi. Vì vậy càng có nhiều đồ chơi thì trẻ càng có cơ
hội học tập và tích lũy kiến thức theo các cách khác nhau.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa
kinh tế phát triển, đồ chơi cho trẻ cũng rất phong phú, hiện đại. Trong số đó, có

những loại đồ chơi bổ ích, nhưng cũng không ít đồ chơi còn mang tính bạo lực,
2


phi giáo dục, độc hại đối với trẻ em. Tôi còn nhớ, tuổi ấu thơ, ai trong chúng ta
cũng một lần trải qua thời chơi đồ chơi làm bằng lá cây, bằng dây cuốn của các
loại cây leo, bằng rơm rạ. Lấy đất để nặn thành nồi, chảo, bát…lấy rơm hoặc
dây len cuốn lại thành hình búp bê…Bất luận trong hoàn cảnh nào đồ chơi ra đời
sẽ phát triển trí tuệ cho trẻ, đồ chơi phong phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích
được tính tò mò ham hiểu biết cùng khám phá của trẻ bấy nhiêu. Những nguồn
vật liệu sẵn có ở địa phương nơi trẻ sinh sống giúp trẻ tạo ra đồ chơi mang tính
đặc trưng của vùng miền, vừa giúp trẻ giữ gìn nét đẹp của quê hương trẻ, từ đó
góp phần hình thành phát triển trí tuệ và tình cảm cho trẻ. Đây cũng là hình thức
dạy học cho trẻ biết yêu quý sức lao động ngay từ khi còn bé. Đồ dùng, đồ chơi
là một nhu cầu tự nhiên, không thể thiếu đối với cuộc sống của trẻ, đặc biệt là
trong các hoạt động của trẻ ở trường mầm non, nó cần cho trẻ như “thức ăn,
nước uống” hàng ngày. Tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng có tiền để
mua hoặc mua được hết đồ dùng, đồ chơi để phục vụ cho các hoạt động. Đặc
điểm của trẻ mầm non là luôn có nhu cầu chơi với những đồ dùng, đồ chơi có
màu sắc đẹp, mới lạ, phong phú và hấp dẫn. Để thỏa mãn được nhu cầu đó của
trẻ, đòi hỏi người cán bộ quản lý - giáo viên mầm non phải luôn sáng tạo ra
nhiều đồ dùng, đồ chơi mới lạ, hấp dẫn và phù hợp với nội dung bài dạy, phù
hợp với tình huống giáo dục trong các hoạt động, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục trẻ trong trường mầm non. Hiện nay đồ dùng, đồ chơi cho trẻ em có rất
nhiều trên thị trường, tuy nhiên xét về phương diện giáo dục không thể để đáp
ứng đầy đủ các nhu cầu và mục đích của chương trình dạy học ở trường Mầm
non. Hơn nữa việc mua quá nhiều đồ dùng, đồ chơi cho trẻ làm ảnh hưởng đến
kinh tế của các bậc phụ huynh trong khi các đồ phế phẩm từ gia đình, các
nguyên vật liệu đã qua sử dụng có thể tái sử dụng làm đồ chơi cho trẻ. Khi có đồ
chơi do cô và trẻ hoặc tự tay trẻ làm ra, các cháu sẽ cảm thấy yêu quí và hứng

thú hơn rất nhiều so với các đồ chơi mua sẵn. Đây cũng là một hình thức dạy
cho trẻ biết yêu quí sức lao động ngay từ khi còn bé. Xuất phát từ những ý tưởng
nêu trên, tôi nghĩ rằng việc tự làm đồ dùng, đồ chơi là việc làm hết sức cần thiết
và bổ ích cho trẻ mầm non, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của năm học. Khai thác
sử dụng hiệu quả các thiết bị dạy học đã được trang bị theo danh mục tối thiểu
kết hợp với hoạt động tự làm đồ dùng dạy học, đồ chơi mầm non để góp phần
nâng cao hiệu quả trong việc đổi mới phương pháp dạy học và chất lượng.
Từ nhận thức trên, tôi thiết nghĩ việc trang bị các kiến thức và nâng cao
kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho giáo viên mầm non trong các trường
mầm non là việc làm hết sức cần thiết và bổ ích. Vì làm đồ dùng học tập, đồ
chơi tự tạo là một hoạt động mang tính sáng tạo và độc đáo. Sáng tạo và độc đáo
ở chỗ cùng một nguyên vật liệu mỗi người lại có ý tưởng riêng, cách thức riêng
để tạo ra sản phẩm theo phong cách của mình.
Là cán bộ phụ trách giáo dục mầm non, tôi nhận thấy việc làm đồ dùng,
đồ chơi cho trẻ và sử dụng hiệu quả trong các trường mầm non có vai trò hết sức
quan trọng, không những để phát huy năng lực sẵn có của mỗi người và sự tư
duy nhận thức của trẻ, giúp trẻ tiếp thu lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả
nhất, giúp trẻ hứng thú trong các hoạt động, mà còn mang lại cơ hội và động cơ
để nâng cao chất lượng cho các trường mầm non.
3


