I. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục tiêu của giáo dục Việt Nam là đào tạo con người phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mục tiêu lớn của hệ thống giáo dục Việt Nam nói
chung và giáo dục Tiểu học nói riêng đã và đang được toàn xã hội quan tâm.
Vậy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu hội nhập
Quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang
được đổi mới mạnh mẽ theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4
tháng 11 năm 2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và hiện nay giáo dục kỹ năng sống đang là vấn đề được đặc biệt
quan tâm. Nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ, chúng ta có thể
khẳng định: kỹ năng sống là sản phẩm bắt buộc phải có của giáo dục nhà trường,
nó không phải là môn học mới đưa vào nhà trường. Nó bao trùm toàn bộ các
môn học và hoạt động giáo dục. Giáo dục kỹ năng sống bằng việc làm cụ thể,
thông qua giải quyết những tình huống thực, chứ không được nhồi nhét, áp đặt,
giáo điều mà cần dạy cho học sinh học cách sống thực và hành động ngay trong
cuộc sống thực tại nhà trường để làm cho các em có đủ năng lực sống bình
thường, biết làm chủ bản thân và sống tự tin, ổn định trong xã hội hiện đại.
Xuất phát từ nhu cầu rèn kĩ năng sống cho các em ở trường Tiểu học trong
giai đoạn hiện nay, bản thân là một quản lý tôi đã rất trăn trở và đây cũng chính
là lý do tôi đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Đông Lĩnh B” làm sáng
kiến kinh nghiệm của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống thông qua công tác chỉ đạo
giáo viên nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng
phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành
mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ,
các tình huống và hoạt động hàng ngày.
- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của
mình và phát triển hài hòa thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Biểu hiện kĩ năng sống của học sinh Tiểu học.
- Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh Tiểu học.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Tìm hiểu Chiến lược phát triển giáo
dục; Nghị quyết; Thông tư,…Dựa vào các tài liệu giáo dục kĩ năng sống; Hướng
1
dẫn hoạt động GDNGLL; Sách giáo khoa, sách giáo viên cấp Tiểu học của Bộ
giáo dục và Đào tạo phát hành.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát sư phạm;
Phương pháp dùng lời; Phương pháp đàm thoại; Phương pháp thống kê…
2
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Kĩ năng sống là gì?
Kĩ năng sống là năng lực tâm lý xã hội giúp cá nhân giải quyết có hiệu
quả những nhu cầu và thách thức của cuộc sống. Như vậy, giáo dục kĩ năng sống
là làm sao trang bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng về cuộc sống để các
em có thể thích ứng với cuộc sống, để có thể tự mình xử lý mọi tình huống trong
thực tế một cách tốt nhất. Đối với học sinh bậc Tiểu học là lúc trẻ bắt đầu phải
sống và học tập theo phương thức mới, cho nên trẻ 6 tuổi đến trường từ chỗ học
bắt chước các thao tác tay chân sang chỗ học cách tư duy. Hay nói cách khác
"Học sinh tiểu học lần đầu tiên học cách học và hình thức kỹ năng làm việc trí
óc". Vì vậy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua các môn học
chính khóa và Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp có ý nghĩa rất quan trọng.
Vậy yếu tố cấu thành nội dung và phương pháp nào để chuyển tải nó ra
sản phẩm tương ứng ở trẻ em? Nhiều nhà giáo hiện nay còn đang băn khoăn,
tranh luận: Muốn xây dựng chương trình nhằm hình thành năng lực của học sinh
thì phải làm thế nào? Làm thế nào để có một chương trình giáo dục vừa học
được các năng lực cơ bản như tư duy, phân tích, tổng hợp, ra quyết định và hành
động vừa có các kỹ năng cụ thể như nghe, nói, đọc, viết, múa hát, giao tiếp, ứng
xử... tức là các kỹ năng sống. Chúng ta cần phải quan tâm tới cả nội dung học và
phương pháp học. Nội dung phải có hệ thống và hiện đại thì mới tạo ra được tư
duy logic hiện đại. Phải cho người học nắm được bản chất của vấn đề thông qua
các thao tác trí óc như so sánh, phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, khái quát hóa,
cụ thể hóa bằng việc làm của người học thì mới có kỹ năng chắc chắn.
Vậy, xây dựng kỹ năng sống sẽ giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức (cái
chúng ta biết) và thái độ, giá trị (cái cần làm và cách cần làm nó) thành hành
động thực tế theo xu hướng tích cực, tốt đẹp.
Để đạt được mục tiêu đề ra, nền giáo dục phải chủ động tổ chức quá trình
giáo dục, chọn nội dung giáo dục phù hợp thể hiện được những thành tựu vật
chất hiện đại nhất của nhân loại, biết phân giải bản thân, quá trình đó bằng
nghiệp vụ sư phạm chuyển vào trong người học, có tổ chức, có kế hoạch, từng
bước thực hiện quá trình sao cho người học đạt được những sản phẩm chắc
chắn. Có thể nói: Nhà trường là nơi trẻ em đang sống và phát triển. Ở trường, trẻ
em trưởng thành về cơ thể và phát triển nhân cách. Là cuộc đời thật, trẻ phải
được học sao cho có kỹ năng sống chứ không phải chỉ có lý thuyết suông.
Vậy nội dung học tập của trẻ trong nhà trường chính là những nội dung
trong đời sống hiện thực với những thành tựu vật chất và tinh thần, với những
quan hệ kinh tế - xã hội của xã hội. Vậy là về bản chất nhà trường là nơi diễn ra
cuộc sống thực của trẻ em và bằng cách tổ chức những hoạt động trên những nội
dung thực ấy mà tổ chức quá trình phát triển tâm lý, trưởng thành về cơ thể của
trẻ. Chất lượng giáo dục được quyết định bằng sức mạnh vật chất của việc học.
Việc giáo dục kĩ năng sống có thực hiện được hay không một phần chính là do
công tác chỉ đạo từ phía Ban giám hiệu nhà trường mà ở đó hiệu trưởng đóng vai
3
trò nòng cốt. Nhằm thông qua đội ngũ giáo viên huấn luyện cho học sinh Tiểu
học những kỹ năng làm việc trí óc trên cơ sở các thao tác tay chân đã có và lý
thuyết của môn học. Để có kỹ năng sống, các em cần có kỹ năng tư duy tốt như
phân tích, so sánh, tổng hợp, phán đoán, đưa ra những kết luận đúng đắn.
