Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc viết cho học sinh khối 2 khu chính trường TH trung lý 1 huyện mường lát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.81 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
1.1.Lí do chọn đề tài........................................................................................2
1.2.Mục đích nghiên cứu.................................................................................2
1. 3.Đối tượng nghiên cứu...............................................................................3
1.4.Phương pháp nghiên cứu......................................................................... ..3
2. NỘI DUNG.....................................................................................................3
2.1.Cơ sở lí luận…….......................................................................................3
2.2.Thực trạng.......... …................................................................................. .4
2.3. Các sáng kiến, giải pháp...........................................................................6
2.4. Hiệu quả………………………………………………..………………11
3. Kết luận, kiến nghị…………………………………………………………11

1


1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục tiểu học là cấp học nền tảng cho hệ thống giáo dục quốc dân. Chính vì
vậy giáo viên tiểu học sẽ là người góp phần quyết định trong việc thực hiện có
chất lượng hoạt động dạy và học. Người giáo viên tiểu học có tác động mạnh mẽ
đến sự hình thành nhân cách và tri thức của học sinh.
Mặt khác lứa tuổi học sinh tiểu học có nhiều điểm khác biệt so với lứa tuổi khác.
Các em còn chưa xác định rõ ràng mục đích của việc học tập là gì. Nhiều khi các
em học tập là do bố mẹ, thầy cô ép buộc hoặc cũng có khi học để được thầy cô,
bố mẹ khen thưởng.
Trong những năm gần đây việc dạy học lấy học sinh làm trung tâm, chuyển các
hoạt động học tập vào người học, giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức các
hoạt động dạy học nhằm phát huy khả năng và vốn sống của các em ở mức cao
nhất. Vì vậy, làm thế nào để học sinh có hứng thú học tập, có nhu cầu tiếp cận tri
thức một cách chủ động và tích cực. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực


và chuyên môn của người giáo viên. Bởi lẽ việc dạy học hướng vào đối tượng
người học nếu làm không khéo dễ dẫn đến tình trạng chỉ một số học sinh học tốt
được hoạt động, còn những học sinh khác thì ngồi chơi hoặc xem việc học là của
những bạn học tốt. Từ đó, các em dần dần bị hổng kiến thức và dẫn đến lực học
giảm sút, không hoàn thành.
Trên thực tế hiện nay sau nhiều năm thực hiện chương trình thay sách, gắn với
việc thực hiện cuộc vận động hai không với bốn nội dung của Bộ Giáo dục .
Mấy năm gần đây cả nước đang nóng lên vì tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp.
Đây là một điều đáng buồn và đáng báo động của ngành giáo dục.
Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã không nắm được kiến thức cơ bản thì cũn đâu
là nền móng cho những bậc học sau. Chính vì vậy, là một giáo viên tiểu học
đang trực tiếp giảng dạy tôi thiết nghĩ cần phải có biện pháp nào đấy để rèn
luyện cho học sinh chưa hoàn thành, giúp các em lĩnh hội được những kiến thức
cần thiết, cơ bản của bậc học này. Trong quá trình dạy học mỗi người có một
biện pháp riêng để rèn luyện học sinh chưa hoàn thành. Riêng cá nhân tôi xin
được mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn học sinh chưa hoàn thành mà tôi
thấy rất có hiệu quả. Đây cũng chính là lí do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh
nghiệm:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành ở
Trường Tiểu học Trung Lý 1 đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học ở Trường Tiểu học Trung Lý 1. Trình bày,
đề nghị một số biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành đáp
ứng nhu cầu giáo dục hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Các biện pháp nâng cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành ở Trường Tiểu
học Trung Lý 1 đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2