2.2. Thực trạng
Hoằng Hoá là huyện đồng bằng ven biển có truyền thống hiếu học, phía
đông giáp Vịnh Bắc Bộ; phía nam giáp thị xã Sầm Sơn, huyện Quảng Xương và
thành phố Thanh Hoá; phía tây giáp thành phố Thanh Hoá và huyện Thiệu Hoá;
phía bắc giáp các huyện Thiệu Hóa, Hà Trung và Hậu Lộc. Huyện nằm ven biển
phía đông của tỉnh Thanh Hoá, chiều dài bờ biển khoảng 12km. Diện tích
khoảng 224,58Km2, dân số khoảng 222.178 người. Tuyến giao thông chính của
huyện gồm quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam. Tỷ lệ hộ nghèo 10,15%, tỷ lệ

sinh 13,34%, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,68%.
Toàn huyện có 42 xã và 01 thị trấn với 326 thôn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
17,5%, thu nhập bình quân đầu người 15.36 triệu/năm. Kinh tế xã hội phát triển khá,
quốc phòng an ninh vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện.
Toàn huyện có 137 trường học, trong đó có 43 trường Mầm non; 43
trường Tiểu học, 42 trường THCS, 01 trường liên cấp học ( TH và THCS); 07
trường THPT, 01 trung tâm GDTXDN và 43 trung tâm học tập cộng đồng. Tính
đến tháng 5/2017 toàn huyện có 104 trường chuẩn Quốc gia, trong đó có 32
trường mầm non; 42 trường tiểu học; 29 trường THCS; 01 trường THPT.
Tình hình trật tự xã hội được giữ vững, tỷ lệ dân số ổn định, sự quan tâm
đúng mức của các cấp uỷ Đảng chính quyền trong những năm gần đây, giáo dục
Hoằng Hoá luôn giữ vững trong tốp đầu đặc biệt năm học này là đơn vị dẫn đầu
của tỉnh.
Tính đến thời điểm hiện nay, bậc học mầm non huyện Hoằng Hóa đã có
nhiều năm thực hiện và chỉ đạo cán bộ, giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử
dụng hiệu quả tại các trường mầm non. Bên cạnh đó dưới sự chỉ đạo của Sở
Giáo dục & Đào tạo, sự cố gắng của từng nhà trường, sự quan tâm tạo điều kiện
thuận lợi của các cấp, công tác chỉ đạo làm đồ dùng, đồ chơi đã thu được nhiều
kết quả cao. Trong đó năm học 2015 - 2016 đã đạt giải nhất toàn đoàn hội thi
triển lãm đồ dùng, đồ chơi cấp tỉnh, có một bộ sản phẩm đạt giải đặc biệt.
Thuận lợi:
Công tác làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng hiệu quả tại các trường mầm
non được ngành GD&ĐT quan tâm trên cơ sở các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện của Bộ GD&ĐT và Sở GD&ĐT. Phòng GD&ĐT đã mở nhiều lớp tập
huấn công tác làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo và sử dụng hiệu quả từ huyện đến các cụm
trường cho toàn thể cán bộ, giáo viên tham gia.
Trình độ chuyên môn của CBGV, NV ở các trường mầm non trên địa bàn
huyện tương đối vững vàng và đồng đều, tận tụy, trách nhiệm với công việc.
Đa số đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong các trường mầm
non có sự đoàn kết nhất trí, trình độ chuyên môn nghiệp vụ đạt chuẩn và trên chuẩn

100%, có tinh thần trách nhiệm cao, chịu khó tìm tòi các nguyên vật liệu, sáng tạo
trong cách làm và sử dụng hiệu quả khi hướng dẫn trẻ hoạt động, trẻ hướng thú và
tích cực trong các hoạt động. Nhiều sản phẩm đồ dùng, đồ chơi thật sự đẹp, bền, có
giá trị sử dụng cao và mang tính giáo dục phù hợp từng độ tuổi của trẻ.
Qua công tác làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng hiệu quả tại các trường
mầm non, chất lượng giáo dục và các hoạt động của các trường đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Có 43/43 trường tổ chức thi làm đồ dùng, đồ chơi cấp
4


trường, cấp huyện. Phụ huynh học sinh tích cực hưởng ứng tham gia.
Khó khăn:
Do công việc chăm sóc giáo dục trẻ chiếm nhiều thời gian, giáo viên phải
đứng lớp cả ngày, thời gian dành cho việc tìm kiếm và làm đồ dùng học tập, đồ
chơi còn ít, phần lớn chỉ trong thời gian hè, ngày nghỉ và tranh thủ thời gian còn lại.
Hầu hết các trường đều thiếu người làm việc nên có hạn chế trong việc tổ chức
triển khai.
Do công tác XHHGD ở một số trường còn nhiều khó khăn, thiếu thốn đặc
biệt là các xã bãi ngang chưa thường xuyên, chưa huy động được lực lượng phụ
huynh tham gia ủng hộ các nguyên liệu, phế liệu cùng làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo.
Nhận thức về vai trò, ý nghĩa trong việc làm đồ dùng, đồ chơi của một số
cán bộ giáo viên, nhân viên còn nhiều hạn chế. Số cán bộ giáo viên hiểu cách
làm, biết cách vận dụng và khả năng sáng tạo còn hạn chế, mới chỉ tập trung ở
các giáo viên trẻ, khéo tay và có năng khiếu.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, bản thân đã cùng các đồng nghiệp
áp dụng các biện pháp chỉ đạo giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng có
hiệu quả cho trẻ tại các trường Mầm non, khảo sát đầu năm học 2016-2017 như
sau:
Kết quả khảo sát:
Mức độ

T
Tổng
Đạt
Chưa đạt
Nội dung
T
số
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ
lượng

%

lượng

%

Số trường có đủ đồ dùng học tập,
43
38
88
5
12
đồ chơi ở mức độ tối thiểu
Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
2 chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất 447
367
82

