A: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận
Đất nước ta đã và đang trên đà phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa, vấn
đề chất lượng nguồn lực con người là vấn đề rất cần được quan tâm. Đổi mới
phương pháp giảng dạy là một trong những yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo
dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, là sự sống còn của mỗi cơ sở
đào tạo. Phương pháp giảng dạy là yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng đào tạo. Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để
giáo viên, và người học phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh
hội kiến thức và phát triển tư duy. Một phương pháp giảng dạy khoa học sẽ làm
thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự hứng thú, say mê và sáng tạo
của học sinh. Vì vậy, vai trò mới của người giáo viên trở thành nhân tố kích thích
trí tò mò của học sinh, mài sắc thêm năng lực nghiên cứu độc lập, tăng cường khả
năng tổ chức, sử dụng kiến thức và khả năng sáng tạo. Việc áp dụng các phương
pháp giảng dạy mới đòi hỏi phải có cơ sở vất chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học
phù hợp, đồng bộ. Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp
cho giáo viên và học sinh tổ chức hợp lý có hiệu quả, quá trình giáo dục, đối
với các môn học trong nhà trường nhằm thực hiện chương trình dạy học. Trong
quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong
những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện mục
tiêu dạy học. Hơn nữa thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học
sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao
khả năng tự học, rèn luyện kỹ năng học tập và thực hành. Thiết bị đồ dùng dạy
học là vật chất hữu hình tưởng như là vô tri vô giác nhng dưới sự điều khiển
của người giáo viên, thiết bị đồ dùng dạy học thể hiện khả năng sư phạm của
nó : Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm cho giờ
học sinh động, hiệu quả hơn
Nếu việc "Dạy chay, dạy suông" làm cho người học thụ động không phát
huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo thì sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị sẽ
là cầu nối giữa người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với
nhau trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp đào
tạo và làm cho chất lượng giảng dạy và học tập được nâng cao.
Trong những năm gần đây bậc tiểu học cũng được quan tâm nhiều đến
đổi mới phương pháp dạy học, từ thiết bị đồ dùng dạy học và đánh giá kết quả
học tập của học sinh.
Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng: " Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện
chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan", quan điểm này
càng có giá trị với học sinh tiểu học. Hơn nữa theo quan điểm dạy học hiện
đại: Quá trình dạy học không chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là giúp học sinh
nhận thức một số kiến thức kỹ năng cụ thể mà bằng cách dạy nào đó các em
phát huy tính tích cực chủ động, phát triển năng lực sáng tạo. Theo đó vai trò
của giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt thông tin kiến thức, còn
học sinh có vai trò chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức. Để làm tốt
được điều này thì sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học là không thể thiếu được.
Đối với học sinh tiểu học, thiết bị dạy học lại càng đặc biệt quan trọng vì
nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh
nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kỹ năng kỹ xảo.
Tóm lại thiết bị dạy học là phương tiện, là điều kiện vật chất để đổi mới
phương pháp dạy học ở tiểu học.
II. Cơ sở thực tiễn
* Về đồ dùng dạy học :
Khi nói đến việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học, người giáo viên nghĩ
ngay đến các vật dụng trực quan cụ thể, các vật tư, hoá chất, mẫu vật, mô hình,
tranh ảnh... Các tài liệu, ấn phẩm, sách giáo khoa, vở bài tập, phiếu bài học …
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều
trang thiết bị và đồ dùng dạy học, có những thùng đồng bộ để dạy cho cả cấp
học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số
lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ.
Ví dụ: Ở phân môn luyện từ và câu ( lớp 2, 3) hay từ ngữ ( lớp 4, 5), đồ
dùng dạy học mà Công ty sách và thiết bị trường học sản xuất, cung cấp cho
các trường hiện nay chủ yếu là các loại tranh ảnh, song một số tranh ảnh do
sản xuất chung cho tất cả các trường tiểu học trong cả nước nên so với kiến
thức hiểu biết của học sinh từng vùng có lúc thừa loại này nhưng lại thiếu loại
khác.
* Về giáo viên :
Từ thực tế thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu, bản thân giáo viên còn
ngại sử dụng, cán bộ phụ trách thiết bị ở trường lại kiêm nhiệm những việc
khác nên việc mượn, trả gặp nhiều khó khăn. Đây là một trong những nguyên
nhân làm cho giáo viên lên lớp sử dụng đồ dùng thiếu thường xuyên
Trong quá trình sử dụng đồ dùng dạy học, một số giáo viên còn lúng
túng. Chẳng hạn khi dạy giải nghĩa từ họ nghĩ rằng cứ đưa ra tranh ảnh, vật
thật cho học sinh quan sát là đảm bảo điều kiện để giải nghĩa từ. Trên thực tế,
nhiều tranh ảnh, vật thật chưa cung cấp hết nghĩa của từ cần giảng mà phải có
sự hỗ trợ bằng lời nói của giáo viên.
