Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn địa lý ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.58 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
VÀ HỌC PHÂN MÔN ĐỊA LÝ BẬC TIỂU HỌC

Người thực hiện: Trịnh Thị Hạnh
Chức vụ:
Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thành Hưng
SKKN thuộc môn: Địa lý

THANH HOÁ, NĂM 2017


MỤC LỤC

TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1
2.2
2.3


2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.4
3
3.1
3.2

Tên nội dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Điểm mới của đề tài
NỘI DUNG
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn
Địa lý bậc Tiểu học.
Giáo viên xác định được mục tiêu và chuẩn kiến thức, kỹ năng
cho từng bài dạy
Một số phương pháp hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức,
kĩ năng phân môn Địa lí
Cách phát huy được tính tích cực, vốn sống, vốn hiểu biết của
học sinh

Xây dựng cho học sinh môi trường học tập
Đảm bảo các điều kiện hỗ trợ tốt cho giáo viên và học sinh
trong dạy học phân môn Địa lí
Phối hợp với các cha mẹ học sinh và các tổ chức đoàn thể trong
dạy học.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
2
2
2
3
3
4
4
4
4
6
6
7
15
16
16
17
18

19
19
19

2


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Để hoà nhập với xu thế phát triển về kinh tế, xã hội và văn hoá của đất nước
cũng như của thế giới, đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam phải có sự đổi mới toàn
diện trên tất cả mọi lĩnh vực. Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
được xem là bước khởi đầu cho hoạt động chấn hưng giáo dục. Chính vì vậy,
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đổi mới tư duy
giáo dục là một cách nhất quán từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương
pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ
bản toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu
vực và thế giới. Xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và
những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường
xuyên. Tạo nhiều cơ hội khác nhau cho người học, đảm bảo sự công bằng trong
xã hội và giáo dục…” [1].
Tiểu học được xem là cấp học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Hiện nay, ở các nhà trường Tiểu học đã và đang vận dụng các thành tựu mới của
khoa học công nghệ cũng như đã sử dụng các phương pháp, các hình thức dạy
học tích cực vào trong quá trình giảng dạy như: Dạy học theo nhóm, dạy học cá
nhân, trò chơi, tham quan,… nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
trẻ, đảm bảo cho học sinh có những hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã
hội và con người. Đồng thời giúp các em có thói quen tự giác tham gia vào các
hoạt động học tập cũng như hoạt động cộng đồng.
Địa lí là phân môn có vị trí quan trọng trong chương trình tiểu học nhằm cung

cấp cho các em những hiểu biết cần thiết về thiên nhiên, về đất nước, quê
hương, dân tộc, về quốc gia và dân tộc khác trên trái đất. Qua việc dạy học phân
môn Địa lí còn giúp giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô
sản, ý thức bảo vệ cũng như cải tạo tự nhiên và xã hội và rèn luyện nhiều kỹ
năng cần thiết cho học sinh trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, trong nhà trường
phổ thông, Địa lí là một phân môn cần thiết mà việc giảng dạy cũng như học tập
không thể không coi trọng. Nhưng thực tế dạy học phân môn Địa lí hiện nay ở
nhà trường tiểu học đạt kết quả chưa cao. Giáo viên còn gặp nhiều khó khăn
trong phương pháp dạy, cách hướng dẫn, tổ chức cho học sinh khai thác, tìm
hiểu kiến thức. Vì vậy, việc tìm kiếm và vận dụng các giải pháp để nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học phân môn này ở bậc tiểu học là rất cần thiết. Đó là lý
do tôi đến với đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học phân
môn Địa lí bậc tiểu học”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học phân môn Địa lí bậc Tiểu học trong nhà
trường hiện nay để nắm được những điểm mạnh, điểm yếu. Trên cơ sở đó đề ra

2


những biện pháp phù hợp, hiệu quả được bản thân vận dụng trong thực tiễn quản
lý và giảng dạy phân môn Địa lí ở nhiều năm học, nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác dạy học phân môn Địa lí.
- Phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm của bản thân với đồng nghiệp trong
việc giảng dạy phân môn Địa lí ở nhà trường và trong địa bàn huyện đối với bậc
Tiểu học.
- Nhằm giúp giáo viên luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng và nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục trong giai
đoạn hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

Năm học 2016-2017, trường Tiểu học Thành Hưng có 25 cán bộ, giáo viên,
nhân viên. Trong đó, giáo viên văn hoá có 14 đồng chí. Trình độ đào tạo 100%
đạt chuẩn trở lên. Số giáo viên có trình độ trên chuẩn chiếm 70%. Hầu hết, giáo
viên có năng lực, nhiệt tình, năng nổ trong công tác. Về phía học sinh, nhà
trường có 334 học sinh. Trong đó: Nữ: 171 em; Dân tộc: 40 em; Nữ dân tộc: 17
em; Khuyết tật: Không. Số học sinh khối 4 và 5 là 125 em được chia đều theo 4
lớp. Bình quân mỗi lớp có 32 học sinh. Hầu hết, các em học sinh của nhà trường
là con nông dân, điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn, một số em bố mẹ đi
làm ăn xa phải ở với ông bà hoặc người thân nên điều kiện quan tâm, chăm sóc
các em còn hạn chế phần nào ảnh hưởng đến chất lượng dạy học của nhà trường.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu,
các văn bản chỉ đạo của các cấp về vấn đề giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Sử dụng các mẫu
phiếu kiểm tra để điều tra, thu thập thông tin khái quát về thực trạng dạy và học
phân môn Địa lý ở nhà trường. Điều tra thông tin thông qua việc báo cáo kết quả
giáo dục học sinh của giáo viên, của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn.
+ Phương pháp quan sát: Quan sát thông qua dự giờ thăm lớp, thông qua công
tác giảng dạy của giáo viên, thông qua các lần kiểm tra định kỳ, thông qua mọi
hoạt động của học sinh trong nhà trường và trong việc tự học tại gia đình cũng
như khi tham gia các hoạt động xã hội của học sinh.
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Sử dụng trong việc nghiên cứu, đánh
giá thực trạng, phân tích, đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Sử dụng phương pháp này để xử lý các
số liệu thu thập, điều tra thực trạng và thu thập kết quả khi áp dụng kinh nghiệm
vào thực tiễn nhà trường.