80
18
lượng, phong phú, hấp dẫn.
Số giáo viên có ý thức sưu tầm
3 nguyên vật liệu để làm đồ dùng học 801
708
88
93
12
tập, đồ chơi.
Số CBGV biết cách làm và vận
4
801
690
86
111
14
dụng sáng tạo.
Số CBGV sử dụng có hiệu quả đồ
5
801
745
93
56
7
dùng học tập, đồ chơi đã làm.
2.3. Biện pháp thực hiện:
Từ thực trạng trên của bậc học mầm non tỉnh Thanh Hóa nói chung và bậc
học mầm non huyện Hoằng Hóa nói riêng. Tôi nhận thấy muốn công tác làm đồ
dùng, đồ chơi và sử dụng hiệu quả tại các trường mầm non đi vào chiều sâu, đạt

hiệu quả thiết thực và trở thành ý thức trách nhiệm, việc làm thường xuyên,
chúng ta cần phải phối hợp thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
2.3.1. Tăng cường chỉ đạo các trường thực hiện nghiêm túc các văn bản
về công tác làm đồ dùng, đồ chơi và sử dụng hiệu quả tại các trường mầm non
1

5


Công văn 475/GD&ĐT ngày 18/3/2015 của Phòng Giáo dục và Đào tạo
về tổ chức Hội thi làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo; Công văn 175/GD&ĐT ngày
17/8/2016 của phòng Giáo dục và Đào tạo về tổ chức chuyên đề hướng dẫn làm
đồ dùng đồ chơi; Chuyên đề giáo dục lấy trẻ làm trung tâm… Ngoài ra bồi
dưỡng cho cán bộ quản lý các trường mầm non phải nắm chắc và thực hiện tốt
các yêu cầu khi hướng dẫn giáo viên làm đồ chơi, thì cán bộ quản lý phải xây
dựng được kế hoạch và tổ chức thi đua làm đồ dùng đồ chơi ở các khối lớp.
Sau các lớp tập huấn, chúng tôi yêu cầu cán bộ giáo viên, nhân viên viết
bài thu hoạch để kiểm tra đánh giá năng lực, đồng thời tiến hành thực hiện công
tác kiểm tra, giám sát các đơn vị thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo, có
43/43 đơn vị tổ chức “Hội thi làm đồ dùng đồ chơi” cấp trường đạt 100%.
Hội thi làm đồ dùng đồ chơi cấp trường
2.3.2. Tổ chức các chuyên đề về đồ dùng học tập, đồ chơi và nâng cao
kỹ năng làm đồ dùng học tập đồ chơi cho cán bộ giáo viên.
Bồi dưỡng và nâng cao kiến thức, kỹ năng làm đồ dùng học tập, đồ chơi
cho cán bộ giáo viên có rất nhiều hình thức, mỗi hình thức đều mang lại hiệu
quả riêng, các chuyên đề không những mang lại hiệu quả cao về chuyên môn mà
còn là hình thức bồi dưỡng về năng lực giao tiếp, kỹ năng ứng xử, đặc biệt là
năng khiếu cá nhân, được thảo luận đưa ra ý kiến riêng của mình trên cơ sở đó
học tập kinh nghiệm lẫn nhau.
Để tổ chức buổi chuyên đề tốt tôi đã xây dựng kế hoạch chuyên đề, tham

mưu tranh thủ ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo phòng Giáo dục và Đào tạo thống
nhất nội dung, thời gian và hình thức thực hiện.
Mục đích của chuyên đề:
Tận dụng những nguyên, vật liệu dễ kiếm, dễ tìm để làm đồ dùng học tập,
đồ chơi sử dụng trong học tập và trong các trò chơi cho trẻ.
Phát huy óc sáng tạo, kỹ năng làm, rèn luyện tính kiên trì, khả năng khéo
léo của cán bộ, giáo viên.
Nội dung của chuyên đề: Tôi định hướng 2 vấn đề cơ bản:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm đã làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các
nguyên vật liệu sẵn có của địa phương ở từng nhà trường, mỗi cá nhân giáo viên.
Giúp nhau thực hành làm các đồ dùng học tập, đồ chơi theo ý tưởng riêng và
cách làm của mỗi người.
Hình thức của chuyên đề:
Để tất cả cán bộ, giáo viên được tham gia, phát huy hết khả năng vốn có
của mình và thực hiện theo hình thức:
Bước 1: Chia thành 3 cụm và mỗi cụm là 1cụm trưởng.
Cụm 1: Kinh nghiệm làm đồ dùng, đồ chơi đồ chơi từ vải, len, sợi, tre,
trúc, rơm, rạ…tạo nhân vật con rối bằng cốt thép giấy bồi…
Tạo hình bằng thép và giấy
Tạo hình hoàn chỉnh
Cụm 2: Kinh nghiệm làm đồ dùng, đồ chơi từ các đồ vật thiên nhiên: Vỏ
cây, cành cây, hạt đậu, hạt lạc, hạt vừng, các loại hạt trái cây, từ lốp cao su, tre…
6


Đồ dùng, đồ chơi từ lốp cao su
Đồ dùng, đồ chơi từ hột hạt
Cụm 3: Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các tạp phẩm hoặc
từ các đồ vật khác nhau.
Đồ dùng, đồ chơi từ hột hạt