1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và khái quát hóa vấn đề nâng cao chất lượng
của học sinh chưa hoàn thành của học sinh Trường Tiểu học Trung Lý 1
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
1.4.2.1. Phương pháp quan sát:
Quan sát, ghi chép hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh
1.4.2.2. Phương pháp điều tra:
Phỏng vấn, trao đổi khảo sát điều tra số liệu theo phiếu khảo sát.
1.4.2.3. Phương pháp khảo nghiệm:
Nhằm đánh giá sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đề xuất
1.4.2.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Trên cơ sở tổng kết hoạt động dạy học trường, từ đó đề xuất các biện pháp nâng
cao chất lượng của học sinh chưa hoàn thành đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay.
1.4.2.3. Phương pháp chuyên gia:
Lấy ý kiến về những biện pháp mà sáng kiến đã trình bày
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
- Các quan điểm chỉ đạo của ngành về công tác phụ đạo HS chưa hoàn thành.
Muốn thực hiện một cách có hiệu quả việc hạn chế học sinh chưa hoàn thành và
khắc phục tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp, cần nhận thức sâu sắc ý nghĩa và
mục đích của các cuộc vận động đang thực hiện. Để xây dựng thành chương
trình hành động chung cho đội ngũ cán bộ, giáo viên trong toàn ngành, hướng
vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Xuất phát từ thực trạng tình
hình thực tế của nhà trường, điều kiện thực tế của địa phương, để có kế hoạch cụ
thể từng thời kì, từng giai đoạn để triển khai thực hiện. Mặc dù đơn vị ở vùng có
diều kiện khó khăn nhưng cũng phải tạo được sự chuyển biến nhất định qua từng
năm về công tác này. Tránh hiện tượng “ đầu voi đuôi chuột”, “ đánh trống thả
dùi”, tránh chủ quan nóng vội, tránh quá tải hoặc quá hữu, để không rơi vào tình
trạng nảy sinh hậu quả nặng nề trong việc thực hiện các mục tiêu trọng tâm về

phát triển giáo dục, những vấn đề khó khắc phục, khó điều hoà cân bằng được.
Phải phát triển đồng bộ các biện pháp, giải pháp, từ tuyên truyền vận động,
thuyết phục, lên kế hoạch triển khai, đến phối hợp các lực lượng cùng tham gia
góp sức, trong đó cần định rõ và chỉ đạo kiên quyết những giải pháp cơ bản,
trọng tâm, xác định rõ lực lượng nòng cốt trong việc triển khai thực hiện. Công
tác tạo chuyển biến chất lượng học sinh chưa hoàn thành, khắc phục tình trạng
học sinh ngồi nhầm lớp là công việc thường xuyên, trọng tâm trong hoạt động
dạy học, nhằm đảm bảo chất lượng phổ cập giáo dục, muốn vậy phải có sự đầu
tư mạnh mẽ về các điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu này.
- Căn cứ công văn số 8165/BGD-ĐT-VP ngày 02/8/2007 về việc phối hợp
tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 33/2006/CT-TTg của Thủ tướng về chống
tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục và cuộc vận động “Hai
không” với bốn nội dung, đồng thời thực hiện cuộc vận động " Mỗi thầy giáo, cô
giáo là một tấm gương tự học và sáng tạo".
3


- UBND huyện Mường Lát (2013) có đề án "Nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo huyện Mường Lát giai đoạn 2013 – 2020"
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trường Tiểu học Trung Lý 1 thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Trường cách
trung tâm huyện 50 km, trường gồm 9 điểm trưởng ở các bản. Giao thông đi lại
với các bản còn gặp nhiều khó khăn, nhiều bản còn chưa có điện lưới. Học sinh
chủ yếu là người dân tộc thiểu số người H’mông và người Thái. Gia đình đông
con, cuộc sống vất vả, thu nhập chủ yếu dựa vào nương rẫy. Qua thực tế giảng
dạy, tôi nhận thấy rằng học sinh chất lượng không đồng đều ở các điểm trường,
tình trạng học sinh không theo kịp chương trình còn nhiều. Vậy đâu là nguyên
nhân dẫn đến chất lượng học sinh chưa đạt yêu cầu như vậy? Sau quá trình điều
tra tìm hiểu tôi thấy việc học sinh học yếu do các nguyên nhân sau:
2.2.1. Về phía giáo viên:

- Trong một số tiết dạy, giáo viên chỉ chú ý truyền đạt kiến thức trọng tâm cho
cả lớp ( hoặc là chỉ chú trọng vào các em khá, giỏi và coi đây là chất lượng
chung của lớp ) mà ít quan tâm học sinh yếu kém có nắm bắt được kiến thức hay
không. Hoặc là có quan tâm đến học sinh yếu nhưng chưa đúng mức, chưa đúng
cách. Đặc biệt, hệ thống câu hỏi chưa gợi mở, chưa cụ thể; dẫn dắt chưa logic,
chưa phù hợp cho từng đối tượng; có những tiết học giáo viên còn nói lan man,
giảng giải nhiều, chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm, câu hỏi còn mang tính khái
quát.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, sách giáo khoa còn hạn
chế, chưa khai thác hết tác dụng của đồ dùng dạy học, chưa xử lý hết các tình
huống trong tiết dạy một cách phù hợp.
- Việc tổ chức các hoạt động dạy học còn mang tính hình thức chưa phù hợp.
Phương pháp giảng dạy của một số giáo viên còn máy móc, năng lực tổ chức giờ
học theo nhóm, theo đối tượng còn hạn chế. Giáo viên ít động viên tuyên dương
kịp thời khi HS có biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
- Một số ít giáo viên còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải
quyết vấn đề chất lượng học tập của HS. Cá biệt có giáo viên tinh thần trách
nhiệm chưa cao, tự thoả mãn, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, không đánh giá
đúng thực chất của lớp mình giảng dạy
- Một số ít giáo viên do thiếu kinh nghiệm trong giảng dạy hoặc chưa thật sự
chịu khó, tận tuỵ với học sinh nên trong quá trình dạy học còn bỏ rơi một bộ
phận học sinh chưa hoàn thàn. Do vậy chất lượng thường xuất hiện tình trạng
phân cực rõ nét khoảng cách ngày càng xa, những học sinh chưa hoàn thành
khó được bù đắp về kiến thức kĩ năng dẫn đến ngày càng yếu kém thêm, sức học
ngày càng đuối, nguy cơ tái phát ngồi nhầm chỗ luôn ẩn chứa bùng phát.
2.2.2. Nội dung chương trình:
4


Chương trình phổ thông mới có nhiều ưu điểm, xong yêu cầu cao và nặng.

Mặt khác, chưa có một chương trình, giáo án nào có sẵn dạy riêng cho riêng đối
tượng học sinh học yếu, cá biệt. Càng lên lớp trên lượng kiến thức thường nhiều,
khó đòi hỏi sự tư duy trừu tượng cao hơn so với lớp dưới.Vì thế đẫn đến sự phân
hóa học sinh, có nhiều học sinh học không theo được .
2.2.3. Về phía học sinh:
- Đa số học sinh tiểu học khả năng chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo
viên không bền, dễ thích, chóng chán. Một số học sinh chưa coi việc học là
chính, trong giờ học còn làm việc riêng không chú ý nghe giảng. Một bộ phận
học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tậpvốn kiến thức cơ bản còn hạn
chế.
- Mặt khác do thói quen ỉ lại, dựa dẫm vào người khác, nên khi gặp bài toán, bài
tập khó các em không chịu suy nghĩ để làm bài. Phần lớn học sinh còn quen với
cách học đơn giản như ở các lớp dưới. Khả năng tư duy của một số bộ phận các
em còn chậm trong khi thời lượng của một bài học là nhiều và khó.
- Do các em đi hoc không đều, thường xuyên nghỉ học nên ảnh hưởng nhiều đến
việc học
2.2.4. Về phía gia đình:
Do đặc điểm học sinh chủ yếu là con em người dân tộc thiểu số, gia đình
sinh nhiều con,quanh năm làm nương rẫy, cuộc sống khó khăn. Mặt khác do
trình độ nhận thức của một số phụ huynh chưa cao,có nhiều hạn chế không có
khả năng giúp các em học bài ở nhà. Nên đành phó mặc việc học hành của con
em cho thầy cô dạy dỗ.
Do trong gia đình có sự thay đổi lớn như: bố mẹ li dị, hay cãi vã đánh
nhau, gia đình tan vỡ vv… Làm cho trẻ bị thay đổi về tâm lí dẫn đến chán
học…
Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học
sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi hay đi du lịch...) cha mẹ
cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém!
2.2.5. Kết quả thực trạng:

Đầu năm học 2016 - 2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2A – khu Táo. Tôi
đã tiến hành khảo sát chất lượng toàn học sinh khối lớp 2( lớp 2A, 2B) - khu Táo
ở 2 môn: Toán, Tiếng Việt. Và tôi thu được kết quả như sau:
Môn