3



1.5. Những điểm mới của sáng kiến.
- Giúp giáo viên nắm được một số biện pháp hướng dẫn học sinh nắm vững
kiến thức, kỹ năng của phân môn Địa lí như:
+ Cách giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng bản đồ. Phương pháp rèn kỹ
năng sử dụng bản đồ cho học sinh tiểu học.
+ Cách hướng dẫn sử dụng biểu đồ, bảng thống kê, tranh ảnh trong dạy học
phân môn Địa lí.
+ Phương pháp hình thành các mối quan hệ địa lí.
- Biết vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học một cách phù hợp để phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh.
- Xây dựng môi trường học tập để nâng cao chất lượng giáo dục học sinh tiểu
học đối với các môn học nói chung và với phân môn Địa lí nói riêng.
- Đưa ra được một số điều kiện cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học phân môn Địa lí ở các trường Tiểu học.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Việc đổi mới giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu,
nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy
học. Trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học. Mục đích của việc
đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là giúp học sinh phát huy tính
tích cực. tự giác, chủ động, sáng tạo; rèn luyện thói quen và khả năng tự học,
tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau
trong học tập và trong thực tiễn; có niềm vui, hứng thú trong học tập [2].
Địa lí là một phần của môn Lịch sử và Địa lí, được dạy ở lớp 4 và lớp 5. Mục
tiêu quan trọng của dạy học phân môn Địa lí ở Tiểu học là hình thành cho học
sinh một số biểu tượng, khái niệm địa lý và bước đầu hình thành, rèn luyện kĩ
năng sử dụng bản đồ, kĩ năng phân tích số liệu, giúp học sinh hiểu biết về môi
trường xung quanh. Qua đó các em dễ dàng hòa nhập, thích ứng với cuộc sống
xã hội, với môi trường thiên nhiên. Do đặc điểm tâm sinh lý học sinh lứa tuổi

tiểu học chủ yếu còn tư duy trực quan hình tượng nên yêu cầu tri thức của dạy
học phân môn Địa lí chủ yếu chỉ dừng lại ở việc cung cấp các biểu tượng địa lí,
bước đầu hình thành một số khái niệm, xây dựng một số mối quan hệ địa lí đơn
giản. Từ đó, hình thành và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen ham hiểu
biết, yêu thiên nhiên, đất nước con người, có ý thức bảo vệ môi trường, bước
đầu hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Về mặt khách quan:
Thành Hưng là một xã thuộc vùng núi thấp giáp trung tâm huyện. Phần đông
dân cư là nghề nông nên mặt bằng dân trí thấp, không đồng đều. Kinh tế chủ yếu

4


bằng nghề nông mà xã lại thuộc vùng sống chung với lũ nên cuộc sống người
dân rất khó khăn, điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con cái hạn chế. Đây cũng là
một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng dạy học nói chung,
chất lượng dạy học phân môn Địa lý nói riêng.
* Về mặt chủ quan:
- Đối với giáo viên: Trong thực tiễn dạy học nhiều giáo viên kiến thức địa lí
chưa vững, chưa thực sự thấy được vai trò quan trọng của phân môn Địa lí. Giáo
viên chưa nắm vững được phương pháp, cách hướng dẫn học sinh khai thác bản
đồ, lược đồ, biểu đồ, tranh ảnh trong môn học này. Hầu hết giáo viên cho đó là
trực quan dạy học để minh họa, mô tả mà không nắm được đây chính là kiến
thức, nội dung giảng dạy thể hiện trong trực quan. Khi dạy học còn phụ thuộc
nhiều vào bài soạn, lười suy nghĩ, chưa chịu khó tìm tòi, nghiên cứu để nắm
vững kiến thức, tìm hiểu mối quan hệ chặt chẽ giữa nội dung và mục đích bài
dạy. Điều này dẫn đến tình trạng dạy sơ sài, chệch trọng tâm của bài dạy. Ví dụ:
Khi dạy bài “Châu Á” [3] giáo viên không biết cách chỉ vị trí địa lí Châu Á trên
bản đồ, kiến thức bài dạy giáo viên chỉ dừng lại khai thác được kênh chữ ghi

trong sách giáo khoa một cách máy móc.
- Đối với học sinh: Hầu hết học sinh ngại học phân môn Địa lý. Phần lớn học
sinh chưa biết sử dụng bản đồ, quả địa cầu rất nhiều. Qua dự giờ, tôi nhận thấy,
các em thực hành trên bản đồ, quả địa cầu ít, học sinh tìm được các đối tượng
địa lí trên bản đồ rất lâu, mất rất nhiều thời gian. Kiến thức địa lí mà các em nắm
được rất máy móc như một bài học thuộc lòng, chủ yếu phụ thuộc vào thông tin
kênh chữ trong sách giáo khoa. Với cách tiếp thu kiến thức như vậy nên các em
nhớ kiến thức không bền vững chủ yếu chỉ trả lời các câu hỏi trong sách giáo
khoa dựa vào kênh chữ trong sách để trả lời mà không nhớ, không hiểu và nắm
được kiến thức mà chương trình cần chuyển tải đến các em.
Từ thực trạng nêu trên, vào thời điểm tháng 10 năm học 2016-2017, tôi đã
tiến hành khảo sát chất lượng dạy học phân môn Địa Lí qua dự giờ 5 giáo viên
khối 4, 5 và khảo sát kết quả học tập của học sinh khối 4,5 của nhà trường đối
với phân môn này. Kết quả cụ thể qua bảng số liệu 1,2 như sau:
Bảng số liệu 1: Chất lượng giờ dạy của giáo viên
Khối

Số GV

4

Loại giỏi

Loại khá

Loại TB

Loại yếu

SL


TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

3

0

0

1

33

2

67

0


0

5

2

0

0

1

50

1

50

0

0

Tổng

5

0

0


2

40

3

60

0

0

5


Bảng số liệu 2: Kết quả khảo sát chất lượng học sinh
Khối

Số HS

4
5

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu

SL


TL

SL

TL

62

42

68

20

32

63

46

73

17

23

125
88
70
37

30
Từ bảng số liệu 1 và 2, ta nhận thấy: Chất lượng giờ dạy của giáo viên, kết
quả học tập của học sinh chưa cao. Tỉ lệ học sinh chưa đạt yêu cầu, chưa nắm
vững được kiến thức đối với phân môn Địa còn nhiều chiếm tỷ lệ 30%. Tâm lý
học sinh rất ngại học phân môn Địa lí vì nhàm chán, buồn tẻ không gây được
hứng thú học tập. Do đó chất lượng thấp là tất yếu.
Đối với giáo viên thường né tránh phân môn Địa lí khi đăng ký thao giảng,
dạy thực hành hoặc chưa tự tin khi dạy có Ban giám hiệu và đồng nghiệp dự giờ.
Do đó, chất lượng giờ dạy còn hạn chế không có tiết dạy đạt loại giỏi.
Đồ dùng, thiết bị dạy học phục vụ cho phân môn Địa lí hầu hết ở các nhà
trường Tiểu học còn hạn chế chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu của dạy học. Qua
thống kê số liệu cụ thể trong thư viện đầu năm học 2016-2017 như sau: Đối với
lớp 4: có 4 tranh, 2 bản đồ; Lớp 5 có 4 tranh, 5 bản đồ; quả địa cầu 1 quả. Từ kết
quả thống kê ta nhận thấy với phương tiện dạy học như vậy chưa thể đáp ứng
được cho việc nâng cao chất lượng dạy học.
2.3. Một số biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Địa lí
bậc Tiểu học.
2.3.1. Giáo viên xác định được mục tiêu và chuẩn kiến thức, kỹ năng cho
từng bài dạy
Đây là khâu quan trọng đầu tiên khi dạy bất kỳ một bài học nào. Việc xác
định đúng mục tiêu bài học giúp giáo viên vận dụng phương pháp dạy học phù
hợp đảm bảo đúng, đủ nội dung kiến thức. Vì trong thực tế nhiều giáo viên khi
dạy Địa lí còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu sách giáo viên, thiết kế bài dạy. Vì
vậy, giáo viên chưa nắm vững kiến thức, chưa hiểu được mối quan hệ giữa nội
dung và mục đích bài dạy nên kết quả giờ dạy còn yếu. Để khắc phục tình trạng
đó và để xác định đúng mục tiêu, chuẩn kiến thức, kỹ năng của bài dạy giáo viên
cần lưu ý một số điểm sau:
- Nắm chắc nội dung bài dạy.
- Đối chiếu nội dung bài dạy với mục đích của bài để biết:
+ Cái đã có trong mục đích yêu cầu và trong sách giáo khoa.