Tranh búng vẩy bằng màu nước

Kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi và các cách phun, vẩy, búng, thổi,
vo vê.
Sau đó lại đổi chéo cụm, cá nhân làm các loại đồ dùng học tập, đồ chơi từ
các nguyên vật liệu khác nhau.
Mời cụm trưởng lên trình bày ý kiến, các cụm khác thảo luận, góp ý, bổ sung.
Bước 2: Giúp nhau thực hành làm các đồ chơi, đồ dùng học tập theo ý
tưởng và cách làm của mỗi cụm và cá nhân
Để thực hiện tốt bước này tôi chỉ đạo các trường mầm non, tổ chức sưu
tầm nguyên vật liệu ở địa phương mình như: các loại hột hạt, vỏ sò, hến, vỏ dừa,
vải màu, chai nhựa, giấy, bìa các loại, que, các khối gỗ, rơm rạ đã chuốt phẳng,
sợi len, bàn chải răng cũ, ống nhựa, sợi bèo tây phơi khô... Trên cơ sở thảo luận
sôi nổi, nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm, tạo không khí thoải mái, tin cậy lẫn
nhau, hướng dẫn nhau về cách làm, qui trình làm và kỹ thuật làm.
Cụm 1: Kinh nghiệm làm đồ chơi, đồ dùng từ tre, trúc, rơm, rạ, vỏ trứng…
Đồ dùng, đồ chơi bằng rơm rạ và tre, nứa
Ví dụ: Khi đưa ra kinh nghiệm làm đồ dùng học tập, đồ chơi từ các loại
rơm rạ: Làm thành các con vịt, con gà, con hươu, búp bê, mũ…Từ vỏ trứng rửa
sạch phơi khô giáo viên có thể làm thành những chú hề ngộ nghĩnh hoặc đàn gà,
vịt đang dẫn đàn con đi kiếm mồi…phục vụ cho các buổi chơi và các trò chơi
phân vai nhóm bán hàng, các con vật để phục vụ chủ đề thế giới động vật, các
hoạt động khám phá khoa học.
Bện thành những sợi dây tròn, dây dẹt để học tập: “Nhận biết dài- ngắn;
tròn, dẹt”; để chơi: Chơi kéo co, nhảy dây, các thảm tròn, thảm hình chữ nhật,
thảm vuông, thảm hình tam giác làm đồ dùng học toán: Nhận biết hình tròn,
vuông, chữ nhật, tam giác; Để chơi: ngồi chơi ô ăn quan, chồng nụ chồng hoa,
nu na nu nống… nhằm ôn lại các trò chơi truyền thống, các trò chơi dân gian
phục vụ một số nội dung trong cuộc vận động “Trường học thân thiện, học sinh

tích cực”.
Cụm 2: Kinh nghiệm làm đồ chơi từ các đồ vật thiên nhiên: Vỏ cây, cành
cây, vỏ ngao, vỏ sò, vỏ hến, hạt đậu, hạt lạc, hạt vừng, các loại hạt trái cây, vỏ
hộp, vỏ chai, lọ vải vun, màu nước, vỏ bao diêm, bìa cát tông, vỏ lon bia, vỏ ống
nhựa, giấy đề can, que kem, tăm tre…
Ví dụ: Từ những nguyên vật liệu thiên nhiên, sưu tầm giáo viên khéo léo tạo
ra những đồ dùng, đồ chơi giúp trẻ hứng thú hoạt động như:
Từ vỏ bao diêm làm thành những chiếc xe ô tô, đoàn tàu….
Bao diêm cũ bọc giấy màu làm đồ chơi xếp hình, làm xúc xắc cho trẻ nhà
trẻ chơi.
Những ống nhựa làm thành những chiếc xe đạp, những con vật, những cái
làn…
7


Ví dụ 1: Từ màu nước đã được pha sẵn, kết hợp giữa kỹ năng: phun,
thổi, vẩy búng theo ý tưởng cá nhân để tạo thành các mảng màu đậm nhạt theo ý
muốn, hoặc dùng bàn chải đánh răng cũ thấm vào mầu nước khác nhau rồi vẩy,
bật bung trên nền bìa thành các mảng lấm chấm với màu sắc khác nhau để tạo
thành bức tranh con vật hay bức tranh cây cảnh, những câu chuyện…
Bộ đồ chơi đồ chơi từ mầu nước phun, vẩy, búng, thổi, vo vê..
Tăng cường hiệu quả của đồ chơi tự tạo bằng cách tổ chức các hoạt
động của trẻ cùng với đồ chơi
Để tăng cường được hiệu quả sử dụng của những đồ dùng, đồ chơi tự tạo
tôi đã tổ chức cho trẻ hoạt động với đồ chơi thông qua các nội dung sau:
Tổ chức cho trẻ chơi qua hoạt động góc:
Chọn nội dung chơi ở các góc, nhu cầu sử dụng đồ chơi của trẻ như thế
nào hoặc góc chơi này nó liên kết với góc chơi kia bằng cách nào thông qua việc
sử dụng đồ chơi như thế nào để phát triển nội dung chơi. Vì vậy, muốn trẻ chơi
tốt giáo viên cũng cần phải hiểu được ý nghĩa của từng trò chơi để chuẩn bị đồ