2. Thực trạng về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu
học Đông Lĩnh B
* Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến
địa phương.
Nhân dân xã Đông Lĩnh có truyền thống hiếu học; nhiều học sinh nghèo
nhưng đã khắc phục khó khăn vươn lên trong học tập.
Các tài liệu giáo dục kỹ năng sống đầy đủ kịp thời; truyền thông rửa tay
bằng xà phòng; P/S bảo vệ nụ cười Việt Nam được học sinh hưởng ứng cao.
* Khó khăn:
- Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh trường Tiểu học Đông Lĩnh B
nói riêng hiện nay kĩ năng sống còn rất nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục
chúng ta chỉ mới quan tâm đến việc dạy chữ mà chưa quan tâm nhiều đến việc
dạy làm người cho học sinh. Vì vậy, thích ứng với xã hội với xung quanh là vấn
đề khó với các em. Qua tìm hiểu điều tra cho thấy tình trạng học sinh nói tục,
chửa bậy, đánh nhau,... vẫn xảy ra. Trong đó kĩ năng như chăm sóc sức khỏe ban
đầu; tương trợ nhau, giao tiếp, diễn đạt trước đám đông được giáo viên tích cực
hình thành nhưng chưa được thể hiện nhiều.
- Nhận thức về tầm quan trọng của giáo viên cũng như phương pháp dạy
đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức. Giáo viên mỗi người hiểu một cách khác
nhau. Nhiều giáo viên coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp từ đó cũng coi nhẹ việc
rèn kĩ năng sống cho học sinh.
- Trường nằm xa huyện lị là địa bàn thuần nông gần chợ, có nhiều ao hồ
rộng và kênh mương chảy qua. Rất nhiều bố mẹ học sinh đi làm ăn xa, học sinh
phải ở với ông bà nên thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Đây chính là điều
kiện khó khăn nếu không có sự phối hợp và quản lý tốt của nhà trường - gia đình
- xã hội.
- Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho các
em học sinh? Với vai trò là Hiệu trưởng , bản thân luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm
ra các biện pháp đem lại hiệu quả thiết thực trong việc rèn kỹ năng sống cho học
sinh ở đơn vị mình công tác.
3. Biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trường Tiểu học Đông Lĩnh B
3.1. Làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho giáo viên,
học sinh và phụ huynh tạo sự đồng thuận trong giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh
Công tác tuyên truyền tại cộng đồng và trong nhà trường là vô cùng quan
trọng để nâng cao kiến thức và hỗ trợ người dân thay đổi thói quen tập quán
4
không có lợi cho cuộc sống. Cung cấp tài liệu giảng dạy và tổ chức tập huấn cho
cán bộ, giáo viên, nhân viên để làm tốt việc rèn luyện kỹ năng sống cho học
sing. Chẳng hạn như một số kỹ năng sống cần được vận dụng trong quá trình
giảng dạy và đưa ra các tình huống cũng như khả năng cần có những hành vi
thích nghi, tích cực cho phép chúng ta xử trí và ứng xử hiệu quả trước những đòi
hỏi thách thức của cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, phân tích để học sinh hiểu:
Bản thân các kỹ năng sống là khả năng ứng xử theo những cách nhất định trong
một môi trường cụ thể phù hợp.
Bên cạnh đó, việc ảnh hưởng từ nhân cách và công việc quản lý, giáo dục
của thầy cô giáo tác động rất lớn đến các em học sinh tiểu học. Chỉ đạo nâng cao
chất lượng giáo dục kĩ năng sống Tiểu học đòi hỏi người hướng dẫn phải có
nhiều kiến thức về tâm lý phát triển của học sinh Tiểu học, phải có tâm huyết,
tính kiên nhẫn, có sự lắng nghe tốt, có sự phối hợp với các lực lượng giáo dục
trong nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác quản lý, giáo dục. Đồng thời
phải có biện pháp, phương pháp quản lý, giáo dục và đặc biệt phải có được sự
tin tưởng vào đồng nghiệp và yêu thương học sinh.
Ví dụ: Để học sinh biết cách giữ gìn cho đôi bàn tay luôn sạch thông qua
việc rửa tay bằng xà phòng cần phải tuyên truyền để học sinh biết rằng trên 1cm 2
da của người bình thường chứa tới 40.000 vi khuẩn theo các nhà khoa học kết
luận. Đặc biệt số lượng này còn nhiều hơn trên da bàn tay vốn là nơi thường
xuyên tiếp xúc với đủ mọi vật trong cuộc sống hằng ngày. Theo Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) chỉ một động tác rửa tay sạch có thể giảm 47% nguy cơ mắc bệnh
tiêu chảy. Ngoài ra, việc rửa tay với xà phòng đúng cách có thể làm giảm nguy
cơ nhiễm khuẩn đường hô hấp nguy hiểm như SARS, cúm A (H5N1) và bệnh
tay chân miệng. Hiện nay, ở một số nơi trên đất nước ta cùng với tình trạng thiếu
nước sạch và điều kiện vệ sinh yếu kém, việc không rửa tay bằng xà phòng vào
các thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh đã góp phần làm
gia tăng các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán. Thông qua tuyên truyền giúp học
sinh thấy được tác dụng của việc rửa tay sạch sẽ nâng cao sức khỏe cho mọi
người. Đây chính là giáo dục kỹ năng sống cho các em để có cuộc sống tốt đẹp
lên.
3.2. Chỉ đạo việc giáo dục kỹ năng sống qua các môn học chính khóa
trong nhà trường
Để khắc phục tình trạng dạy học mang tính sách vở, học sinh chỉ biết học
và làm bài trong sách giáo khoa mà không được vận dụng thực hành trải nghiệm
trong cuộc sống chúng tôi đã thực hiện:
- Chuẩn bị tâm lý, phân công chuyên môn, sắp xếp chương trình, thời
khóa biểu một cách hợp lý giữa các môn học ở các khối lớp, phân chia khối lớp,
có kế hoạch dạy đảm bảo kiến thức, kỹ năng. Đồng thời phân công giáo viên hỗ
trợ, cán bộ hướng dẫn nhân viên phục vụ sao cho khoa học, vừa đảm bảo thời
gian học trên lớp, vừa đảm bảo nội dung giáo dục kỹ năng sống theo kế hoạch.
Mở chuyên đề, hội thảo khoa học và tổ chức dạy thể nghiệm các bài dạy có nội
dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống.