+ Cái gì chỉ đề cập ở yêu cầu mà không có trong sách giáo khoa.
+ Cái gì có ở yêu cầu nhưng trong sách giáo khoa thể hiện không rõ ràng.
+ Cái gì đã có trong yêu cầu mà sách giáo khoa không thể hiện.

6


Khi nào giáo viên giải quyết đầy đủ những vấn đề trên, giáo viên mới có cơ sở
dạy đúng trọng tâm, truyền thụ kiến thức đúng mục đích, yêu cầu của bài dạy.
2.3.2. Một số phương pháp hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức, kỹ
năng của phân môn Địa lý.
2.3.2.1 Phương pháp hình thành biểu tượng địa lí.
Phương pháp hình thành biểu tượng địa lí là phương pháp, trong đó giáo viên
tổ chức cho học sinh quan sát tại thực địa hoặc qua tranh ảnh, băng hình,…Để
học sinh có được hình ảnh cụ thể về đối tượng đó. Quy trình thực hiện qua 4
bước:
Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát. Tuỳ theo nội dung học tập giáo viên có
thể lựa chọn đối tượng quan sát phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện địa
phương.
Bước 2: Xác định mục đích quan sát: Với mỗi đối tượng địa lí, giáo viên cần
xác định mục đích của việc quan sát. Ví dụ: Khi hình thành biểu tượng về con
sông, giáo viên có thể cho học sinh quan sát qua thực tế hoặc trên băng hình để
thấy được đặc điểm động của nó như hiện tượng nước chảy.
Bước 3: Tổ chức, hướng dẫn cho học sinh quan sát đối tượng thông qua hệ
thống câu hỏi, bài tập. Hệ thống câu hỏi, bài tập được xây dựng trên mục đích
quan sát và trình độ hiểu biết của học sinh.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả quan sát về đối tượng. Sau đó
giáo viên cùng học sinh trao đổi, thảo luận, xác nhận và hoàn thiện kết quả nhằm
giúp cho các em có biểu tượng đúng về đối tượng. [2]
2.3.2.2. Phương pháp sử dụng bản đồ và cách rèn kỹ năng sử dụng bản đồ cho

học sinh tiểu học.
* Phương pháp sử dụng bản đồ:
Bản đồ địa lí là hình vẽ thu nhỏ bề mặt trái đất hoặc một bộ phận của bề mặt
trái đất trên mặt phẳng dựa vào các phương pháp toán học, phương pháp biểu
hiện bằng kí hiệu để thể hiện các thông tin cần thiết về địa lí [2]. Bản đồ phản
ánh sự phân bố và những mối quan hệ của các đối tượng địa lí trên bề mặt trái
đất một cách cụ thể mà không có một phương tiện nào có thể thay thế được.
Theo các nhà khoa học địa lí cho rằng “Tất cả tri thức của địa lí đều được thể
hiện trên bản đồ”, “Bản đồ là con mắt của nhà địa lí”. Do đó, bản đồ vừa là
phương tiện trực quan, vừa là nguồn tri thức quan trọng của việc dạy học Địa lí,
bản đồ là cuốn sách giáo khoa thứ hai. Phương pháp sử dụng bản đồ theo quy
trình 5 bước:
Bước 1: Nắm được mục đích làm việc với bản đồ.
Bước 2: Xem chú giải để có biểu tượng địa lý cần tìm trên bản đồ.
Bước 3: Tìm vị trí địa lí của đối tượng trên bản đồ dựa vào kí hiệu.

7


Bước 4: Quan sát đối tượng trên bản đồ, nhận xét và nêu đặc điểm đơn giản
của đối tượng.
Bước 5: Xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố và các thành phần
địa lí như: Địa hình, khí hậu, sông ngòi, động thực vật,…
* Cách rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ cho học sinh:
Trong chương trình dạy học phân môn Địa lí, ngoài một số bài học về bản đồ
ở lớp 4, không có một bài học nào dành riêng cho việc rèn luyện kỹ năng sử
dụng bản đồ cho học sinh. Vì vậy, trong dạy học giáo viên cần kết hợp chặt chẽ
giữa phương pháp giúp học sinh tìm tòi, lĩnh hội tri thức với việc hình thành và
phát triển kỹ năng sử dụng bản đồ cho học sinh qua từng bài học. Muốn làm
được điều này giáo viên không nên sử dụng bản đồ như một phương tiện minh

họa mà phải sử dụng nó như một nguồn tri thức địa lí quan trọng. Để từ đó, học
sinh khai thác kiến thức, rèn luyện kỹ năng. Đồng thời bản đồ được sử dụng
thường xuyên trong mọi khâu của quá trình dạy học từ bài mới đến ôn tập, kiểm
tra, đánh giá kiến thức, kỹ năng của học sinh.
Trước hết giáo viên phải biết sử dụng bản đồ thành thạo. Cần sử dụng bản đồ
phù hợp với nội dung bài dạy, không sử dụng một loại bản đồ cho nhiều bài dạy,
chỉ đúng, đọc đúng tên trên bản đồ, nắm vững các kiến thức địa lí của bài dạy và
tất cả kiến thức địa lí của bản đồ. Việc giáo viên sử dụng bản đồ trong quá trình
day học có thể coi như một thao tác làm mẫu cho học sinh để giúp học sinh có
khả năng làm việc độc lập với bản đồ trong quá trình dạy học. Để đạt được mục
tiêu trên, giáo viên chú trọng hình thành và phát triển cho học sinh một số kỹ
năng sử dụng bản đồ như sau:
- Rèn kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ: Xác định phương hướng
một cách chính xác trên bản đồ là một kỹ năng cơ bản, quan trọng, nó giúp cho
việc xác định vị trí địa lí hoặc mô tả một đối tượng địa lí trên bản đồ một cách
thuận lợi. Việc rèn kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ cần được nâng
cao dần qua các lớp. Đối với lớp 4 cần xác định 4 hướng chính: Đông, Tây,
Nam, Bắc trên bản đồ. Học sinh lớp 5 cần xác định thêm 4 hướng phụ nữa là:
Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam.
Muốn hình thành kỹ năng xác định phương hướng cho học sinh, trước hết
giáo viên phải yêu cầu học sinh thuộc và nhớ các quy định về phương hướng
trên bản đồ. Người ta quy ước, phía trên bản đồ là hướng Bắc, phía dưới là
hướng Nam, bên phải là hướng Đông, bên trái là hướng Tây. Để rèn kỹ năng xác
định phương hướng bản đồ cho có hiệu quả, giáo viên có thể sử dụng các loại
bài tập dưới nhiều hình thức khác nhau như điền vào chỗ trống, nối, lựa chọn
đúng, sai,…
Ví dụ: Khi dạy bài 1: Việt Nam – Đất nước chúng ta [3]. Giáo viên có thể sử
dụng hệ thống các bài tập như sau:

8



1. Em hãy đọc tên lược đồ hình 1 và cho biết lược đồ này dùng để làm gì?
2. Phần đất liền của nước ta thể hiện trong bảng chú giải như thế nào?
3. Quan sát lược đồ hình 1, em hãy điền từ thích hợp vào chỗ trống.
Phần đất liền của nước ta phía Bắc giáp………,phía Nam giáp…………, phía
Đông giáp,………, phía Tây giáp…………………………………………..
4. Các đảo, quần đảo nước ta là:………………………………………………
……………………………………………………………………………………
Với hệ thống bài tập như trên thì khi trả lời câu hỏi 1 tức là học sinh biết
được nội dung của lược đồ và mục đích của việc làm. Khi học sinh trả lời câu
hỏi số 2 tức là học sinh đã nhận biết được ký hiệu của đối tượng cần xác định
trên bản đồ. Khi học sinh trả lời câu hỏi số 3 tức là học sinh phải xác định được
phương hướng thì mới biết phần tiếp giáp là nước nào. Câu hỏi 4 giúp học sinh
tìm được đối tượng địa lý trên bản đồ. Kỹ năng xác định phương hướng cho học
sinh cần được tiến hành thường xuyên trong quá trình dạy học địa lý. Chẳng hạn
trong bài Châu Âu [3] khi học sinh lên xác định vị trí lãnh thổ của Châu Âu nên
yêu cầu các em vừa chỉ vừa nói: Châu Âu phía Bắc giáp Bắc Băng Dương, phía
Tây giáp Đại Tây Dương, phía Nam giáp Địa Trung Hải, phía Đông, Đông Nam
giáp Châu Á.
- Rèn kỹ năng tìm và chỉ vị trí địa lý, các đối tượng địa lý trên bản đồ: Vị trí
địa lý của một đối tượng nào đó là mối quan hệ không gian của nó đối với các
đối tượng khác có liên quan nằm bên nó. Ví dụ như: một vùng lãnh thổ, một dãy
núi, một con sông,…khi hình thành kỹ năng tìm và chỉ vị trí của các đối tượng
địa lý trên bản đồ, giáo viên chỉ cần đưa ra những bài tập yêu cầu học sinh dựa
vào ngay chú giải và các ký hiệu, chữ viết trên bản đồ để xác định vị trí của các
đối tượng như dựa vào bản đồ hành chính Việt Nam hãy tìm và chỉ vị trí thủ đô
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Nghệ An,…hoặc dựa vào bản đồ tự nhiên
Việt Nam hãy tìm và chỉ dãy núi Trường Sơn, vị trí sông Hồng,…
Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách chỉ vị trí của đối tượng địa lý trên

bản đồ như thế nào cho đúng chẳng hạn:
+ Khi chỉ vị trí của một vùng lãnh thổ thì phải chỉ theo đường biên giới khép
kín của vùng lãnh thổ đó.
+ Khi chỉ vị trí của một dòng sông học sinh phải chỉ xuôi theo dòng chảy.
+ Khi chỉ vị trí của một thành phố học sinh phải chỉ vào ký hiệu thể hiện thành
phố chứ không phải chỉ vào chữ ghi tên thành phố.
+ Biện pháp giúp học sinh nhanh chóng tìm ra vị trí của các đối tượng địa lý
trên bản đồ là giáo viên lưu ý học sinh chú ý tới các dấu hiệu đặc trưng, dễ nhận
biết về hình dạng, kích thước của đối tượng. Ví dụ: Lãnh thổ Việt Nam phần đất
liền có hình giống chữ S, đồng bằng sông Hồng có hình tam giác,..

9


- Rèn kỹ năng đọc bản đồ: Đọc bản đồ là kỹ năng quan trọng nhất của kỹ năng
sử dụng bản đồ. Giáo viên cần hình thành, rèn luyện cho học sinh nhận biết, tìm
kiếm kiến thức trên bản đồ với các mức độ sau:
+ Mức độ 1: Học sinh dựa vào ký hiệu ở chú giải, chỉ và đọc tên các đối tượng
địa lý trên bản đồ.
+ Mức độ 2: Học sinh dựa vào bản đồ để tìm ra đặc điểm của đối tượng
+ Mức độ 3: Học sinh vận dụng kiến thức địa lý đã có xác lập mối quan hệ địa
lý để rút ra những điều mà trên bản đồ không thể hiện một cách trực tiếp (tuy
nhiên do khả năng tổng hợp của học sinh tiểu học còn thấp nên không yêu cầu
cao ở mức độ này với học sinh).
Ví dụ: Khi dạy bài “Dải đồng bằng Duyên Hải Miền Trung”[4]. Giáo viên yêu
cầu học sinh dựa vào màu sắc để tìm vị trí của đồng bằng trên bản đồ. Hơn nữa
học sinh phải dựa vào bản đồ để nhận biết về độ lớn của các đồng bằng miền
Trung, so sánh chúng với các đồng bằng khác ở nước ta như đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Cao hơn thế nữa là học sinh dựa vào bản đồ
và kiến thức địa lý đã có để rút ra được nội dung như: Vì dãy Trường Sơn tiến ra

sát biển, các sông miền Trung đều ngắn, nhỏ, ít phù sa. Đó là nguyên nhân làm
cho đồng bằng miền Trung nhỏ, hẹp.
- Rèn kỹ năng mô tả các đối tượng địa lý dựa vào bản đồ: Trong quá trình
hướng dẫn học sinh đọc bản đồ, giáo viên nên kết hợp việc rèn kỹ năng mô tả
các đối tượng địa lý dựa vào bản đồ như mô tả một dãy núi, một dòng sông, đặc
điểm địa hình một vùng lãnh thổ,…
Ví dụ: Khi mô tả địa hình Châu Mĩ [3] học sinh vừa chỉ vào bản đồ vừa mô tả:
Địa hình Châu Mĩ thay đổi từ Tây sang Đông, dọc bờ biển phía Tây là những
dãy núi cao đồ sộ, ở giữa là những đồng bằng lớn, phía Đông là những dãy núi
thấp và cao nguyên. Hay khi mô tả sông Mê Công (Cửu Long) trên bản đồ học
sinh mô tả lần lượt theo ý: Sông Mê Công bắt nguồn từ đâu? Sông dài bao nhiêu
km? Chảy qua những nước nào? Về Việt Nam sông chia thành mấy nhánh? Tại
sao ở Việt Nam sông Mê Công còn có tên gọi là sông Cửu Long? [6]
- Để rèn luyện kỹ năng sử dụng bản đồ cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần
soạn thảo hệ thống bài tập cụ thể dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngoài ra cần
tăng cường cho học sinh sử dụng bản đồ câm. Bản đồ trống sử dụng trong thực
hành, trong củng cố kiến thức, trong kiểm tra, tổ chức trò chơi.
Ví dụ: Sau khi dạy bài: Địa hình và khoảng sản [3] giáo viên có thể tổ chức cho
học sinh tham gia trò chơi cuối buổi học cho học sinh gắn thẻ chữ ghi tên các
dãy núi vào bản đồ trống cho thích hợp. Từ đó, học sinh nắm vững kiến thức
hơn. Hoặc khi dạy kiến thức địa lý thế giới, giáo viên có thể dùng bản đồ câm
cho học sinh thực hành tô màu các khu vực, các nước đã học. Qua đó, các em
xác định đúng vị trí của các quốc gia, các châu lục trên thế giới. Đồng thời, cần