chơi cho phù hợp, nắm được khả năng trẻ ở lớp mình và những kiến thức, kỹ
năng gì cần được phát triển cho trẻ.
Ví dụ: Khi chọn trò chơi xây dựng thì giáo viên phải hiểu được ý nghĩa
của trò chơi xây dựng đối với trẻ là loại trò chơi biểu hiện khả năng tạo hình của
trẻ: Đồ chơi từ những khối gỗ, khối nhựa, hộp giấy hay chai nước… với những
dạng kích thước khác nhau trẻ có thể xếp sát cạnh nhau, xếp cách thưa nhau hay
xếp chồng lên nhau…để xây dựng nên những công trình như công viên, vườn
hoa, trang trại … Hoặc từ những vật liệu thiên nhiên như vỏ sò, vỏ ốc, đá, sỏi,
… trẻ xếp thành hàng rào tạo nên vườn trường, vườn cây, … trong những công
trình đó sáng kiến của trẻ được bộc lộ rõ nét. Tuỳ theo hoàn cảnh sống, vốn sống
và khả năng tưởng tượng, mỗi trẻ điều có những khả năng riêng biệt và được
biểu hiện trong các công trình của mình. Qua trò chơi thoả mãn nhu cầu tìm hiểu
về đặc điểm, tính chất của thế giới xung quanh, đặc biệt là đồ vật xung quanh
trẻ.
Khi chơi xây dựng trang trại, ngoài xây hàng rào xung quanh, giáo viên
có thể gợi ý cho trẻ mở rộng liên kết với các góc khác bằng những đường nối từ
góc này sang góc kia, như từ khu chợ đến góc gia đình, từ khu vui chơi đến cửa
hàng, lúc này góc xây dựng làm nhiệm vụ trung tâm nối các góc lại với nhau,
muốn đi chợ phải đi băng qua góc xây dựng. Tuy nhiên, ở góc chơi này giáo
viên cũng gặp khó khăn về vật liệu xây dựng. Để khắc phục điều này bằng cách
lấy những thùng giấy, ống chỉ,… để làm hàng rào, đường đi. Hoặc để làm phong
phú thêm góc chơi dùng thùng giấy làm đường hầm cho trẻ chui qua, nhằm tạo
sự khéo léo, hứng thú cho trẻ. Chuẩn bị đồ chơi cho trẻ rất công phu và vất vả
nhưng nếu chúng ta không quan tâm việc sử dụng đồ chơi cho trẻ như thế nào
thì sẽ giảm tác dụng giáo dục của đồ chơi với trẻ.
Ở từng chủ đề, ngoài những đồ dùng, đồ chơi làm mới giáo viên nên tiếp
tục lựa chọn đồ dùng đồ chơi trẻ đã chơi nhưng làm mới bằng cách sử dụng ở
góc chơi cũ mà di chuyển sang góc mới với kỹ năng chơi khác.
8



Ví dụ: Ở chủ đề “Gia đình” góc chơi khám phá khoa học, đồ chơi các con
vật …trẻ chăm sóc các con vật. Sang chủ đề “Động vật” góc chơi xây dựng đồ
chơi các con vật cũng được trẻ sử dụng cho trang trại chăn nuôi các con vật ăn.
Song sang chủ đề nghề thì đồ chơi các con vật để chơi bán hàng….
Trẻ chơi trong góc xây dựng
Tổ chức cho trẻ chơi ở các hoạt động khác
Trong hoạt động học: Khi sử dụng đồ chơi tự tạo trong các tiết học của trẻ
thì tùy vào từng tiết học mà giáo viên lựa chọn, cũng như sắp sếp và đưa các đồ
chơi tự tạo vào cho trẻ hoạt động để có được kết quả tốt nhất.
Ví dụ: Trong tiết kể chuyện: “Hoa mào gà”. Giáo viên nên sử dụng các
con vật như gà, vịt, chó, hoa mào gà được làm từ các quả bóng, xốp, rơm,
len,...và kết hợp với các hoạt cảnh khác xắp xếp thành một mô hình đẹp, nói lên
được nội dung của câu chuyện. Giáo viên gợi ý cho trẻ tưởng tượng giao lưu nói
chuyện với gà, với cây hoa…từ đó giúp trẻ hiểu được nội dung câu chuyện một
cách hứng thú và sâu sắc nhất. Giáo viên gợi ý cho trẻ vẽ lên giấy các nhân vật
trong truyện sau đó tô màu và cắt dán để tạo thành những nhân vật rối ngón tay….
Kết quả:
Về nhận thức: Tất cả cán bộ giáo viên tham gia đều phấn khởi và
khẳng định sau hội thảo họ học tập được nhiều điều bổ ích về cách làm đồ
dùng học tập, đồ chơi để dạy trẻ. Phụ huynh mỗi khi đưa trẻ đến lớp tâm
trạng phấn khởi vì con họ được chơi với nhiều loại đồ dùng, đồ chơi phong
phú đa dạng hấp dẫn hơn.
Về số lượng: Chủng loại phong phú, đa dạng, đủ cho các hoạt động học
và chơi của trẻ.
Về chất lượng sản phẩm: Chất lượng đảm bảo tính thẩm mỹ, bền, đẹp,
có giá trị sử dụng, hình thức phong phú với nhiều thể loại khác nhau
Đồ dùng, đồ chơi đa dạng, phong phú
2.3.3. Phát động phong trào làm đồ dùng học tập đồ chơi cho trẻ từ các
nguyên, vật liệu dễ kiếm - đồng thời sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập, đồ

chơi đã làm.
Chỉ đạo các trường phát động phong trào làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự
tạo theo từng chủ đề. Một phần giúp cho cán bộ giáo viên củng cố cách làm, qui
trình làm, mặt khác quan trọng hơn cả là họ tạo ra được nhiều sản phẩm giúp trẻ
học tập, vui chơi. Sau mỗi đợt tổ chức làm đồ dùng, đồ chơi đều tổng hợp số
lượng, chất lượng đồ dùng học tập, đồ chơi, báo cáo kết quả về Phòng Giáo dục
& Đào tạo qua bộ phận mầm non. Để động viên và khuyến khích tinh thần làm
chúng tôi gắn kết quả làm đồ chơi tự tạo vào tiêu chí thi đua hàng năm để từng
cụm trường phấn đấu.

Đồ dùng, đồ chơi từ vật liệu đẽ kiếm tìm
9


Cũng từ đó các trường tự giác làm rất nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi đẹp,
hấp dẫn, có giá trị sử dụng. Nhiều đồ chơi còn sáng tạo hơn ban đầu. Một yếu tố
để phát huy tối đa hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi tôi đã chỉ đạo tất cả các
trường xây dựng môi trường lớp học khoa học, sắp xếp hợp lý giúp trẻ dễ thấy,
dễ lấy, dễ sử dụng, dễ cất nhằm tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ chơi một
cách thường xuyên.
Để có nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ chơi và cũng là một trong
các hình thức sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm, tôi chỉ đạo
từng trường hướng dẫn trẻ cùng tham gia hoạt động làm một số đồ dùng học tập,
đồ chơi đơn giản, bằng hình thức này trẻ tham gia rất hứng thú, chủ động tìm
tòi, khám phá, trải nghiệm để lĩnh hội kiến thức một cách tốt nhất phù hợp với
việc thực hiện chương trình GDMN.
Kết quả: Theo thống kê của các lớp có số lượng đồ chơi trong năm học
2016-2017 như sau:
Đồ dùng đồ chơi học tập:
255 bộ.