5
Ví dụ: Như môn Đạo đức, là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở
trường tiểu học nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù
hợp với các chuẩn mực xã hội. Dạy học môn Đạo đức kết hợp hài hòa giữa việc
trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kỹ năng hành
vi cho học sinh, đồng thời tạo cơ hội để các em được thực hành, trải nghiệm
nhiều kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Sau đây là một thiết kế bài
dạy Đạo đức lớp 5: Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, mà đơn vị chúng tôi đã dạy
thể nghiệm trong chuyên đề hội thảo về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
* Mục tiêu bài học:
Sau khi học xong bài này học sinh có khả năng kể được một vài tài
nguyên thiên nhiên ở nước ta và ở địa phương. Biết vì sao cần phải bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên. Biết giữ gìn, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên phù hợp với khả
năng.
* Các kỹ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài đó là:
- Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin về tình hình tài nguyên ở nước ta.
- Kỹ năng tư duy phê phán (biết phê phán đánh giá những hành vi phá
hoại tài nguyên thiên nhiên).
- Kỹ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng của mình về bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên.
* Sử dụng các phương pháp dạy học.
- Phương pháp thảo luận nhóm, xử lý tình huống.
- Phương pháp tư duy động não.
* Đồ dùng và phương tiện dạy học.
Vật thật, các tranh, ảnh, băng hình, bài báo, bản tin về tình hình khai thác,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên, về các hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
ở nước ta và trên thế giới.
Tiết 1: Vào bài: Khám phá,
- Giáo viên cho học sinh xem một số tranh ảnh có liên quan đến đất đai,
sông suối, kênh đào, biển, than đá, thác nước, đập chắn nước, nhà máy công
trình kiến trúc...
- Hỏi học sinh: Trong các tranh, ảnh vừa được quan sát, theo các em
những gì là tài nguyên thiên nhiên? những gì không phải là tài nguyên thiên
nhiên? (học sinh trả lời, mỗi em nêu một ý kiến ngắn gọn). Giáo viên ghi tóm tắt
lên bảng (các ý kiến trùng lặp chỉ ghi một lần).
Hỏi: Theo các em thế nào là tài nguyên thiên nhiên? (học sinh trả lời, nhận xét,
trao đổi chung cả lớp).
Giáo viên kết luận và giới thiệu bài tài nguyên thiên nhiên là tất cả những
gì có trong tự nhiên và có ích cho cuộc sống của con người như: Nước ngầm,
đất trồng, thác nước, gió, biển, than đá, quặng a pa tít, dầu khí, rừng núi. Vậy
chúng ta cần phải đối xử như thế nào đối với tài nguyên thiên nhiên? Bài học
hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu.
Giáo viên ghi mục bài: Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
Hoạt động 1: Tìm hiểu về sự cần thiết phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh động não: Theo các em, vì sao cần phải
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ? Học sinh nêu các ý kiến, lý do ngắn gọn, giáo
6
viên ghi nhanh lên bảng: Cần phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên vì tài nguyên
thiên nhiên rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Nguồn tài nguyên thiên
nhiên không phải là vô hạn, nếu không biết bảo vệ sẽ bị cạn kiệt.
Hoạt động 2: Tìm hiểu về những việc cần làm để bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên.
* Tổ chức hoạt động nhóm, chia học sinh ra thành các nhóm thảo luận và
yêu cầu mỗi nhóm tìm ra 3 việc cần làm để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và ghi
mỗi việc cần làm vào bảng nhóm.
- Gắn các bảng nhóm lên bảng, hướng dẫn cả lớp loại bỏ các ý kiến trùng
lặp, phân loại và cùng nhau thảo luận sâu về từng biện pháp.
* Kết luận: Để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cần phải thực hiện đồng bộ
nhiều biện pháp như:
- Tuyên truyền, vận động mọi người trong cầu cộng đồng bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.
- Khai thác tài nguyên một cách hợp lý có kế hoạch.
- Sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
- Tái chế, tái sử dụng các phế thải, phế liệu.
- Không làm ô nhiễm nguồn nước, sông, suối, biển, không chặt phá đốt
rừng bừa bãi.
- Ban hành luật pháp về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Ngăn chặn, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm.
* Giáo viên nêu câu hỏi thảo luận chung cả lớp.
- Ai là người có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên này?
- Các con có thể làm những việc làm cụ thể nào để góp phần bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên? (học sinh có thể nêu những việc làm cụ thể khác nhau về
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên).
Giáo viên kết luận: Mọi người đều có trách nhiệm tham gia bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên bằng những việc làm phù hợp với khả năng như: Sử dụng
tiết kiệm điện, nước, sách vở, đồ dùng, không vứt rác, đổ nước thải xuống các
nguồn nước sinh hoạt, sông, suối, biển, không chặt phá, đốt rừng bừa bãi, tuyên
truyền vận động gia đình, bạn bè, làng xóm thực hiện bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ tài nguyên thiên nhiên do nhà
trường địa phương tổ chức, báo cho nhà chức trách khi phát hiện những hành vi
khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên. Tích cực phòng chống cháy rừng,
nghiêm cấm việc đưa lửa vào rừng.
Hướng dẫn gợi ý học sinh nêu nội dung bài học: Bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên là bảo vệ cuộc sống con người hôm nay và mai sau.
- Gọi 2 đến 3 học sinh đọc lại bài học.
* Phần Thực hành:
Hoạt động 3: Xử lý tình huống.
* Tổ chức thảo luận nhóm đôi, mỗi cặp xử lý một trong các tình huống
sau.
- Tình huống 1: Em thấy bạn của mình thường có thói quen thay vở mới
trong khi vở cũ còn rất nhiều giấy trắng.
7
Em sẽ: Khuyên bạn không nên thay vở mới khi vở cũ còn nhiều giấy
trắng vì như vậy sẽ gây lãng phí giấy, tồn tiền của cha mẹ.
- Tình huống 2: Em thấy có người vứt xác súc vật chết xuống sông.
Em sẽ: Ngăn lại và nói với người đó rằng: không được vứt xác súc vật
chết xuống sông vì nếu làm thế sẽ gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt và ô nhiễm
môi trường.
- Tình huống 3: Em thấy người trong gia đình thường xuyên không tắt
đèn, không tắt ti vi khi ra khỏi nhà.