2
Mặt khác tuy rằng 100 % giáo viên đều nhận thức đúng ý nghĩa, tác dụng
to lớn của đồ dùng dạy học trong quá trình hình thành kiến thức cho học sinh,
nhiều giáo viên đã biết vận dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng mức độ các đồ
dùng dạy học. Song cũng có nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu rõ cấu tạo của bộ
đồ dùng từng khối, lớp mà mình phụ trách, chưa biết rõ số lượng đồ dùng
trong bộ đồ dùng dạy học, chưa nhớ phạm vi sử dụng của các đồ dùng dạy học
cho các tiết dạy. Đặc biệt những thao tác kỹ thuật trong khi sử dụng đồ dùng
dạy học theo những dụng ý sư phạm còn ít được giáo viên chú ý.
Ví dụ: Giáo viên dạy toán lớp 2 khi hình thành bảng nhân 2 cho học sinh
đã làm như sau :
+ Bước 1: Giáo viên lấy một tấm nhựa có 2 chấm tròn và nói :"2 được
lấy một lần ta viết là 2 x 1 = 2".
+ Bước 2: Đáng lẽ giáo viên cầm lấy 2 tấm nhựa như trên và gắn liên
tiếp lên bảng để gợi hình ảnh trực quan giúp học sinh diễn đạt " 2 được lấy hai
lần, ta viết 2 x 2 = 2 + 2 = 4" thì giáo viên lại chỉ lấy tiếp 1 tấm nhựa có 2
chấm và gắn bên cạnh tấm đã lấy ở bước 1. Như vậy giáo viên đã tạo ra diễn
đạt sai ở học sinh " Có 2 chấm tròn, lấy thêm 2 chấm tròn nữa được tất cả 4
chấm tròn".
* Về cơ sở vật chất trường học:
Được sự quan tâm của các cấp các ngành trong những năm vừa qua cơ sở
vật chất trường học đã được đầu tư và nâng cấp, song thực tế vẫn còn hết sức
khó khăn, thiếu các phòng chức năng, phòng đồ dùng thiết bị. Tất cả các điều
kiện trên cũng là một khó khăn cho việc bảo quản và sử dụng đồ dùng dạy học
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi xin mạnh dạn đề xuất một
số kinh nghiệm, giải pháp nhằm giúp cho giáo viên : " Sử dụng có hiệu quả đồ
dùng dạy học ở tiểu học ".
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Đặc điểm tình hình nhà trường
Theo tìm hiểu nhiều năm qua tại trường tiểu học Quảng Hưng và Quảng
Đông công tác thư viện, thiết bị luôn được quan tâm, bổ sung, quản lý và sử dụng
đồ dùng, thiết bị phục vụ dạy học trên lớp được tiến hành thường xuyên nhưng chỉ
là hình thức, quản lý chưa quan tâm đúng mức hiệu quả còn hạn chế chất lượng
học tập học sinh chưa cao.
Nhận thức về ý nghĩa của đồ dùng dạy học trong đổi mới phương pháp học
hiện nay ở cán bộ, giáo viên chưa đồng đều. Đổi mới phương pháp giảng dạy chưa
được đẩy mạnh. Cơ sở vật chất phục vụ đổi mới phương pháp giảng dạy còn nghèo
nàn.
3
Trường Tiểu học Quảng Hưng và trường Tiểu học Quảng Đông luôn có tổ
chức Công đoàn vững mạnh là chỗ dựa vững chắc để nhà trường triển khai nhiệm
vụ năm học, Công tác Đoàn - Đội luôn được quan tâm, chuyên môn và tổ chức các
hoạt động giáo dục có hiệu quả, các trang thiết bị, đồ dùng dạy học được cấp trên
quan tâm cấp phát bổ sung kịp thời, phong trào tự làm đồ dùng dạy học được giáo
viên hưởng ứng tích cực, nhà trường được Đảng ủy, UBND, các tổ chức đoàn thể,
Ban đại diện cha mẹ học sinh quan tâm.
II. Giải pháp thực hiện
1. Thống nhất về nhận thức
- Tăng cường công tác quản lý của nhà trường với thiết bị, đồ dùng dạy
học.
- Nâng cao nhận thức về vai trò, tác dụng của đồ dùng dạy học trong quá
trình dạy học đối với mỗi cán bộ và giáo viên.