Đồ dùng đồ chơi phân vai và vận động:
325 bộ
Đồ dùng đồ chơi lắp ghép, xây dựng:
515 bộ.
2.3.4. Tổ chức làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu
sẵn có ở địa phương.
Thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học 2016 - 2017; Phòng Giáo dục và
Đào tạo huyện Hoằng Hoá đã tổ chức cho cán giáo viên thi “Đồ dùng học tập,
đồ chơi tự tạo” tham dự hội thi đồ dùng học tập, đồ chơi cấp huyện. Hội thi đã
được sự hưởng ứng và tham gia của cán bộ, giáo viên trong nhà trường, các cô
giáo đã sưu tầm nguyên vật liệu dễ kiếm, tận dụng bằng những vật liệu phế thải
để từ những đôi bàn tay khéo léo, óc sáng tạo của các cô đã đem đến cho hội thi
đồ dùng, đồ chơi đẹp mắt, sinh động, có giá trị sử dụng trong công tác giảng dạy
và vui chơi cho các cháu, làm đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo để phục vụ cho
việc dạy và học trong các nhà trường. Tôi xác định đây là một giải pháp quan
trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học và đáp ứng được yêu cầu đồ dùng học
tập, đồ chơi cho trẻ. Trên cơ sở phát động làm đồ dùng học tập, đồ chơi.
Sản phẩm trưng bày của giáo viên
Mặt khác yêu cầu đồ dùng học tập, đồ chơi dự thi phải đảm bảo nguyên
tắc:
- Đảm bảo tính giáo dục.
- Đảm bảo tính thẩm mỹ
- Đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ
- Phải thỏa mãn được nhu cầu và ý muốn hoạt động tích cực trong khi học
tập và vui chơi của trẻ.
- Phải kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, hình khối.
- Phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn, bền chắc, có giá trị sử dụng.
Đồ dùng học tập, đồ chơi trưng bầy tại lễ phát thưởng năm học 2016-2017
mời lãnh đạo huyện, các ban ngành về dự, tham quan.
Bằng hình thức này chúng tôi đón nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, những

lời động viên, khen ngợi, ghi nhận công sức của cán bộ giáo viên trong toàn
10


huyện. Cũng thông qua hội thi họ hiểu được tầm quan trọng của đồ dùng học
tập, đồ chơi trong công tác giáo dục trẻ và sự phát triển của trẻ, đặc biệt là đồ
dùng học tập, đồ chơi này lại được làm chính ngay từ những nguyên vật liệu có
xung quanh mình. Chúng tôi nghĩ đây là một hình thức tuyên truyền nhanh nhất,
dễ hiểu nhất, hiệu quả nhất.
Kết quả hội thi cấp huyện như sau:
Giải nhất: 3 giải, Giải nhì: 6 giải, Giải ba: 9 giải, Giải khuyến khích: 25
giải. Từ kết quả thi đồ dùng đồ chơi cấp huyện đã chọn những bộ sản phẩm đặc
sắc để giới thiệu cho một số trường mầm non trong tỉnh đó là bộ sản phẩm nghề
nông đã đạt giải nhất cấp
Thực tế trong cuộc sống hàng ngày, mỗi gia đình có rất nhiều sản phẩm bị
loại bỏ sau khi sử dụng, chẳng hạn như vỏ chai dầu gội, vỏ hộp sữa tắm, lon bia,
vỏ hộp sữa, lốp xe máy, lốp ô tô cũ, vỏ hộp sữa các loại, bìa lịch cũ, các loại hạt
ngũ cốc, rau củ, quả tươi và khô, cành cây, lá cây khô, các loại hạt, các loại vỏ
trứng, len, dây đồng, dây thép, vỏ trai, vỏ sò…, đó là nguồn vật liệu rất phong
phú và đa dạng có thể tận dụng để làm những việc hữu ích để chúng ta tận dụng
nó tạo ra nhiều sản phẩm, tạo ra nguồn đồ chơi cho trẻ có nhiều kiểu dáng và
kích thước khác nhau. Việc tận dụng những nguyên vật liệu thiên nhiên và phế
liệu để làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ hoạt động là một việc làm rất có ý nghĩa,
vừa tiết kiệm được tiền mua sắm nguyên vật liệu, tạo ra những đồ dùng, đồ chơi
mang tính sáng tạo, phong phú vừa làm tăng số lượng đồ dùng, đồ chơi cho trẻ,
mà hiệu quả sử dụng lại khá cao. Đồng thời góp phần làm giảm thiểu lượng rác
thải, giảm chi thực tế hiện nay một số trường mầm non trong huyện đồ dùng, đồ
chơi tự tạo phục vụ cho các hoạt động của trẻ còn hạn chế về số lượng, lại mang
tính phổ biến, chưa phong phú và sáng tạo. Giáo viên chưa chịu khó nghiên cứu
cách làm, tìm kiếm những nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu để làm đồ

dùng đồ chơi cho trẻ mà còn phụ thuộc nhiều vào đồ dùng đồ chơi mua sẵn.
Điều đó chưa kích thích được sự cố gắng, sáng tạo của giáo viên cũng như chưa
giúp cho trẻ tích cực, hứng thú cao khi tham gia vào các hoạt động.
2.3.5. Khai thác tiềm năng sẵn có từ các bậc phụ huynh, các lực lượng
xã hội trong việc tìm kiếm nguyên vật liệu ủng hộ nhà trường.
Đây là giải pháp quan trọng không thể thiếu được trong việc tìm kiếm, nâng
cao chất lượng làm đồ chơi cho trẻ bởi đây là một lực lượng lớn, nếu các trường
biết tận dụng và khai thác bằng nhiều hình thức thì sẽ thu về nguồn đồ chơi vô tận
Ý thức được điều này tôi đã chỉ đạo Ban giám hiệu tập trung cho 2 vấn đề:
Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội hiểu được tầm
quan trọng đồ chơi sẵn có ở địa phương để họ biết và thu gom giúp nhà trường.
Khai thác khả năng làm đồ chơi của các bậc phụ huynh .
Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh và các lực lượng xã hội
Đối với công tác tuyên truyền:
11