Em sẽ: Nhắc nhở người đó nhớ tắt đèn, ti vi khi ra khỏi phòng để tiết kiệm điện.
- Tình huống 4: Em thấy bạn mình rửa tay xong quên không khóa vòi
nước.
Em sẽ: Nhắc bạn nhớ khóa vòi nước sau khi rửa tay để tiết kiệm nước.
Học sinh nêu, trả lời, cả lớp cùng thảo luận chung về các ứng xử phù hợp
trong mỗi tình huống.
Giáo viên kết luận: Cần phải nhắc nhở mọi người sử dụng tiết kiệm điện
nước, đồ dùng và không làm ô nhiễm nguồn nước để góp phần bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.
Dặn dò: Trong học tập và sinh hoạt các em phải biết bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như tuyên truyền thực hiện sử
dụng tiết kiệm năng lượng trong cộng đồng, phòng chống cháy rừng, biết gom
và xử lý rác đúng quy định, sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở địa phương, thân
thiện với môi trường. Dọn sạch rác ở các tuyến đường nơi em ở.
(Hoạt động này giúp học sinh được rèn luyện kỹ năng hợp tác, kỹ năng
đảm nhận trách nhiệm).
Tóm lại: Nội dung giáo dục kỹ năng sống của bài dạy thể hiện giáo dục
bảo vệ môi trường sinh thái và giáo dục vì phát triển bền vững đang là vấn đề
không chỉ của nước ta và cả nhân loại trên toàn thế giới. Hướng vào các nội
dung này trong từng bài học cũng chính là mở ra cơ hội cho học sinh được tiếp
thu những tri thức và các giá trị, cách ứng xử, lối sống phù hợp nhằm đảm bảo
tương lai bền vững, giáo dục con người có khả năng làm chủ, có ý thức coi mình
là một công dân sinh thái một cấu thành của tự nhiên, hiểu được vai trò của
mình với môi trường tự nhiên và xã hội, hình thành cho mình khả năng quyết
định và hành động liên quan đến chất lượng cuộc sống, hình thành một lối sống
hài hòa, thân thiện với thiên nhiên và con người, vì một xã hội bền vững về kinh
tế, môi trường, xã hội.
Mặt khác, hiệu trưởng trường cần nắm bắt, cập nhật các nội dung mới của
cuộc sống hiện đại để bổ sung kịp thời cho giáo viên trong quá trình giảng dạy
nhằm góp phần tích cực trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong quá
trình chỉ đạo bản thân trực tiếp trao đổi với giáo viên chủ nhiệm các lớp về kế
hoạch tổ chức học tập, thực hiện nhiệm vụ cụ thể, phương pháp dạy thực tế bằng
các hoạt động thiết thực như "Rửa tay bằng xà phòng" với thông điệp: "Hãy
trao yêu thương đừng trao vi khuẩn". Sau đây là một tiết dạy thể hiện giáo dục
kỹ năng sống tốt qua việc giữ gìn đôi bàn tay luôn sạch sẽ qua việc rửa tay sạch
bằng xà phòng góp phần thực hiện tích cực trong việc phòng chống lây nhiễm
8
bệnh tật và nâng cao sức khỏe cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3
nói riêng.
* Mục tiêu tiết dạy: Rửa tay bằng xà phòng (Lớp 3)
- Học sinh nắm được vai trò của đôi bàn tay, biết được tác hại của đôi bàn
tay bẩn đối với sức khỏe của cá nhân và cộng đồng.
- Biết giữ gìn bàn tay của mình sạch sẽ và biết hướng dẫn người khác
cách rửa tay bằng xà phòng.
- Luôn gương mẫu thực hiện rửa tay sạch, thường xuyên nhắc nhở mọi
người trong gia đình và bạn bè thực hiện rửa tay sạch bằng xà phòng.
* Đồ dùng dạy học.
- Bộ tranh rời "Các bước rửa tay"; Phiếu bài tập rửa tay sạch; Giấy A 0,
băng dính,…
- Bộ đồ thực hành rửa tay gồm: Thùng có vòi, xô hoặc chậu đựng nước
sạch và gáo múc nước; Xà phòng, chậu sạch; Khăn mặt sạch; Dụng cụ cắt móng
tay (kéo hoặc bấm móng tay).
* Hoạt động dạy và học.
Hoạt động 1: Trò chơi khởi động (10').
- Bước 1: Ổn định lớp, giới thiệu nội dung giờ học (cả lớp sẽ vừa học vừa
chơi dưới sự hướng dẫn của giáo viên).
- Bước 2: Trò chơi: "Đội nào nhanh hơn".
Giáo viên chia lớp thành 2 hoặc 3 nhóm. Phát cho mỗi nhóm một bộ tờ
tranh "Các bước rửa tay" và yêu cầu các nhóm thảo luận trong 1 phút để sắp xếp
thứ tự các bước rửa tay. Sau đó mỗi nhóm cử ra một đội có số thành viên bằng
số tranh được phát và hai bạn tham gia ban giám khảo. Mỗi bạn trong đội được
phân công cầm một tờ tranh "Các bước rửa tay". Khi nghe hiệu lệnh của giáo
viên thì các bạn của mỗi đội lần lượt chạy nhanh lên bảng và dán tranh theo thứ
tự các bước rửa tay (từ bước 1 đến bước 6). Những bạn còn lại của các nhóm
cùng hát bài "Đôi bàn tay" cho đến khi các đội dán xong thì dừng lại.
Bước 3: Các thành viên trong Ban giám khảo nhận xét kết quả của mỗi
đội, đội nào dán đúng nhất và nhanh nhất là đội thắng cuộc.
Bước 4: Giáo viên nhận xét kết quả đánh giá của Ban giám khảo, biểu
dương các đội làm đúng và giải thích ý nghĩa của trò chơi.
Trò chơi này vừa giúp các em hứng thú vào giờ học mới vừa giúp các
em phát hiện thứ tự các bước rửa tay.
Hoạt động 2: Luyện tập (15 ')
Bước 1: Giáo viên phát cho mỗi học sinh một phiếu bài tập "Rửa tay
sạch". Yêu cầu học sinh điền các từ sau vào các chỗ trống của từng câu trong
phiếu bài tập: Xà phòng, ăn, cầm đồ ăn, rửa mặt, đại tiện, tiểu tiện, bẩn, con vật.
Bước 2: Giáo viên mời một vài học sinh đọc kết quả bài tập. Sau mỗi câu
trả lời của học sinh, giáo viên nhận xét và cho đáp án đúng để từng em tự chữa
bài tập của mình.