- Luôn giáo dục cho mội giáo viên ý thức đi sâu tìm hiểu về cấu tạo đồ
dùng dạy học thuộc khối lớp mà mình phụ trách về phạm vi sử dụng của mỗi
đồ dùng dạy học trong các tiết dạy từ đó có phương pháp, thao tác kỹ thuật khi
sử dụng đồ dùng dạy học theo dụng ý sư phạm của bài dạy ( thời điểm dùng,
thứ tự thao tác trong khi dùng, dụng ý sư phạm trong khi dùng…)
- Đầu tư thời gian, tâm sức tự làm và cải tiến đồ dùng dạy học.
2. Về công tác quản lý của nhà trường:
Ngay từ đầu năm học, việc bố trí, sắp xếp cán bộ phụ trách thư viện,
thiết bị, có thời gian làm việc phù hợp, tạo điều kiện cho giáo viên mượn và
trả. Riêng các va-li đồ dùng dạy học theo lớp, nhà trường kiểm kê theo danh
mục, giải quyết cho giáo viên mượn nguyên cả bộ ngay từ đầu năm học và cuối
năm học trả lại. Có như vậy giáo viên mới có thể chủ động trong việc sử dụng
cũng như có kế hoạch tự làm các loại thiết bị và đồ dùng dạy học còn thiếu.
Để giúp cho việc bảo quản và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học. Nhà
trường đã tham mưu chính quyền địa phương vận động tổ chức, cá nhân, phụ
huynh học sinh hỗ trợ, giúp đỡ cung cấp mỗi lớp 1 tủ dùng chung để bảo quản
đồ dùng dạy học và được để ngay tại lớp học, rất thuận lợi cho giáo viên và
học sinh khi sử dụng đồ dùng thiết bị.
3. Nâng cao năng lực khai khác, sử dụng, bổ sung đồ dùng, thiết bị
đối với giáo viên :
Mỗi giáo viên phải nắm vững các danh mục đồ dùng dạy học đã được
cung cấp trên cơ sở đó giáo viên hoặc tổ khối chuyên môn có thể sắp xếp theo
từng chủ đề, đề tài. Để giải quyết một số thiết bị đồ dùng còn thiếu, giáo viên
4
trong cùng một tổ phối hợp với nhau sưu tầm, tự làm thêm đồ dùng theo chủ
đề, đề tài.
Ví dụ : Khi dạy tự nhiên xã hội hoặc đạo đức, tranh ảnh, đồ dùng phục
vụ cho dạy các môn này có nhiều trên báo chí, báo ảnh, bưu ảnh, lịch tờ hoặc
hoa quả, vật thật … Giáo viên có thể lựa chọn để sử dụng làm phong phú thêm
đồ dùng dạy học của mình. Tuy nhiên khi chọn tranh ảnh, vật thật giáo viên
cũng phải chú ý đến tính điển hình, phản ánh trung thực và chính xác, đảm bảo
tính khoa học, tính sư phạm và tính mỹ thuật .
4. Tổ chức nghiên cứu sử dụng đồ dùng dạy học mới.
Vấn đề đổi mới thiết bị đồ dùng dạy học được đặt ra đồng bộ với chương
trình và sách giáo khoa các môn học. Chính vì vậy sau mỗi đợt tập huấn về
giảm tải chương trình …yêu cầu các tổ chuyên môn dành thời gian để nghiên
cứu kỹ lưỡng, tìm hiểu chi tiết về bộ đồ dùng dạy học để từ đó lĩnh hội đầy đủ
về cấu tạo và phạm vi sử dụng đồ dùng dạy học. Còn một số bất hợp lý trong
bộ đồ dùng dạy học mà chỉ khi lên lớp giáo viên mới nhận ra. Chính vì vậy,
chúng tôi đề nghị chọn bài dạy thích hợp để thực hành trực tiếp vào một số đồ
dùng dạy học. Các giáo viên khác sẽ góp ý vào thao tác thực hành trên đồ dùng
dạy học và từ đó cũng thấy rõ những gì cần tiếp tục hoàn thiện ở đồ dùng dạy
học .
Ví dụ : Bảng đa năng để dạy toán 2 có bề ngang quá hẹp, khi giáo viên
gắn các bảng 100 ô vuông để biểu diễn các số ( giúp học sinh quan sát để so
sánh hoặc hình thành thuật tính) thì không có chỗ để biểu diễn đủ ví dụ trong
sách giáo khoa. Hoặc 1 số thanh kẹp bằng nhựa để cài các bảng ô vuông, thẻ ô
vuông thì không khít, vì thế khi giáo viên thực hiện ở trên lớp các thẻ thường
bị đổ hoặc không ngay ngắn, mất nhiều thời gian điều chỉnh mà cũng không
đảm bảo tính thẩm mỹ.