Tùy từng đối tượng và thời gian cho phép cán bộ, giáo viên đưa ra các
nội dung tuyên truyền phù hợp, dể hiểu, có tính thuyết phục như đồ dùng
học tập đồ chơi giúp trẻ củng cố chương trình học, mở rộng sự hiểu biết về
cuộc sống xung quanh, hoàn thiện và rèn luyện các giác quan, năng lực ghi
nhớ, chú ý, óc quan sát tư duy và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, nếu không có
đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ học tập, vui chơi thì những nội dung trên sẽ
không đạt hiệu quả cao. Để có nguồn nguyên vật liệu làm đồ dùng học tập,
đồ chơi cho trẻ thì các bậc phụ huynh quyên góp các nguyên liệu mà hàng
ngày chúng ta thường gặp như: rơm, hộp chè, các loại bìa, vải, len, các loại
hột hạt, hạt vừng, hạt đỗ, mà nhà nông chúng ta sản xuất được đều có thể sử
dụng làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ được. Tổ chức tuyên truyền trong
các cuộc họp phụ huynh, Hội khuyến học, Đoàn thanh niên, Phụ nữ và qua
các hoạt động khác như các hội thi: “Bé khỏe - Bé khéo tay”, hội thi “Đồ

dùng học tập, đồ chơi”:
Hội thi đồ dùng, đồ chơi cấp huyện
2.3.6. Định hướng kế hoạch, thời gian làm đồ dùng học tập, đồ chơi
cho các trường.
Để có đồ dùng học tập, đồ chơi phục vụ trẻ không phải bất cứ lúc nào
cũng có thời gian để làm, hơn nữa các giáo viên ít có cơ hội học tập lẫn nhau
nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ chơi. Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để mình
hoàn toàn chủ động có nhiều đồ dùng học tập, đồ chơi tự tạo trong suốt năm
học.
Thứ nhất: Trong thời gian hè tiếp tục phát động phong trào tìm kiếm
nguyên vật liệu và động viên chị em tập trung về trường theo tinh thần chung 12 tuần làm đồ dùng học tập, đồ chơi cho trẻ.
Thứ hai: Trong thời gian hè và trong cả năm học nhà trường và giáo viên có
kế hoạch bổ sung đồ dùng học tập, đồ chơi tự làm theo tháng, theo chủ đề. Tôi đề
nghị giáo viên căn cứ vào chương trình của từng độ tuổi, từng chủ đề xem độ tuổi
đó, chủ đề đó có những trò chơi gì, bài học gì, cần những đồ dùng học tập đồ chơi
nào, cái gì đã có và có thể vận dụng được, còn cái gì chưa có để chủ động làm.
Thứ ba: Phát huy và sử dụng có hiệu quả những đồ dùng đã làm một cách
tốt nhất theo quan điểm làm đồ dùng học tập là để cho trẻ học, làm đồ chơi là để
cho trẻ chơi chứ không phải để trưng bày hay trang trí. Luôn luôn thay đổi mẫu
làm, hình thức, kiểu dáng trên cùng một loại đồ dùng đồ chơi để tạo sự hấp dẫn
kích thích ham muốn được học tập, được vui chơi của trẻ đến mức nhìn thấy đồ
chơi trẻ nghĩ ngay đến trò chơi và cách chơi với đồ chơi đó.
2.3.7. Tham mưu bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị:
Phòng Giáo dục & Đào tạo chỉ đạo các đơn vị rà soát các điều kiện cơ sở
vật chất, trang thiết bị các trường mầm non, tham mưu với HĐND - UBND
huyện có các biện pháp hỗ trợ kinh phí để đầu tư xây dựng, cụ thể năm học 2016
- 2017 đã đầu tư xây dựng được 03 trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ
I trường mầm non: Hoằng Minh; Hoằng Lưu; Hoằng TT. Bút Sơn; Tiếp tục năm
2017 có 14 đơn vị xây dựng trường với tổng gần 100 phòng học và các phòng
chức năng. Bên cạnh đó làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi

12


nguồn lực đầu tư xây dựng trường mầm non, đảm bảo các điều kiện tốt nhất cho
các nhà trường hoạt động.