Bước 3: Sau khi chữa xong bài tập, giáo viên mời một vài em đọc lại và kết
luận.
Kết luận: Hằng ngày phải rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng để phòng tránh
các bệnh lây qua bàn tay bẩn như bệnh tiêu chảy, giun sán, đau mắt,... làm ảnh
9
hưởng đến sức khỏe của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. Mỗi người phải
rửa tay sạch trước khi rửa mặt, trước khi ăn hoặc cầm vào đồ ăn; sau khi đi đại
tiện, đi tiểu tiện; sau khi chơi bẩn hoặc chơi với các con vật.
Thiết kế phiếu bài tập "Rửa tay sạch" (có phiếu kèm theo) (Xà phòng; ăn,
cầm đồ ăn; rửa mặt; đi đại diện, đi tiểu tiện, bẩn, con vật).
Hoạt động 3: Thực hành (15') .
Bước 1: Giáo viên treo bộ tranh (các bước rửa tay) lên bảng và hướng dẫn
cách rửa tay để cả lớp cùng quan sát. Sau đó mời một vài học sinh lên thực hành
rửa tay theo đúng các bước như giáo viên đã giới thiệu.
Bước 2: Giáo viên chia lớp thành hai nhóm. Phân cho mỗi nhóm một bộ
đồ thực hành rửa tay. Từng thành viên của nhóm lần lượt thực hành rửa tay, các
bạn trong nhóm quan sát và góp ý cho bạn nếu làm chưa đúng.
Bước 3: Giáo viên nhận xét kết quả thực hành của học sinh và kết luận:
Mỗi khi bàn tay cầm nắm, đụng chạm vào một vật có dính bẩn, các vi
khuẩn, nấm, trứng giun sán sẽ theo bàn tay mà vào miệng và vào cơ thể, gây cho
mình bị bệnh. Đề phòng bệnh, cần phải rửa tay bằng xà phòng hằng ngày và
hướng dẫn cho nhiều người cùng thực hiện.
Qua dự giờ và chỉ đạo giáo viên thể hiện tiết dạy như đã nêu trên, chúng
tôi thảo luận đóng góp ý kiến, xây dựng tiết dạy về mặt kỹ thuật, kỹ năng sư
phạm không nặng về đánh giá và nhận xét giờ dạy mà coi trọng việc giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh từ chuyển dịch kiến thức và thái độ, giá trị thành hành
động thực tế theo xu hướng tích cực và xây dựng. Giáo dục kỹ năng sống được
vận dụng trong giáo dục vệ sinh ở trường học sẽ giải quyết được nhu cầu của
học sinh, giúp các em nhận thức được những điều có lợi cho sức khỏe cá nhân
và cộng đồng. Đồng thời giúp các em học sinh biết phê phán những thói quen
xấu có hại cho sức khỏe... biết giải quyết ra quyết định đúng và xác định rõ mục
tiêu trong việc thực hiện các hành vi có lợi cho sức khỏe. Trong nội dung giáo
dục hành vi rửa tay bằng xà phòng có thể vận dụng các kỹ năng sống như:
a) Kỹ năng giao tiếp bao gồm: Khả năng giao tiếp chung, lắng nghe,
thuyết phục, đồng cảm, cử chỉ điệu bộ phù hợp.
b) Kỹ năng ra quyết định gồm: Suy nghĩ có phê phán, giải quyết, ứng xử
và ra quyết định.
c) Kỹ năng xác định giá trị như những chuẩn mực về văn hóa, xã hội, thái
độ, các mối quan hệ.
d) Kỹ năng kiên quyết như kỹ năng từ chối: nói "không" thế nào? (kỹ
năng ứng xử).
Song song với việc giáo dục kỹ năng sống về cách bảo vệ môi trường
sống như bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ cơ thể mình không qua các môn
Đạo đức, Khoa học, còn giáo dục cách ứng xử với người thân trong gia đình
bằng tình cảm chân thành sâu nặng thể hiện rõ trong môn Tiếng Việt, đậm nét
nhân văn và tính ưu việt có sức thuyết phục như bài Tập đọc: Thương ông (Lớp
2).
Giáo viên cần thiết kế và thực hiện bài dạy song song với rèn các kỹ năng
đọc hiểu xác định nội dung bài học còn cần phải chú ý giáo dục kỹ năng sống
cho các em là cách ứng xử với ông bà nhằm bồi dưỡng tình cảm kính trọng, yêu
10
quý, lễ phép và biết giúp đỡ ông bà , người thân.
* Chuẩn bị của giáo viên: Bài hát, bài thơ, truyện đọc nói về tình cảm ông
bà với cháu.
* Các việc làm cụ thể:
Chẳng hạn như tìm hiểu về tình cảm ông bà và cháu.
Bước 1: Hát, đọc thơ về ông bà.
Giáo viên: Em hãy hát một bài hát hoặc đọc một bài thơ về tình cảm ông
bà và cháu (học sinh hát hoặc đọc thơ).
Chẳng hạn như bài: Cháu yêu bà.
"Bà ơi bà cháu yêu bà lắm,
Tóc bà trắng, màu trắng như mây
Cháu yêu bà cháu nắm bàn tay
Khi cháu vâng lời cháu biết bà vui".
Hỏi: Trong bài hát nói đến ai? (cháu và bà). Tình cảm giữa họ như thế
nào? (Bài hát nói về tình cảm yêu quý, kính trọng của cháu đối với bà).
Giới thiệu bài: Thương ông.
Giáo viên đọc mẫu toàn bài với giọng đọc diễn cảm, trìu mến và xúc động
(tạo sức truyền cảm).
Gọi học sinh đọc nối tiếp toàn bài một lượt.
Hỏi: Bạn nhỏ trong bài đã thể hiện tình cảm của mình đối ông như thế
nào?
Đáp: Bạn nhỏ rất thương ông vì chân ông bị đau. Bạn đã giúp đỡ ông
bước lên thềm nhà.
Bước 3: Liên hệ bản thân.
Giáo viên: Ở nhà, em thể hiện tình cảm của mình với ông bà như thế nào?
(em chào hỏi ông bà trước và sau khi đi học về) em nhổ tóc sâu cho ông bà, hoặc
đọc báo cho ông, bà nghe...