5. Việc tổ chức cải tiến và tự làm đồ dùng
Xuất phát từ thực tế khi nghiên cứu kỹ các bộ đồ dùng, thấy được một số
hạn chế và những bất hợp lý còn tồn tại ở đó. Hơn nữa hiện nay việc nâng cao
chất lượng giáo dục cần đòi hỏi nhà trường phải có đầy đủ đồ dùng thiết bị dạy
học và các thiết bị đồ dùng đó phải đảm bảo phù hợp, có tác dụng tích cực
trong việc dạy và học. Trong mấy năm gần đây, chúng tôi tổ chức nhiều phong
trào thi đua trong đó có phong trào " Tự làm và cải tiến đồ dùng, thiết bị dạy
học". Chúng ta có thể:
- Sưu tầm tranh ảnh có ở các loại báo, hoạ báo, tạp chí, bìa lịch…
- Sưu tầm các vật dụng như : Vỏ hộp, can nhựa, vỏ chai, dây thép…
5
- Chọn các loại vật liệu sẵn có ở địa phương như : Trái cây, hoa, gỗ, tre,
rơm, đất …
Ví dụ : Khi dạy các bài trong môn Tiếng Việt, môn Tự nhiên xã hội, môn
Đạo đức, môn Nghệ thuật giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm các loại tranh
ảnh theo các chủ đề về quê hương đất nước, rừng, núi, biển, con người, con vật
…
+ Tổ chức cho các nhóm, tổ trong lớp thi đua trưng bầy sản phẩm, tập
hợp thành sản phẩm chung của cả lớp để sử dụng dạy học theo các chủ đề thích
hợp, làm phong phú thêm nguồn thiết bị dạy học .
+ Làm các thanh hình chữ nhật ( Bằng gỗ, bìa), có các chấm tròn để học
bảng nhân toán 2 .
- Thiết bị đồ dùng dạy học tự làm, tự cải tiến thường sát với nội dung bài
học .
- Hình thành được thói quen tiết kiệm cho giáo viên và học sinh.
- Góp phần làm phong phú thiết bị dạy học.
Qua quá trình học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, qua quá
trình giảng dạy ở trên lớp, bản thân giáo viên đã tiến hành cải tiến một số đồ
dùng dạy học, đem áp dụng và thấy có hiệu quả đó là các đồ dùng sau :
Ví dụ 1: Dụng cụ trực quan gợi ý cách cộng qua 10 ( lớp 2)
Để dạy học sinh lớp 2 biện pháp cộng qua 10, chẳng hạn bài "9 cộng với
1 số: 9 + 5 ". Ta thường dùng cách : " Tách 1 ở số sau để cộng với 9 cho đủ 10
rồi cộng tiếp với phần còn lại ở số sau".
9 + 5 = 9 + 1 + 4 = 14.
1+4
10
Khi dạy giáo viên hay sử dụng đồ dùng trực quan như sau :
+ Đặt 9 hình tròn màu trắng ở hàng trên.
+ Đặt thêm 5 hình tròn màu đen ở hàng dưới.
Sau đó đưa một hình tròn màu đen lên hình trên để hàng trên có đủ 10
hình tròn. Lấy10 hình tròn ở hàng trên cộng với 4 hình tròn còn lại ở hàng
dưới để có 14 hình tròn.(Hoặc sử dụng mô hình que tính như sách giáo khoa ).
Cách sử dụng trực quan kiểu này, tuy giúp học sinh hiểu rõ biện pháp
tính hơn song "Giáo viên thường phải thông báo cho học sinh là trước hết cần
đưa một hình tròn màu đen lên trên để hàng trên có đủ 10 hình tròn" ( Từ đó
rút ra ghi nhớ: Tách 1 ở số sau). Nếu giáo viên không làm như thế thì học sinh
đại trà (không là học sinh khá, giỏi) không tự nghĩ ra. Sở dĩ giáo viên thường
6
phải làm như vậy là vì cách xếp 9 hình tròn trắng theo một hàng ngang như
trên không có tác dụng gợi ý ( hoặc khó nhìn ra ) cho học sinh về việc "Hàng
trên còn thiếu một hình tròn nữa thì mới đủ 10".
Sau tìm tòi học tập giáo viên tiến hành dùng đồ dùng trực quan khác để
khắc phục điểm mất tự nhiên này như sau :
Cài 9 hình tròn vào một tấm bìa có chia thành 10 ngăn (2 hàng mỗi hàng
5 ngăn). Tấm bìa này có thể khoét thành 10 ô vuông sau đó gắn vào bảng nỉ.