10


phối hợp chặt chẽ việc sử dụng bản đồ treo tường với bản đồ trong sách giáo
khoa, giữa bản đồ và các đồ dùng dạy học khác để tránh đơn điệu, nhàm chán.
2.3.2.3 Phương pháp dẫn sử, dụng tranh ảnh trong dạy học phân môn Địa lí.

Quy trình sử dụng tranh ảnh trong dạy học phân môn Địa lí sử dụng như sau:
- Giáo viên treo tranh, ảnh và nêu yêu cầu, định hướng cho sự quan sát của học
sinh.
- Cho học sinh quan sát tranh ảnh.
- Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm hoặc chơi trò chơi theo các câu hỏi
định hướng của giáo viên.
- Từ đó rút ra kết luận.
Tranh ảnh ở lớp 5 được cấp phát nhiều hơn đặc biệt với phần địa lí thế giới.
Trong đó có những bức ảnh không có trong sách giáo khoa nên giáo viên không
biết sử dụng lúc nào, cách sử dụng ra sao.
Ví dụ: ảnh Ba chủng tộc trên thế giới có thể sử dụng để dạy trong bài 18, 20,
24, 26 [3]. Ở bài 18 Châu Á [3] giáo viên có thể sử dụng tranh để giới thiệu
người dân Châu Á bằng cách.
Cho học sinh quan sát tranh và thảo luận nhóm theo câu hỏi định hướng của
giáo viên
Tìm và chỉ người Châu Á trong bức ảnh?
Nêu đặc điểm của người dân Châu Á?
Từ đó học sinh rút ra được đặc điểm của người dân Châu Á là (tóc đen, mắt
đen, mũi tẹt, da vàng) và học sinh xác định được người dân Châu Á là một trong
3 chủng tộc chính trên thế giới.
Tương tự cách dạy như bài 18 ở bài 20 Châu Âu [3] giáo viên cũng dùng tranh
để giới thiệu người dân Châu Âu thuộc chủng tộc da trắng trên thế giới và cũng
có đặc điểm (da trắng, tóc vàng, mắt xanh,…). Ở bài 24 Châu Phi [3] giáo viên
cũng dùng tranh để giới thiệu người dân Châu Phi thuộc chủng tộc da đen và
người thuộc chủng tộc này có đặc điểm (da đen, tóc đen, mắt đen, răng trắng,..).
Nhưng trong bài 25 khi dạy bài Châu Mỹ, sau khi giáo viên cho học sinh khai
thác bảng số liệu trong hoạt động 3. Học sinh so sánh, đối chiếu và nhắc lại đặc
điểm chính của từng chủng tộc chính trên thế giới. Từ đó rút ra kết luận : Thành
phần dân cư Châu Mỹ gồm đủ cả ba chủng tộc. [6]
2.3.2.4. Phương pháp sử dụng bảng số liệu:

- Phương pháp sử dụng bảng số liệu là phương pháp, trong đó giáo viên tổ
chức cho học sinh đối chiếu, so sánh, phân tích các số liệu của bảng số liệu để
rút ra nhận xét về kiến thức địa lí. Đối với chương trình Địa lí lớp 4,5 bảng số
liệu chủ yếu là biểu đồ và bảng thống kê.
- Cách hướng dẫn sử dụng biểu đồ: Biểu đồ cũng là phương pháp quan trọng
trong dạy học phân môn Địa lý. Số lượng biểu đồ trong sách giáo khoa không

11


nhiều và chủ yếu là ở lớp 5 nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn kỹ
năng và phương pháp học tập địa lí của học sinh. Vì vậy, trong quá trình dạy học
giáo viên cần biết cách hướng dẫn học sinh sử dụng các biểu đồ như biểu đồ
hình cột, biểu đồ hình tròn.
+ Cách hướng dẫn biểu đồ hình cột: Giáo viên hướng dẫn học sinh theo các
bước sau:
Xác định mục tiêu việc làm.
Đọc tên của biểu đồ để biết nội dung của biểu đồ và quan sát toàn bộ biểu đồ.
Tìm các giá trị biểu hiện ở cả hai trục dọc và ngang.
Đọc số liệu từng cột của biểu đồ và so sánh.
Nhận xét về độ cao của các cột.
Đưa ra kết luận.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động 1 bài 14 “Giao thông vận tải” [3].
Mục tiêu của việc làm: Học sinh nắm được các loại hình giao thông vận tải
trên đất nước ta và biết được loại hình vận tải nào có vai trò quan trọng nhất
trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách.
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát biểu đồ H1-SGK và cho học sinh nêu các
yêu cầu sau:
Đọc tên biểu đồ: (Biểu đồ khối lượng hàng hóa vận chuyển, phân theo loại
hình vận tải năm 2003).

Yêu cầu học sinh tìm các giá trị biểu hiện ở trục dọc và ngang (Giá trị biểu
hiện ở trục dọc là khối lượng hàng hóa đơn vị tính triệu tấn. Giá trị biểu hiện ở
trục ngang là các loại hình giao thông đường sắt, đường ô tô, đường sông, đường
biển).
Cho học sinh đọc số liệu của từng cột ở biểu đồ để so sánh về độ cao.
Tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm các câu hỏi mục 1 SGK.
? Hãy kể tên các loại hình giao thông vận tải trên đất nước ta mà em biết?
? Quan sát hình 1 cho biết loại hình vận tải nào có vai trò quan trọng nhất
trong việc chuyên chở hàng hóa? Vì sao?
Học sinh trình bày kết quả thảo luận.
Kết luận: Nước ta có đủ các loại hình vận tải: đường ô tô, đường sắt, đường
sông, đường biển, đường hàng không. Trong đó đường ô tô có vai trò quan trọng
nhất trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách. Vì đường ô tô có thể đi lại
trên nhiều dạng địa hình, len lỏi vào các ngõ nhỏ nhận và giao hàng ở nhiều địa
điểm khác nhau, đi được trên các loại đường có chất lượng khác nhau.
+ Cách hướng dẫn biểu đồ hình tròn:
Đối với loại biểu đồ này giáo viên cần nắm được các bước sử dụng sau để
hướng dẫn học sinh.
Xác định mục đích của việc làm.