- Giáo viên đưa ra một số tình huống cụ thể yêu cầu học sinh đưa ra cách
ứng xử của mình, cả lớp nghe và phát biểu nhận xét thống nhất ý kiến.
Ví dụ: Tình huống 1: Em đang chơi trò chơi điện tử mà em rất thích. Ông
bảo em không chơi nữa, xuống giúp ông đọc báo. Em trả lời ông như thế nào?
Cho học sinh nêu câu trả lời, các học sinh khác nhận xét.
Kết luận: Em trả lời: Vâng ạ, cháu xuống ngay đây ạ! Đồng thời dừng
chơi và nhanh nhẹn xuống giúp ông đọc báo một cách vui vẻ. Giáo viên nhắc:
Khi trả lời ông cần tỏ ra lễ phép, không được nói trống không, luôn nói "ạ" ở
cuối câu.
Kết luận chung: Em cần lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ và người lớn.
Nghe lời và giúp đỡ ông bà những việc làm vừa sức của mình.
Qua các hoạt động giáo dục ở các môn học chính khóa, hằng ngày qua
mỗi tiết dạy chúng ta đang dần dần hình thành cho các em cách sống đẹp, sống
lành mạnh với các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội, các hành
vi, cách sống như gọn gàng ngăn nắp, nói lời hay, làm việc tốt, biết chăm sóc
ông bà bố mẹ, biết hợp tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn, cũng cần được thiết kế
thành các tình huống giả định và giải pháp giải quyết tình huống để các em trài
nghiệm thì kỹ năng sống được hình thành bền vững.
11
3.3. Giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Giáo dục kỹ năng sống ngoài giờ lên lớp là một cơ hội để bổ sung các
hoạt động nhằm giáo dục kỹ năng sống. Tuy nhiên hiện nay chưa có chương
trình cụ thể cho hoạt động này ở cấp tiểu học, nên chúng ta có thể chủ động đưa
nội dung và phương pháp giáo dục kỹ năng sống vào hoạt động này.
Giáo dục ngoài giờ lên lớp là một trong những hoạt động quan trọng ở
nhà trường phổ thông. Nó được quy định trong chương trình chính khóa của các
trường tiểu học và còn là một trong những tiêu chí đạt trường chuẩn quốc gia.
Hoạt động này có ý nghĩa hỗ trợ cho giáo dục nội khóa góp phần phát triển và
hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của học sinh.
Nội dung của hoạt động ngoài giờ lên lớp rất phong phú và đa dạng thể hiện qua
các hoạt động xã hội, văn nghệ, TDTT, tham quan, lao động, viết , vẽ về thế giới
xung quanh ta... Nhờ vậy mà kiến thức tiếp tục được ở trên lớp có cơ hội được
bổ sung , áp dụng, mở rộng thêm trên thực tế, đồng thời có tác dụng nâng cao
hứng thú học tập nội khóa cho các em hơn nữa GDNGLL là yêu cầu bắt buộc
cho mọi đối tượng học sinh. Mỗi em cần phải tham gia tối thiểu 4 tiết/tháng như
quy định của Bộ giáo dục & đào tạo. Giáo dục ngoài giờ lên lớp có nội dung
linh hoạt (tự chọn với học sinh với nhà trường và với cả địa phương). Đối với
đơn vị chúng tôi học sinh ở vùng nông thôn (thuần nông) nên khi chọn lựa nội
dung để đưa vào kế hoạch chỉ đạo thực hiện hoạt động này đảm bảo tính vừa sức
và phù hợp với cơ sở vật chất, đặc điểm văn hóa của địa phương.
Sau đây là một số nội dung giáo dục ngoài giờ lên lớp để rèn kỹ năng
sống tại trường tiểu học chúng tôi thực hiện.
Với đặc điểm của học sinh tiểu học, với tổng số học sinh toàn trường có
148 em (từ khối 1 đến khối 5), khả năng nhận thức, giới tính, sức khỏe và điều
kiện kinh tế ở địa bàn không mấy thuận lợi nên chúng tôi chọn hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp khá phù hợp và dễ làm, gây hứng thú thực sự cho học sinh.
Các em hoạt động rất sôi nổi, hồn nhiên và hiệu quả.
a) Giáo dục kỹ năng sống qua các hoạt động văn nghệ, vui chơi theo
nhóm
- Múa hát dân ca; Hát đồng ca; Hát đơn ca
- Múa hát sân trường
- Trò chơi dân gian (bịt mắt bắt dê, kéo co,…)
- Nhảy Erobic
- Đóng kịch.
b) Giáo dục kỹ năng nghệ thuật qua các việc làm
- Nặn tạo hình.
- Gấp các con vật.
- Làm bút bê bằng giẻ vụn.
- Vẽ, tô màu, tranh trang trí.
- Làm bưu thiếp.
c) Giáo dục kỹ năng nghệ thuật bằng ngôn ngữ
- Đọc truyện và vừa kể chuyện vừa miêu tả bằng hành động.
12
- Cách giao tiếp và giới thiệu về bản thân mình trong các hoạt động giao
lưu văn hóa văn nghệ, làm báo tường, báo ảnh,…
- Xem phim và tập kể lại.
- Thi Kể chuyện sáng tạo.
d) Giáo dục kỹ năng tự phục vụ
- Sắp xếp sách vở, đồ dùng sinh hoạt của bản thân gọn gàng ngăn nắp.
- Dọn dẹp nhà cửa.
- Gấp quần áo.
- Ứng phó với mệt nhọc.
- Vệ sinh thân thể, biết cách rửa tay bằng xà phòng và nhắc nhở những
người xung quanh luôn có ý thức rửa tay bằng xà phòng đúng lúc, đúng cách.
- Có kỹ năng và ý thức tham gia giao thông đúng luật.
e) Giáo dục kỹ năng tham gia hoạt động chung
- Tham quan học tập.
- Thăm và giúp đỡ gia đình thương binh liệt sĩ.
- Tổ vui đón Tết trung thu ( Trích quỹ lớp 5000đ/em)
h) Giáo dục kỹ năng bảo vệ môi trường
- Xây dựng trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện.
- Xây dựng lối sống tiết kiệm, chia sẻ, tương thân tương ái trong học tập,
vui chơi và sinh hoạt hằng ngày.