Sau đó thêm 5 hình tròn nữa gài vào một tấm bìa khác(như hình vẽ).
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Nhìn vào đó học sinh thấy rõ là trong miếng bìa còn một ô chưa có hình
tròn nào nên các em sẽ tự nghĩ ra ngay được biện pháp tính là cần phải "Lấy
một hình tròn ở bên phải bỏ thêm vào ô đó để miếng bìa đủ 10 hình tròn. Còn
bốn hình tròn ở ngoài.
Vậy 9 + 5 = 9 + 1 + 4 = 10 + 4 = 14.
Chỉ cần cải tiến đồ dùng trực quan một chút thôi. Đáng lẽ xếp 9 hình tròn
thành một hàng thì học sinh không thấy rõ đợc chỗ còn thiếu ( cho đủ chục) thì
ta lại xếp thành 2 hàng thế là lộ ngay ra chỗ còn thiếu ( cần bù thêm cho đủ
chục) .
Với đồ dùng dạy học này giáo viên có thể áp dụng khi dạy tất cả các bài
khác về cộng qua 10 ở lớp 2 . Ví dụ : 6 + 5 ; 7 + 5 ; 8 + 5 ; 9 + 5
Ví dụ 2 : Khi nghiên cứu trong sách giáo khoa và vở bài tập môn toán
lớp 1, giáo viên thấy rất nhiều tiết học có dạng bài : Số ? ở dạng bài này nếu
sử dụng bảng nỉ trong bộ đồ dùng để giảng dạy thì hình ảnh và biểu tượng
khác với sách giáo khoa, học sinh không hiểu được về tập hợp. Để làm phong
phú hơn, sinh động hơn, hiệu quả hơn khi học sinh luyện tập thực hành, giáo
viên đã dựa vào dạng bài đó để cải tiến đồ dùng dạy học như sau:
- Vật liệu gồm : Bảng nỉ, 1 miếng bìa cứng có kích thớc vừa bằng bảng
nỉ, băng gắn, thanh cài .
- Cách làm: khoét trên tấm bìa 2 hình chữ nhật dạng màn hình tivi cạnh
nhau. Phía dới 2 hình chữ nhật khoét 3 ô vuông sao cho vừa gài đủ số và dấu
phép tính trong bộ đồ dùng . Hai hình bên cạnh tương ứng với hai hình chữ
nhật to ở trên ( Hình vẽ )
- Cách sử dụng : Gắn tấm bìa đã khoét ô vuông vào bảng nỉ có gắn thanh
cài. ở từng hình chữ nhật cài các chấm tròn, bông hoa , con cá ... có số lượng
mà tổng 2 hình chữ nhật nhỏ hơn 10, tuỳ theo bài học. ở 3 ô bên dưới giáo viên
cài sẵn các số tương ứng. Học sinh sẽ được làm bài tập : Số ?
7
Rõ ràng nhìn đồ dùng này học sinh biết được ô bên trái có 6 chấm tròn ,
ô bên phải có 3 chấm tròn , cả 2 ô có 9 chấm tròn .
Sau khi học sinh nêu kết quả , giáo viên lật dấu ? ra thì kết quả đã có sẵn
trong bảng cài để học sinh đối chiếu giống như kiểu trong trò chơi :" Hãy chọn
giá đúng "
Đồ dùng này còn để dùng cho việc dạy dạng bài so sánh số, tính tổng...
Tương tự cải tiến thành đồ dùng dạy bài: Viết phép tính thích hợp (Lớp1)
+ Vật liệu gồm: Bảng nỉ, một miếng bìa có kích cỡ ……băng dính, thanh
cài…
+ Cách làm :
- Khoét 1 hình chữ nhật ở miếng bìa như màn hình ti vi cỡ 25 x 38 cm .
- Khoét 5 ô vuông ở phía dới miếng bìa sao cho vừa gài đủ các số, dấu
phép tính.
- Phô tô các hình trong sách bài tập của học sinh .
- Gắn miếng bìa đó vào bảng nỉ ( có thanh gài) .
- Khi dạy bài nào ta gắn dạng hình của bài tập đó vào màn hình ti vi.
Ví dụ: Luyện tập bài phép cộng trong phạm vi 4 . ( Hình vẽ )
3
+
1
=
4
Ta gài ảnh 3 con vịt đang bơi, 1 con chạy đến. Cho học sinh lên gài phép
tính vào ô bên dưới để giải quyết bài tập trên, tương tự gài hình khác ta có
phép tính khác. Đồ dùng này áp dụng để cho học sinh luyện tập cộng trừ trong
phạm vi 10, thuận lợi trong việc sử dụng đồ dùng trực quan .