12


Đọc chú giải để biết các đối tượng được ký hiệu như thế nào.
Tìm trên biểu đồ các đối tượng địa lí, so sánh trên biểu đồ về diện tích thể hiện
các đối tượng.
Rút ra kết luận.
Để hướng dẫn học sinh nắm được kiến thức, kĩ năng địa lí thông qua biểu đồ
được thuận lợi giáo viên nên vẽ các biểu đồ lên bảng hoặc giấy khổ to.
+ Cách hướng dẫn sử dụng bảng thống kê

Các bảng thống kê chỉ có ở chương trình Địa lí lớp 5, nó có tác dụng làm sáng
tỏ các kiến thức địa lý. Vì vậy, giáo viên không nên bắt buộc học sinh học thuộc
tất cả các số liệu mà phải biết phân tích các số liệu. Từ đó rút ra kết luận đúng
đắn về kiến thức.
Để giúp học sinh nhanh chóng biết cách phân tích bảng số liệu, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh tiến hành theo các bước sau:
Xác định mục tiêu việc làm.
Đọc kỹ tên của bảng số liệu.
Đọc đề mục các cột để biết số liệu, so sánh, đối chiếu các số liệu theo hàng
dọc, hàng ngang.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động 1 bài 8 “Dân số nước ta” [3].
Xác định mục tiêu việc làm: Học sinh biết dựa vào bảng số liệu để nhận biết
số dân của nước ta. Biết được nước ta là một nước có dân số đông.
Giáo viên treo bảng số liệu về dân số các nước Đông Nam Á năm 2004.
STT

Tên nước

Số dân

STT

Tên nước

(triệu người)

Số dân
(triệu người)

1


In-đô-nê-xi-a

218,7

7

Cam-pu-chia

13,1

2

Phi-lip-pin

83,7

8

Lào

5,8

3

Việt Nam

82,0

9


Xin-ga-po

4,2

4

Thái Lan

63,8

10

Đông-ti-mo

0,8

5

Mi-an-ma

50,1

11

Bru-nây

0,4

6


Ma-lai-xi-a

25,6

Bảng số liệu số dân các nước Đông Nam Á năm 2004
Giáo viên cho học sinh đọc tên bảng số liệu.
Cho học sinh đọc đề mục các cột để biết số liệu trong bảng được thể hiện theo
đơn vị nào
Cột 1: Số thứ tự từ 1 đến 11.
Cột 2: Tên 11 nước trong khu vực Đông Nam Á.
Cột 3: Số dân của mỗi nước trong năm 2004 đơn vị tính (triệu người).
Cho học sinh đọc các số liệu trong bảng

13


Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để so sánh, đối chiếu số liệu ở các nước
để trả lời câu hỏi mục 1 SGK.
Cho các nhóm trình bày kết quả thảo luận.
Kết luận: Năm 2004 nước ta có số dân là 82 triệu người. Dân số nước ta đứng
thứ 3 ở Đông Nam Á và là một trong những nước đông dân trên thế giới.
2.3.2.5 Phương pháp hình thành các mối quan hệ địa lý
Một trong những mục tiêu quan trọng của phân môn Địa lí là giúp học sinh
biết xác lập, phân tích mối quan hệ địa lí đơn giản, nhất là mối quan hệ nhân –
quả. Nó giúp học sinh nắm chắc kiến thức địa lý, phát triển tư duy, trí tuệ và
giúp các em giải thích dễ dàng các hiện tượng xảy ra trong cuộc sống.
Các mối quan hệ nhân – quả trong địa lý là mối quan hệ biểu hiện tương quan
phụ thuộc một chiều giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình địa lý. Ở bậc tiểu
học chủ yếu là mối quan hệ đơn giản, trực tiếp giữa các yếu tố và thành phần

như: Địa hình và sông ngòi, khí hậu và động thực vật, con người và môi trường,
….Trong mối quan hệ nhân - quả có hai thành phần: một bên là nhân, một bên là
quả. Giáo viên cần giúp học sinh phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả.
Để làm được điều này, giáo viên có thể giúp học sinh xác lập mối quan hệ nhân
quả dưới dạng sơ đồ. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về tâm lý
và trình độ nhận thức của học sinh thì tư duy của các em chủ yếu là tư duy cụ
thể. Do đó, việc thiết lập mối quan hệ nhân – quả dưới dạng sơ đồ là phù hợp.
Việc xác lập mối quan hệ nhân – quả và vẽ sơ đồ cũng nên từ đơn giản đến phức
tạp.
Ở chương trình lớp 4 giáo viên chỉ yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ thể hiện mối
quan hệ nhân – quả đơn giản giữa hai yếu tố như:
Địa hình dốc

nước sông chảy xiết

Chặt phá rừng bừa bãi

nhiều đất trống, đồi trọc, lũ lụt.

Ở chương trình lớp 5 giáo viên có thể yêu cầu học sinh xác lập mối quan hệ
nhân quả phức tạp hơn tới 3, 4 yếu tố hoặc hơn tùy theo khả năng nhận thức của
học sinh (một nguyên nhân – nhiều hậu quả; nhiều nguyên nhân – một hậu quả)
như: Ví dụ: Bài 24 Châu Phi [3]. - Hai nguyên nhân dẫn đến một kết quả.
Nằm trong vành đai
nhiệt đới
Châu Phi có khí hậu
nóng khô vào bậc nhất
thế giới.

Không có biển lấn sâu

vào đất liền
- Một nguyên nhân dẫn đến hai kết quả Bài 8: Dân số nước ta [3].

14


Dân số tăng nhanh

Diện tích đất trồng trọt
bị thu hẹp.

Việc nâng cao đời sống
khó khăn.
Kỹ năng phát hiện các mối quan hệ nhân - quả cần được rèn luyện dần dần từ
đơn giản đến phức tạp, từ lớp dưới đến lớp trên. Qua đó giúp học sinh lĩnh hội
kiến thức, hình thành cho học sinh nếp tư duy khoa học.
2.3.3 Giáo viên biết vận dụng các phương pháp, các hình thức dạy học phân
môn Địa lý một cách phù hợp để phát huy được tính tích cực, vốn sống, vốn
hiểu biết của học sinh.
Đa số các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nói chung của phân môn
Địa lý nói riêng như: Phương pháp dạy học tích cực, phương pháp quan sát, trực
quan, hỏi đáp, thảo luận nhóm, trò chơi, giải thích,…đều có thể vận dụng vào
dạy học. Tuy nhiên căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh lứa tuổi tiểu
học, vào đặc điểm phân môn Địa lý mà giáo viên vận dụng các phương pháp,
hình thức dạy học phù hợp.
Việc sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của giáo viên phải
trên quan điểm tích cực theo hướng tập trung vào học sinh, phát huy vai trò chủ
thể, tích cực của học sinh. Đó là quan điểm chỉ đạo trong dạy học các môn nói
chung, trong dạy học phân môn Địa lý nói riêng. Dạy học tích cực chính là
hướng dẫn học sinh huy động tối đa kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của bản

thân (của cá nhân, nhóm nhỏ hoặc tập thể lớp) để phát hiện ra kiến thức mới của
bài học (mặc dù những kiến thức này có thể có sẵn trong SGK). Các sự vật, hiện
tượng địa lí thường xảy ra quanh học sinh hoặc gắn bó với cuộc sống học sinh
đều tạo nên kiến thức tiềm ẩn ở các em. Giáo viên cần lưu ý khai thác vốn hiểu
biết này để phát huy tính tích cực, khơi dậy trí tò mò, lòng ham hiểu biết của học
sinh. Những gì học sinh có thể tìm tòi từ các nguồn cung cấp tri thức địa lí (vật
thật, tranh ảnh, băng hình, bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu, vốn hiểu biết,…) để
chiếm lĩnh tri thức thì giáo viên cần tổ chức cho học sinh, thảo luận nhóm, làm
việc cá nhân, không nên giảng giải, cung cấp sẵn kiến thức cho học sinh. Như
vậy, việc tìm ra một tỷ lệ hợp lý giữa việc cung cấp tri thức và việc tổ chức tạo
điều kiện cho học sinh phát hiện ra tri thức mới trong từng bài học là vấn đề
quan trọng trong việc vận dụng quan điểm dạy học tích cực để dạy học địa lí ở
tiểu học.
2.3.4. Xây dựng cho học sinh các môi trường học tập .