- Gìn giữ và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chăm sóc cây cối…
* Tổ chức thực hiện:
Đối với bản thân luôn chăm lo, hướng dẫn chỉ đạo các giáo viên của mình
một cách cụ thể nhằm tạo động cơ, điều kiện để họ tích cực làm việc và làm việc
có hiệu quả, đồng thời giữ vai trò kết nối thành lập các mối liên hệ với các cá
nhân và tổ chức bên ngoài nhà trường để ủng hộ nhà trường hoàn thành sứ mệnh
của mình như lập kế hoạch hoạt động, giám sát, điều chỉnh bổ sung kế hoạch và
đánh giá việc thực hiện kế hoạch bằng hiệu quả thực hiện của các thành viên
trong nhà trường cũng như các kỹ năng sống được thể hiện qua trải nghiệm thực
tế của học sinh.
Tăng cường mối liên kết với chính quyền địa phương và tổ chức hoạt
động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để đề nghị sự hỗ trợ về mọi mặt cũng
như bảo vệ an toàn cho học sinh, cụ thể: Trong chủ điểm tháng 12 "Học tập tấm
gương anh bộ đội Cụ Hồ" trường đã liên hệ với Hội cựu chiến binh xã đến nói
chuyện với CBGV và học sinh toàn trường trong tiết chào cờ đầu tuần; đồng
thời tổ chức cho học sinh quét don vệ sinh khu tưởng niệm nghĩa trang của xã;
hoặc tổ chức hưởng ứng Tết trồng cây tại trường… Ngoài ra chúng tôi đã phối
hợp khá nhịp nhàng trong việc phối kết hợp, vận động cha mẹ học sinh tham gia,
hỗ trợ hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
Hằng năm, khi tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh,
nhà trường đã có kế hoạch giới thiệu chương trình giáo dục kỹ năng sống đến
cha mẹ học sinh của lớp, trường trong buổi họp phụ huynh đầu năm để phụ
huynh học sinh nắm rõ cùng hợp tác và đồng hành với nhà trường trong giáo dục
13
kỹ năng sống cho các em. Được trao đổi, bàn bạc và thống nhất phương án tổ
chức thực hiện thì ban đại diện hội cha mẹ học sinh có trách nhiệm phân công
phụ huynh cùng tham gia. Bởi vì trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu
học không chỉ có thể tổ chức dạy học bó hẹp trong 4 bức tường của lớp học mà
chúng tôi đã mạnh dạn trong việc tổ chức các hoạt động thực tiễn, để các em
lắng nghe được quan sát, biết tư duy và đặt câu hỏi, phân công nhiệm vụ trong
lớp, nhóm, trực tiếp bón phân, nhỏ cỏ, tưới nước,…Việc làm đó đã giúp các em
tìm hiểu về sự sinh trưởng của cây, lợi ích tác dụng của cây sẽ làm cho đầu óc
các em thư thái, thân thiện với môi trường và thiên nhiên đồng thời giáo dục các
em quý trọng sức lao động và sự kính trọng lòng biết ơn người lao động từ đó
các em dần được trưởng thành lên trong cảm xúc, nhận thức, hành vi, việc làm
và kỹ năng giao tiếp có hiệu quả nhằm tạo niềm tin và mạnh dạn trong học sinh
thông qua các hoạt động trải nghiệm, khám phá với "Người thật, việc thật, cảm
xúc thật".
Tóm lại: qua thực tế đã và đang làm ở đơn vị chúng tôi, giáo dục kỹ năng
sống phải giúp học sinh nâng cao năng lực để tự lựa chọn giải pháp cho các vấn
đề xẩy ra xung quanh các em. Vì thế, giáo dục kỹ năng sống phải từ cuộc sống,
ngay trong cuộc sống. Nội dung giáo dục kỹ năng sống phải từ chính nhu cầu và
kinh nghiệm của học sinh. Các em được thực hành, trải nghiệm và rất cần cơ hội
thâm nhập thực tế. Qua thực tế trải nghiệm nhiều lần có sai, có đúng các em sẽ
tự rút ra những bài học, kinh nghiệm cho mình, từ đó các em có thể ứng phó với
những tình huống thực trong cuộc sống một cách tự chủ.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
Qua hai năm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học
chúng tôi bước đầu đã có kết quả rõ nét: Từ hai năm về trước học sinh trường tôi
vẫn còn có nhiều học sinh nói, viết, diễn đạt, giao tiếp còn lúng túng, thiếu tự
tin. Các em thường nhút nhát, sợ sệt, không tự tin vào bản thân mình. Hiện nay,
qua quá trình dày công trong việc giáo dục và rèn kỹ năng sống của mỗi nhà
giáo và nhà trường nên hàng tuần, hàng tháng các em đã có sự tiến bộ vượt bậc
trong nói, đọc, viết cũng như giao tiếp, nhiều em rất tự tin, các em mạnh dạn
hơn, nói năng lễ phép, cử chỉ thân thiện. Các mâu thuẫn, căng thẳng trong học
tập, lao động và vui chơi ít xẩy ra hơn. Khi có xích mích nhỏ giữa một vài bạn
trong lớp thì các em đã biết kiểm soát cảm xúc, phân tích, thương lượng, cảm
thông và giải quyết nhẹ nhàng, không ai bị làm tổn thương, không có sự bất bình
xẩy ra, lớp đoàn kết, thân thiện. Bên cạnh đó, các em luôn có ý thức sắp xếp và
thực hiện các hoạt động học tập cũng như hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường
và ở nhà. Thực hiện các nếp sống văn minh, lịch sự tích cực tham gia vào các
hoạt động xã hội tham gia các phong trào bảo vệ môi trường ở địa phương để
cảnh quan nơi chúng ta sinh sống luôn xanh, sạch, đẹp và thân thiện.
Dưới đây là một vài Thống kê về chất lượng giáo dục toàn diện đã đạt
được tại Trường Tiểu học Đông Lĩnh B
* Về chất lượng giáo dục :
14
Chất lượng các
Chất lượng các môn Giáo dục
Năng lực và
Tổng số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Phẩm chất
học sinh
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
148 em 147 em 99.3 % 101 em 68.2 % 45 em 30.4 %
2 em
1.4%
* Về chất lượng giáo dục kỹ năng sống của học sinh:
Trong 2 năm gần đây: Không có học sinh bị tai nạn giao thông; không có
học sinh bị tai nạn điện giật; không có học sinh bị tai nạn đuối nước; không có
học sinh tự kỷ; không có học sinh bị bệnh tay, chân, miệng; không có học sinh bị
bệnh cúm A (H5N1)...