Giáo viên nghĩ rằng ai làm nghề nào thì cũng phải có một bộ đồ nghề để
hành nghề đó. Chính vì vậy giáo viên cũng không ngại khi đầu tư vào bộ đồ
nghề dạy học của mình.
6. Sử dụng đồ dùng của học sinh
Nói đến thiết bị đồ dùng dạy học ta không chỉ quan tâm đến thiết bị đồ
dùng dạy học của người thày mà đồ dùng học tập của trò cũng giữ một vị trí
quan trọng trong việc hình thành kiến thức kỹ năng cho chính bản thân các em
bởi vì dạy học là tổ chức hoạt động học tập để học sinh tự hình thành kiến thức
như vậy đồ dùng học tập của học sinh cũng là phương tiện, là điều kiện vật
chất để đổi mới phơng pháp dạy học. Nói cách khác đổi mới phương pháp dạy
học là phải đổi mới cách sử dụng đồ dùng học tập cho học sinh. Nhận thức
được tầm quan trọng của đồ dụng dạy học của học sinh. Ngay từ đầu năm học
8
trong các buổi sinh hoạt chuyên môn chúng tôi yêu cầu giáo viên đã giành
thời gian thảo luận các vấn đề này.
Ví dụ : Với học sinh lớp 1 đồ dùng học toán của học sinh bao gồm : Sách
giáo khoa, bộ đồ dùng học toán thực hành, bảng con, vở bài tập, trong đó
chúng tôi xác định bộ đồ dùng học toán thực hành của học sinh là cần thiết và
quan trọng nhất .
+ Sách giáo khoa toán 1 được biên soạn theo tinh thần đổi mới, trong đó
thể hiện rõ quá trình hình thành kiến thức, có định hướng về cách dạy cho giáo
viên, sách in màu đẹp, có nhiều hình vẽ, trình bày khoa học hấp dẫn . Sách
trình bày " mở" không thông báo kiến thức bài học mà để học sinh suy nghĩ
tìm tòi, phát hiện kiến thức, hệ thống bài tập đa dạng, gây hứng thú và phát
huy được khả năng sáng tạo của học sinh. Sách giáo khoa toán 1 có ý nghĩa
như một đồ dùng dạy học, nếu hiểu được nội dung, mục đích, ý tưởng giúp các
em sử dụng hợp lý thì học sinh sẽ học toán tốt hơn.
+ Bộ đồ dùng học toán thực hành là 1 tiến bộ của thiết bị dạy học, là cơ
sở vật chất cho đổi mới phương pháp dạy học toán. Khi sử dụng đồ dùng học
toán thực hành học sinh được hoạt động bằng tay với các vật thật : que tính
dùng để hình thành biểu tượng về số có 2 chữ số và các phép tính trong phạm
vi 100, bộ chữ số, dấu phép tính và dấu so sánh để thực hành so sánh số và tính
toán trong giờ học toán tiện lợi. Học sinh lớp 1 nhờ có đồ dùng thực hành mà
"Cái tay làm khôn cái đầu". Đồ dùng thực hành còn giúp giáo viên tổ chức học
tập theo nhóm, theo cặp một cách thuận lợi đây là điểm quan trọng nhất với
việc học toán của lớp 1.
Mặc dù đã hiểu sâu sắc về bộ đồ dùng học toán của học sinh nhưng thực
tế 1 số giáo viên lớp 1 còn lúng túng khi hướng dẫn học sinh sử dụng bởi vì
thời gian của một tiết học chỉ 35 - 40 phút. Học sinh lớp 1 những ngày đầu đi
học chân tay còn vụng về, lóng ngóng cùng với sự lúng túng trong tổ chức hoạt
động của giáo viên đã làm cho đa số tiết học bị quá giờ. Nhưng tồn tại đó sẽ
được khắc phục khi lớp học đi vào nề nếp. Học sinh quen với hoạt động thực
hành, giáo viên quen với tổ chức hoạt động học tập.
+ Bảng con: Là đồ dùng học tập truyền thống nhưng tại thời điểm này nó
vẫn còn có tác dụng tích cực. Nhờ bảng con học sinh được thực hành kỹ năng
viết, làm tính, giáo viên có thể đánh giá việc nắm vững kiến thức, kỹ năng viết,
kỹ năng tính của học sinh. Sử dụng bảng con làm thay đổi trạng thái học tập,
khích lệ sự cố gắng của mỗi học sinh và tạo không khí thi đua học tập trong
lớp.