15


Ngoài việc tổ chức cho học sinh học tập trên lớp, giáo viên cần quan tâm đến
việc thay đổi môi trường học tập để gây được hứng thú cho học sinh. Chẳng hạn
có thể tổ chức dạy học một tiết Địa lí ngoài trời trên sân trường. Giáo viên biết
lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, có thể tổ chức cho học
sinh chơi trò chơi, đố vui, thực hành trên mẫu vật,…
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh học tập thông qua thực địa ở thực tế, tạo
điều kiện cho các em được quan sát. Từ đó, các em nắm vững và nhớ lâu kiến
thức hơn, phát huy được vốn sống của các em. Đồng thời thông qua dạy học,
người giáo viên góp phần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Dạy học Địa lý có thể thông qua việc tổ chức hoạt động tập thể của buổi hoạt
động ngoại khóa. Giáo viên có thể lồng ghép kiến thức môn Địa lý và Lịch sử
trong cùng một buổi để tổ chức cho các em học tập, tìm hiểu. Hình thức tổ chức

đa dạng, phong phú như: Rung chuông vàng, thi đồng đội, thi hùng biện theo nội
dung, chủ đề của kiến thức,…Cách dạy này thường thay cho các tiết ôn tập.
Trong việc dạy học phân môn Địa li nói riêng, các môn học khác nói chung,
giáo viên cần chú ý làm sao luôn tạo cho học sinh cảm giác thích học, muốn
khám phá, tìm tòi. Như vậy mới phát huy được tính năng động, sáng tạo cho học
sinh và phù hợp với yêu cầu của giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
2.3.5. Đảm bảo các điều kiện để hỗ trợ tốt cho giáo viên và học sinh trong
việc dạy học phân môn Địa lý
2.3.5.1 Đối với giáo viên tiểu học:
+ Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, nhà trường phải giúp giáo viên
nhận thức được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của phân môn Địa lí với học sinh
tiểu học nói riêng và với thế hệ trẻ nói chung.
+ Tạo thói quen cho giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nắm
vững các kiến thức khoa học về địa lí. Muốn dạy được địa lí thì điều trước tiên
giáo viên phải nắm vững kiến thức, nội dung chương trình. Nguồn tài liệu cho
giáo viên học tập được huy động rộng rãi trong giáo viên, học sinh, cán bộ quản
lý và trong thư viện để giáo viên truyền tay nhau đọc hoặc đọc cho nhau nghe
qua các buổi sinh hoạt chuyên môn.
+ Bồi dưỡng cho giáo viên có năng lực chuyên môn nhất định, có khả năng vận
dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học.
+ Xây dựng các tiết dạy thực hành mẫu có sử dụng bản đồ, tranh ảnh, biểu đồ.
Sau khi dự giờ xong, tổ chức cho giáo viên nhận xét đánh giá ưu, nhược điểm
trong từng tiết dạy để rút kinh nghiệm, chia sẻ phương pháp dạy học.
+ Chuyên môn nhà trường phải thường xuyên kiểm tra, dự giờ giáo viên để
theo dõi việc tổ chức dạy trên lớp của giáo viên và chất lượng học tập của học
sinh qua tiết dạy, môn học. Từ đó để điều chỉnh kịp thời cho giáo viên.
2.3.5.2. Đối với học sinh:

16



+ Học sinh chuẩn bị đầy đủ sách, vở, đồ dùng học tập theo yêu cầu của giáo
viên để phục vụ cho mỗi hoạt động học tập.
+ Rèn cho các em ý thức tập thể, đảm bảo tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau
trong học tập cùng tiến bộ. Tránh hiện tượng “thi đua” trở thành “ganh đua”
làm mất đi sự đoàn kết trong lớp học.
+ Sau mỗi tiết học, học sinh phải tự rút ra những kiến thức cơ bản qua tiết học
và tự đánh giá hoạt động học tập của mình.
+ Nên tạo thói quen quan sát các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Từ đó có
những phán đoán, nhận xét để tích luỹ vốn kiến thức từ thực tiễn cuộc sống.
2.3.5.3. Điều kiện CSVC trang thiết bị để tổ chức dạy học:
Nhà trường cố gắng tạo điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học tạo sự thuận lợi cho việc vận dụng các phương pháp dạy học Địa lí vào
trong quá trình dạy học. Ví dụ như: Bàn ghế đúng quy cách, bảng phụ, tranh
ảnh, bản đồ, lược đồ, quả địa cầu,…. Đồ dùng thiết bị dạy học phải đảm bảo tính
chính xác, khoa học.
+ Giáo viên phải giúp học sinh biết cách sử dụng, bảo quản các đồ dùng dạy
học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ,.. trong SGK và trong bộ đồ dùng thiết bị
dạy học theo đúng quy trình.
+ BGH nhà trường phải thường xuyên theo dõi, giám sát việc sử dụng đồ dùng
dạy học của giáo viên qua đăng ký mượn đồ dùng ở thư viện, đồ dùng tự làm
trong các giờ dạy phân môn Địa lí để tạo cho giáo viên có thói quen sử dụng đồ
dùng dạy học.
+ Luôn kiểm tra hiệu quả của việc sử dụng đồ dùng dạy học có thể qua các giờ
dạy hoặc qua việc sử dụng đồ dùng dạy học của học sinh.
2.3.5.4 Đối với cán bộ quản lý: Xây dựng kế hoạch sinh hoạt chuyên môn
thường kỳ cho các môn học trong đó có phân môn Địa lý, phân công giáo viên
dạy mẫu, chọn bài dạy điển hình để tổ chức dạy học ở quy mô lớn, đặc biệt đối
với các bài ôn tập. Thường xuyên kiểm tra, dự giờ để khảo sát chất lượng dạy và
học môn Địa lí để từ đó kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy và học trong nhà

trường.
Căn cứ vào phân phối chương trình để xây dựng chương trình ngoại khoá, cấu
trúc các câu hỏi ôn tập để tổ chức cho học sinh học tập dưới nhiều hình thức
phong phú học mà chơi, chơi mà học, tạo được hứng thú học tập cho các em.
2.3.6. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh và các tổ chức đoàn thể trong
và ngoài nhà trường để nâng cao chất lượng môn học.
Ngay từ đầu năm học Ban giám hiệu nhà trường đã yêu cầu giáo viên thống
kê số liệu học sinh có đầy đủ hoặc còn thiếu sách vở học tập trong đó có phân
môn Địa lí để từ đó có biện pháp khắc phục.