* Các chỉ số về giáo dục kỹ năng sống cụ thể của đơn vị đã đạt được:
Số học sinh biết chăm sóc
sức khoẻ ban đầu
Số học sinh biết giao tiếp và cách ứng xử
Quan tâm
giúp đỡ
bạn bè,
người
thân
SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL
148 145 98 148 100 146 98.6 148 100 148 100 146 98.6 140 94.6 145 98
Tổng Biết rửa
số tay sạch
HS bằng xà
phòng
Tổng số HS
148 em
Biết tự
Biết tự Không bị
Chào hỏi Trình bày
Tự đánh tắm rửa chải tóc, tai nạn
xưng hô
ý kiến
răng
vệ sinh cá mặc quần thương
đúng cách bản thân
nhân
áo sạch sẽ
tích
Số HS biết chia sẻ
giúp đỡ bố mẹ, gia
đình
Số HS thích đến
trường và tích cực
hoạt động vui chơi
Số
lượng
Tỷ lệ
Số
lượng
Tỷ lệ
148 em
100 %
148 em
100%
Số HS yêu thích và
chăm sóc cảnh quan nhà
trường bồn hoa, cây
cảnh, lớp học thân thiện
Số
Tỷ lệ
lượng
148 em
100%
Những kết quả trên đây là những thành tố giúp các em phát triển nhân
cách tốt đẹp và toàn diện. Nó góp phần tích cực trong phong trào "Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực" của ngành giáo dục nói chung và của
trường Tiểu học chúng tôi nói riêng.
15
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để nâng cao chất lượng giáo dục nhằm giúp các em học tốt các môn học
cũng như biết ứng xử chủ động trước các tình huống thực tế xẩy ra đồng thời để
các em được học và "học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng
chung sống" thì ngay từ đầu năm học nhà trường cần quan tâm, chỉ đạo thực
hiện giáo dục kỹ năng sống một cách đồng bộ, thiết thực và hiệu quả. Để làm
được điều này mỗi nhà trường cần làm tốt công tác tuyên truyền gắn với thực
tiễn, mỗi nhà giáo phải xác định được sự cần thiết và tầm quan trọng trong việc
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong tình hình mới. Nhằm giúp giáo viên
có nhận thức đầy đủ về bản chất, mục tiêu, nguyên tắc giáo dục kỹ năng sống,
nội dung của các kỹ năng sống và việc lựa chọn các kỹ năng sống cần giáo dục
cho học sinh. Đồng thời tổ chức thực hành, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật
liên quan đến việc tổ chức dạy kỹ năng sống trên lớp và tổ chức các hoạt động
giáo dục kỹ năng sống từ đó để giáo viên truyền tải đến học sinh những kiến
thức, kỹ năng cần thiết như: Tự nhận thức, xác định gia trị, kiểm soát cảm xúc,
ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, thể hiện sự tự tin, giao tiếp đúng
quy cách, lắng nghe tích cực, thể hiện sự thông cảm, thương lượng, giải quyết
mâu thuẫn, biết hợp tác có tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết
định, tự giải quyết vấn đề, kiên định, đảm nhận trách nhiệm, đặt mục tiêu, kỹ
năng xử lý thông tin. Trong việc hình thành kỹ năng sống cần chú ý đến yếu tố
cảm xúc, tâm lý chi phối đến các kỹ năng. Mỗi lời nói, câu văn, đoạn văn hay
giải quyết một tình huống diễn ra trong học tập, trong cuộc sống hằng ngày đối
với các em là một thành công, một sự khẳng định về giá trị của bản thân. Việc
lĩnh hội kiến thức và vận dụng kỹ năng sống vào thực tiễn của các em là cả một
quá trình và thường xuyên, không chỉ dừng lại ở một bài học, môn học trên lớp
mà nó sẽ được vận dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người nói chung, mỗi
học sinh nói riêng. Bởi vậy, thời gian ở trường, ở lớp mỗi nhà giáo cần tạo tâm
lý cởi mở, thân thiện, gần gũi với tinh thần thoải mái cho các em. Kịp thời động
viên, khen ngợi khi các em có những hành vi, cử chỉ, thái độ, kỹ năng tốt thể
hiện văn minh, lịch sự.
Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học thường hiếu động,
thiếu kiên định, không tự tin nên việc thực hiện các kỹ năng sống gặp những khó
khăn nhất định đòi hỏi các nhà giáo cần có tính kiên trì, chịu khó, dày công "rèn
dũa", luôn ôn tồn dạy bảo các em, gần gũi yêu thương và đồng cảm, tôn trọng
các em. Sự nhiệt tâm, thân thiện, chu đáo của giáo viên là một trong những yếu
tố đảm bảo sự thành công của việc "giáo dục kỹ năng sống" cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống là hình thành và phát triển khả năng làm chủ bản
thân, khả năng ứng xử phù hợp với người khác trong xã hội đồng thời có khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Quá trình đó được
thể hiện ở hoạt động chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc của các nhà giáo và
trọng tâm là hoạt động của học sinh để các em có khả năng làm chủ được bản
thân, ứng phó tích cực các tình huống trong cuộc sống, ứng xử với những người
xung quanh.
16
2. Kiến nghị
Trong quá trình chỉ đạo, thực hiện giáo dục kỹ năng sống các nhà giáo
phải gương mẫu, thân thiện, yêu thương, gần gũi với các em để kịp thời nắm bắt
tâm lý, hoàn cảnh của mỗi em học sinh. Đồng thời có sự kết hợp tay ba: Gia
đình - Nhà trường và Xã hội.
Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp thường xuyên liên tục trong mỗi
buổi học trên sân trường, vườn trường hoặc tổ chức tham quan học tập.
Trong quá trình thực hiện mỗi nhà giáo, nhà trường phải linh hoạt, phối
hợp hài hòa các biện pháp và hình thức tổ chức dạy học, giáo dục luôn tạo cho
các em sự hứng thú, niềm tin trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức và vận
dụng rèn kỹ năng sống có hiệu quả.
Trên đây là một số biện pháp thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh tiểu học mà đơn vị chúng tôi đã làm trong thời gian qua phần nào đã góp
phần tích cực vào việc thực hiện tốt cuộc vận động "Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực". Chắc hẳn vẫn còn nhiều khiếm khuyết mong được
nhận sự góp ý bổ sung của các cấp quản lý và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Đông Lĩnh, ngày 14 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Lê Văn Bình
17