Cơ sở vật chất khang trang xanh, sạch, đẹp.
2.3.8. Tổ chức các hội thảo chuyên đề, hội nghị sơ kết, tổng kết:
Định kỳ hàng năm Phòng GD&ĐT tổ chức các hội thảo chuyên đề, sơ kết,
tổng kết, để qua đó giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời đánh giá,
khen thưởng các tập thể, cá nhân có nhiều cố gắng, sáng tạo trong công tác làm
đồ dùng, đồ chơi. Hơn thế, qua các hội thảo, hội nghị sơ kết, tổng kết chúng ta
xây dựng được phong trào thi đua trong lĩnh vực này, xây dựng được văn hóa
chất lượng từ mỗi nhà trường và toàn ngành giáo dục, góp phần thực hiện thành
công nhiệm vụ của ngành.
2.3.9. Vai trò của chuyên viên phụ trách công tác làm đồ dùng, đồ
chơi:
Liên tục cập nhật và nắm vững các văn bản về làm đồ dùng đồ chơi.
Thành thạo các kỹ năng máy tính để cập nhật thông tin
Tích cực tham gia các chuyên đề do Sở Giáo dục & Đào tạo tổ chức, từ đó
học hỏi kinh nghiệm của các huyện. Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm với
Huyện bạn để nâng cao năng lực chuyên môn, tích lũy kinh nghiệm trong công
tác chỉ đạo và triển khai đến các trường mầm non để làm tốt hơn.
Tham mưu với lãnh đạo mở rộng mạng lưới cán bộ, giáo viên có năng lực
và năng khiếu về tạo hình, bổ sung cơ sở vật chất trang thiết bị cho các trường
mầm non, tham mưu bổ sung đội ngũ nhân viên còn thiếu… từ đó nâng cao chất
lượng giáo dục mầm non.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Bằng sự nỗ lực của giáo viên, những cố gắng của đội ngũ cán bộ giáo viên
và qua công tác làm đồ dùng học tập, đồ chơi của nhà trường phục vụ cho việc

giáo dục trẻ đạt hiệu quả đã giúp cho các lớp thêm phong phú về đồ dùng, đồ
chơi và đội ngũ cán bộ giáo viên có kiến thức nhiều hơn về việc làm đồ dùng, đồ
chơi từ các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương. Kết quả khảo sát về công tác
làm đồ dùng học tập, đồ chơi của các trường thời điểm tháng 5 năm 2017 như
sau:

TT

Nội dung

Tổng
số
(trường)

Số trường có đủ đồ dùng học tập,
đồ chơi ở mức độ tối thiểu
2 Số lớp có đủ đồ dùng học tập, đồ
chơi tự làm đảm bảo yêu cầu chất
1

Mức độ
Chưa đạt
Đạt yêu cầu
yêu cầu
Số
lượng

%

Số

lượng

%

43

43

100

0

0

43

43

100

0

0

13


lượng, phong phú, hấp dẫn.
Số CBGV có ý thức sưu tầm
3 nguyên vật liệu để làm đồ dùng

học tập, đồ chơi
Số CBGV biết cách làm và vận
4
dụng sáng tạo.
Số CBGV sử dụng có hiệu quả đồ
5
dùng học tập, đồ chơi đã làm.

801

801

100

0

0

801

750

94

51

6

801


780

97

21

3

3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận:
Việc tận dụng làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ các nguyên vật liệu sẵn có ở
địa phương có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục phát triển toàn diện cho trẻ:
Phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm
xã hội và phát triển thẩm mỹ, chính vì vậy nâng cao kiến thức kỹ năng làm đồ
dùng học tập, đồ chơi để có thật nhiều và đầy đủ cho trẻ học và chơi là một
việc làm cần thiết, bổ ích, là trách nhiệm của mỗi cán bộ giáo viên vì đồ dùng
học tập, đồ chơi là người bạn thân thiết, là “sách giáo khoa” giúp trẻ học làm
người. Hơn thế nữa đồ dùng học tập và đồ chơi còn có mối quan hệ chặt chẽ và
bổ trợ cho nhau: Đồ chơi trong một hoàn cảnh nhất định nào đó lại được sử
dụng làm đồ dùng học tập cho trẻ và giáo cụ trực quan cho giáo viên khi có nhu
cầu và ngược lại một số đồ dùng học tập có thể trở thành đồ chơi cho trẻ nếu
thấy phù hợp.
Ngày nay đồ dùng học tập, đồ chơi rất đa dạng và phong phú cùng với sự
phát triển của xã hội, của khoa học kỹ thuật thì đồ dùng học tập, đồ chơi cũng hoàn
thiện dần cùng với thời đại. Trong tương lai đồ dùng học tập, đồ chơi hiện đại sẽ
giúp trẻ tiếp cận với những tri thức tiên tiến nhưng tôi tin tưởng rằng với những đồ
dùng học tập, đồ chơi tự làm bằng các nguyên vật liệu sẵn có ở đia phương, nó vẫn
mãi được phát huy tác dụng và được trẻ tiếp nhận một cách hứng thú đồng thời
được phụ huynh đồng tình ủng hộ bởi nó mang phong cách riêng, tính sáng tạo
riêng, ý tưởng riêng, tình cảm riêng, của mỗi phụ huynh, của mỗi cô giáo và của

chính bản thân mỗi trẻ chứa đựng trong những đồ dùng học tập, đồ chơi đã làm và
đã đựơc sử dụng một cách rộng rãi, hứng thú và có hiệu quả.
3.2. Kiến nghị
Đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hoá thường xuyên mở các
lớp thực hành làm đồ dùng học tập đồ chơi tự tạo bằng các nguyên, vật liệu sẵn
có ở địa phương để giáo viên có cơ hội học tập kinh nghiệm. Tổ chức các hội
thảo học hỏi, rút kinh nghiệm giữa đơn vị trong địa bàn Tỉnh. Hỗ trợ kinh phí và
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường mầm non.
Trên đây là “Một số biện pháp chỉ đạo cán bộ, giáo viên làm đồ dùng,
đồ chơi và sử dụng có hiệu quả cho trẻ tại các trường Mầm non của huyện
Hoằng Hóa”. Qua thời gian tìm tòi và nghiên cứu, không sao tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự quan tâm hỗ trợ, đóng góp ý kiến của Hội đồng
khoa học các cấp để sáng kiến kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn./.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
14


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Hóa, ngày
tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT SKKN

Ngô Thị Đào

15




×