17


- Cho học sinh mượn sách trong thư viện hoặc tổ chức quyên góp sách cũ để
cho học sinh được mượn với số lượng đông hơn.
- Trao đổi trực tiếp với phụ huynh việc chuẩn bị phương tiện học tập cho học
sinh sao cho đầy đủ. Khuyến khích các bậc phụ huynh mua bản đồ treo tại gia
đình và quả địa cầu để tạo điều kiện cho các em có thể học bất cứ lúc nào. Hàng
tháng giáo viên phải trao đổi kết quả học tập của học sinh với phụ huynh để có
định hướng trong thời gian tới đạt kết quả tốt hơn.
- Nhà trường phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường
quan tâm đến các đối tượng học sinh có hoàn cảnh khó khăn, cùng xây dựng và
tạo cho học sinh môi trường học tập dưới nhiều hình thức phong phú như: hoạt
động tập thể, dã ngoại, thực hành qua thực tiễn,…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi áp dụng biện pháp tôi đã nêu trên vào thực tiễn dạy và học phân môn
Địa Lí ở nhà trường thì hiệu quả đã được nâng lên rõ nét. Kết quả khảo sát chất
lượng giờ dạy của giáo viên qua dự giờ của Ban giám hiệu và tổ chuyên môn.
Đồng thời khảo sát chất lượng học tập của học sinh khối 4,5 vào thời điểm giữa

học kì II. Kết quả thu được qua bảng số liệu 3,4 như sau:
Bảng số liệu 3: Chất lượng giờ dạy của giáo viên
Khối

Số GV

4

Loại giỏi

Loại khá

Loại TB

Loại yếu

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL


TL

3

2

67

1

33

0

0

0

0

5

2

2

100

0


0

0

0

0

0

Tổng

5

4

80

1

20

0

0

0

0


Bảng số liệu 4: Kết quả khảo sát chất lượng học sinh
Khối

Số HS

4
5
125

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu

SL

TL

SL

TL

62

62

100

0

0


63

62

98

1

1,2

124

99,2

1

0,8

Qua bảng số liệu ta thấy, chất lượng giờ dạy của giáo viên và kết quả học tập
phân môn Địa lí của học sinh ở học kì II năm học 2016 – 2017 có sự tiến bộ
vượt bậc so với đầu năm học khi chưa ứng dụng kinh nghiệm này vào dạy học
trong toàn trường. Giáo viên cũng tự tin hơn khi được phân công dạy thực
nghiệm, thao giảng, dự giờ với phân môn Địa lí. Học sinh học tập hứng thú,
thích học và có ý thức tự học, tự tìm hiểu để khám phá những kiến thức Địa lí

18


trong và ngoài chương trình. Đây là phân môn khó dạy, với tâm huyết nghề

nghiệp, với mong mỏi nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường bước đầu
trong việc chỉ đạo chuyên môn, tôi nhận thấy chất lượng dạy học phân môn Địa
lí nói riêng và các môn học khác nói chung đã được nâng lên. Vì vậy, chất lượng
giáo dục của nhà trường luôn được xếp vào tốp đầu của bậc tiểu học trong toàn
huyện.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Qua nghiên cứu và đã ứng dụng cách dạy này vào trong thực tiễn tôi rút ra một
số kết luận sau:
- Để việc đổi mới giáo dục phổ thông được tiến hành một cách đồng bộ thì đổi
mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học là rất cần thiết. Vì vậy, quá trình
nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp, hình thức dạy học mới vào quá trình
dạy học là hết sức quan trọng.
- Giải pháp tôi đưa ra định hướng rất cụ thể cho giáo viên trong việc áp dụng
vào dạy học phân môn Địa lí lớp 4,5 và đảm bảo tính khoa học, tuân thủ theo
trật tự logic. Quá trình tổ chức cho học sinh học tập theo giải pháp nêu trên đã
phát triển được năng lực tư duy, sáng tạo, hứng thú học tập của học sinh. Học
sinh tích cực, tự giác tham gia vào các hoạt động học tập. Đây được xem là nhân
tố quan trọng giúp học sinh làm chủ kiến thức góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học ở trường tiểu học.
- Kết quả thực nghiệm đã chứng minh cho tính hiệu quả, tính khả thi của giải
pháp tôi đưa ra. Điều đó chứng tỏ nó có vai trò quan trọng và rất cần thiết đối
với quá trình dạy học phân môn Địa lí. Giải pháp đưa ra đã nhận được sự đồng
tình, ủng hộ và đánh giá cao của cán bộ, giáo viên trong nhà trường.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1 Đối với công tác quản lý chỉ đạo chuyên môn:
- Cần cập nhật các thông tin về công tác đổi mới giáo dục phổ thông trong thời
kỳ mới. Có kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên vừa nâng
cao kiến thức môn học, vừa nâng cao nghiệp vụ sư phạm.
- Tăng cường cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, đặc biệt là các phòng chức năng,

phòng truyền thống,.. để hỗ trợ điều kiện dạy và học đạt hiệu quả tốt nhất.
- Khuyến khích nhân rộng các hình thức tổ chức dạy học hiệu quả ở các môn
học và phân môn Địa lí.
3.2.2. Đối với giáo viên tiểu học:
- Giáo viên tiểu học là người trực tiếp giảng dạy cần nhận thức đúng đắn tầm
quan trọng về công tác đổi mới giáo dục phổ thông. Trong đó, có đổi mới
phương pháp dạy học để chất lượng học tập của học sinh đạt hiệu quả cao nhất.

19


- Cần thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn, trau dồi kiến thức đặc biệt
là kiến thức địa lí. Đây là cơ sở để giáo viên dạy tốt phân môn Địa lí.
- Giáo viên phải là người có tâm, nhiệt tình trong dạy học, có sự chuẩn bị chu
đáo cho bài dạy trước khi lên lớp, phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý, hoàn
cảnh của học sinh, để khi vận dụng quy trình dạy học giáo viên có thể xử lý
được những tình huống sư phạm có thể xảy ra.
- Giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp dạy học một cách hợp lý,
linh hoạt, phù hợp với từng bài, từng phần, không máy móc, rập khuôn để mang
lại hiệu quả dạy học cao nhất.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thành Hưng, ngày 15 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết. Không sao chép nội
dung của người khác.
Người thực hiện

PHÓ HIỆU TRƯỞNG

Hà Thị Huệ

Trịnh Thị Hạnh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
[2]. Phương pháp dạy học các môn học ở Tiêủ học.
[3] Lịch sử và Địa lí lớp 5.
[4] Lịch sử và Địa lí lớp 4.
[5] Sách giáo viên Lịch sử và Địa lí lớp 4.
[6] Sách giáo viên Lịch sử và Địa lí lớp 5.



×