+ Vở bài tập : là một sáng kiến trong những năm gần đây, sử dụng vở bài
tập để củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng khá tiện lợi ở mỗi tiết học ở buổi
9
2. Vở bài tập giúp cho cá thể hoá việc dạy học. Mỗi học sinh thực hành theo
khả năng và tốc độ riêng của mình. Tuy nhiên nếu lạm dụng vở bài tập sẽ ảnh
hưởng đến kỹ năng trình bày của học sinh .
+ Đổi mới phương pháp dạy học toán 1 phải phù hợp với trình độ của
học sinh . Học sinh lớp 1 hẳn hết đã qua lớp mẫu giáo, đã làm quen với các
chữ và số, nhiều em đã biết viết, biết làm tính cộng, trừ, kiến thức trong sách
giáo khoa quá quen thuộc và đơn giản đối với 1 số em. Chính vì vậy dạy toán
lớp 1 càng khó hơn, giáo viên phải có biện pháp thích hợp để học sinh không
thấy nhàm chán, không bị cảm giác học lại.
Mặc dù đã biết các số, biết làm tính nhưng các em không nắm vững được
bản chất của kiến thức. Giáo viên còn phải hình thành chính xác kiến thức và
hướng dẫn các thao tác "Chuẩn", tận dụng vốn kinh nghiệm của học sinh để
hình thành, củng cố, khắc sâu, phát triển kiến thức với mỗi đối tượng, huy
động được tất cả học sinh trong lớp tham gia vào quá trình học tập, đặc biệt ưu
tiên các em học yếu, hỗ trợ tích cực để các em theo kịp trình độ chung nên có
thêm bài cho học sinh giỏi.
6. Nguyên tắc sử dụng đồ dùng dạy học của bản thân giáo viên
Một điều cuối cùng tôi muốn nói ở đây đó là muốn nâng cao hiệu quả
khi sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học giáo viên phải tuân theo những nguyên
tắc sau đây :
- Gắn với nội dung của sách giáo khoa.
- Phù hợp với hình thức dạy học bộ môn .
- Phù hợp với kế hoạch bài học .
- Đúng mục đích, đúng lúc, đúng chỗ.
- Tự làm và cải tiến đồ dùng dạy học phải phù hợp điều kiện kinh tế
nhưng vẫn phải đảm bảo được tính chính xác, khoa học, thẩm mỹ .
Ví dụ 1: Trong bài xé dán hình chữ nhật, hình vuông môn nghệ thuật
(phần thủ công lớp 1) giáo viên không cần thiết phải sử dụng bản đồ, mô hình
hộp. Đối với bài này giáo viên chỉ cần xé mẫu của hình trên khổ giấy to có kẻ
ô để học sinh dễ quan sát, thực hành.
Ví dụ 2: Trong các bài thực hành giáo viên chỉ dùng thiết bị dạy học giới
thiệu vật mẫu, tranh ảnh… để học sinh quan sát, phân tích khi chuẩn bị thực
hành. Sau khi chia nhóm, học sinh có thể thảo luận nhóm, thực hành hoàn
thành sản phẩm một cách độc lập sáng tạo.
Ví dụ 3: Trong bài ôn tập môi trờng và sức khoẻ, giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh tự đánh giá qua bài tập cá nhân ( dùng phiếu học tập vào
cuối giờ dạy.
10
Không có một đồ dùng dạy học nào là vạn năng chỉ có thể sử dụng hợp
lý, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng và kết hợp khéo léo mới đem lại hiệu
quả thiết thực cho giờ dạy .
III. Hiệu quả áp dụng
Sau khi áp dụng những biện pháp giải pháp trên năm học 2015-2016 ở
trường Tiểu học Quảng Hưng và năm học 2016 – 2017 ở trường Tiểu học
Quảng Đông tôi thấy giáo viên có nhiều chuyển biến tích cực không còn thấy
ngại khi sử dụng đồ dùng trong dạy học. Thấy được hiệu quả của nó mọi thành
viên đều tích cực nghiên cứu để sử dụng đồ dùng dạy học. Các tiết học đã trở
nên hấp dẫn hơn, thu hút học sinh, học sinh rất thoải mái, tự tin và thích học,
thích đến trường. Bởi vì chính đồ dùng dạy học đã giúp các em tiếp thu bài
một cách dễ dàng, hiểu bài, làm được bài, chất lượng giáo dục nâng lên một
cách rõ rệt. Đó là kết quả của việc sử dụng hợp lý có hiệu quả của đồ dùng dạy
học .
C. KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
Tóm lại đổi mới phương pháp dạy học đang là nhiệm vụ hết sức cấp
bách hiện nay nhất là đối với bậc tiểu học, bậc học có những đặc trưng khác
biệt so với bậc học khác, là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Đổi mới phương pháp dạy học thì đồng thời phải đổi mới đồ dùng thiết bị
và cách sử sụng chúng trong dạy học, mục tiêu của chúng tôi là sẽ làm cho đồ
dùng, thiết bị dạy học trở thành người bạn đồng minh trung thành với mỗi giáo
viên và học sinh trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Song hiệu quả của
việc sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học lại phụ thuộc rất nhiều vào sự đầu tư
công sức và trí tuệ của mỗi giáo viên.
II. Bài học kinh nghiệm
Học sinh tiểu học có đặc điểm tâm lý " Thích thì học say sưa và ngược
lại". Những đồ dùng được chọn để giảng dạy và học tập hiện nay có nhiều ưu
điểm nhưng nhìn chung cũng còn có chỗ bất hợp lý. Để đảm bảo làm sao các
đồ dùng được chọn để giảng dạy và học tập phải phù hợp với bài học, môn
học, đảm bảo tính chính xác và tính thẩm mỹ thì đòi hỏi người giáo viên phải
có sự đầu tư về thời gian và công sức để nghiên cứu.
III. Đề xuất, kiến nghị
- Song song với các đợt tập huấn chuyên môn ngành cần có những đợt
tập huấn kỹ về công tác sử dụng thiết bị trong trường học để cho giáo viên có
thể sử dụng tốt hơn đồ dùng thiết bị dạy học .
11
- Cần thiết phải giải quyết mâu thuẫn giữa quỹ thời gian soạn bài nhiều
môn của giáo viên tiểu học với yêu cầu sử dụng đồ dùng dạy học và nâng cao
chất lượng tổ chức các hoạt động trên lớp. Bởi vì muốn sử dụng tốt đòi hỏi
phải có thời gian nghiên cứu.
- Có cơ chế khuyến khích, bồi dưỡng, khen thưởng kịp thời cho những
giáo viên làm tốt công tác này, tăng cường đầu tư trang thiết bị mới. Trang bị
một phòng chuyên môn hoá để thể hiện phương pháp dạy học mới với sự hỗ
trợ đắc lực của trang thiết bị dạy học ,
- Khuyến khích động viên phong trào tự làm và cải tiến thiết bị đồ dùng
dạy học.
- Khuyến khích giáo viên tích cực chủ động xây dựng nội dung bài
giảng, các kiểu bài tập, các bài kiểm tra đánh giá trên cơ sở trang thiết bị đồ
dùng hiện có.
- Tăng cường làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tích cực tham mưu
với chính quyền địa phương, vận động các tổ chức, đoàn thể, cá nhân và phụ
huynh học sinh để hỗ trợ kinh phí mua sắm đồ dùng học tập .
- Nhà nước tăng cường đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị phù hợp với
chương trình, sách giáo khoa.
Trong phạm vi bài viết này, tôi hy vọng góp phần tháo gỡ một số vướng
mắc trong việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học ở tiểu học ( các lớp 1,2,3 ) .
Rất mong có sự góp ý kiến trao đổi thêm từ quý đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA P.HIỆU TRƯỞNG
NHÀ TRƯỜNG
Thanh hóa, ngày 25 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác
Nguyễn Thị Thanh
12
MỤC LỤC
NỘI DUNG
A: ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………………………………
I. Cơ sở lý luận ……………………………………………………………………………………………
II. Cơ sở thực tiễn ………………………………………………………………………………
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ………………………………………………………………….
I. Đặc điểm tình hình nhà trường ………………………………………………………..
II. Giải pháp thực hiện …………………………………………………………………………
1. Thống nhất về nhận thức ………………………………………………………………
2. Về công tác quản lý của nhà trường: ……………………….…………….……
3. Nâng cao năng lực khai khác, sử dụng, bổ sung đồ dùng, thiết
bị đối với giáo viên : ………………………………………………………………………………
4. Tổ chức nghiên cứu sử dụng đồ dùng dạy học mới. …………….……
5. Việc tổ chức cải tiến và tự làm đồ dùng ………………………………….…
6. Sử dụng đồ dùng của học sinh ……………………………………………………
7. Nguyên tắc sử dụng đồ dùng dạy học của bản thân giáo viên …
III. Hiệu quả áp dụng ………………………………………………………………..………
C. KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………………
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác ……………………………………..………
II. Bài học kinh nghiệm ………………………………………………………………………
III. Đề xuất, kiến nghị ………………………………………………….……………………
13
TRANG
1
1
2
4
4
4
4
4
5
5
6
8
10
11
11
11
11
11