Lớp

Sĩ số

Toán

2A
2B

16
16

Kết quả khảo sát
Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
2
2

8
8

6
6

5



Tiếng
việt

2A
2B

16
16

3
3

8
8

5
5

2.3.Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn
đề.
2.3.1.Tìm hiểu đặc điểm tình hình các đối tượng học sinh chưa hoàn thành và
nguyên nhân dẫn đến việc học sinh chưa hoàn thành
* Tìm hiểu đặc điểm tình hình đối tượng học sinh chưa hoàn thành:
Gv điều tra nắm bắt tình hình của các đối tượng học sinh học chưa hoàn thành
một các cụ thể, rõ ràng để có biện pháp phụ hợp. Thường có hai loại đối tượng
học sinh chưa hoàn thành: Đối tượng mở rộng và Đối tượng tập trung
- Đối tượng mở rộng: Là đối tượng HS chỉ học kém trong một khoảng thời gian
nhất định. Với sự giúp đỡ của GV thì những HS đó có khả năng học tốt lên và
đạt yêu cầu

- Đối tượng tập trung( Đối tượng chủ yếu): Là những HS học kém không có khả
năng theo kịp kiến thức bài học, hoặc bị hạn chế ở một hay nhiều kĩ năng cơ
bản, không có khả năng tự thực hiện yêu cầu bài học. Với đối tượng này, GV
phải thường xuyên quan tâm, giúp đỡ và có biện pháp trong thời gian dài và
xuyên suốt quá trình dạy học. GV cần xác định rõ HS bị thiếu kiến thức gì, bị
hổng kiến thức ở đâu để có biện pháp khắc phục.
* Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh chưa hoàn thành :
- Đa số các em là con nhà dân nghèo, là người dân tộc thiểu số. Bố mẹ quanh
năm là nương rẫy, thường xuyên ở lại trong rẫy.Vì vậy, học sinh thường phải
nghỉ học ở nhà trông em và đi làm nương. Có những học sinh có hoàn cảnh đặc
biệt: bố, mẹ mất sớm hoặc bị nghiện ngập, tù tội, phải ở với người thân, không
được quan tâm nhiều, nhất là việc học.
- Các em đều chưa có ý thức học tập một cách chủ động, còn quen dựa dẫm, ỉ
lại.
- Ngoài ra các em là con em vùng đặc biệt khó khăn, nên ngoài thời gian học
trên lớp ở nhà các em còn phải giúp đỡ bố việc nhà.
- Do trình độ của đa phần phụ huynh còn hạn chế nên không thể chỉ bảo việc
học cho con, kg quan tâm đến việc học của con. Vì vậy mà đành phó mặc việc
học của con cho thầy cô giáo ở trường .
2.3.2. Khảo sát phân loại đối tượng học sinh, tìm biện pháp để rèn luyện học
sinh chưa hoàn thành
* Khảo sát phân loại đối tượng học sinh:
- Sau khi nhận lớp, GV tiến hành phân loại đối tượng học sinh.
- Sau khi phân loại đối tượng học sinh trong lớp, tôi tiến hành sắp xếp bố trí lớp
học cho phù hợp, cụ thể tôi xếp như sau:
Vì trường học 2 buổi / ngày nên tôi sắp xếp buổi chính ghép một em học tốt
ngồi với một em học kém, một em có học khá ngồi với một em có học trung
bình, để các em có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau trong qua trình học tập. Buổi hai,
6



tôi sắp xếp các em có học tốt và học khá ngồi một dãy.Tập trung những em có
học kém và gần kém ngồi một dãy. Tôi giao nhiệm vụ học tập phù hợp với từng
nhóm đối tượng. Để tôi có thời gian kèm cặp chỉ bảo thêm cho các em yếu
những kiến thức mà các em còn thiếu và chưa rõ.
- Tôi giao nhiều dạng bài tập cùng lại (phù hợp với đối tượng) để học sinh có thể
khắc sâu kiến thức
2.3.3. Lập kế hoạch và dạy học đến từng đối tượng học sinh trong lớp.
- Khi lập kế hoạch dạy học tôi luôn chú ý chuẩn bị một số câu hỏi gợi mở từ dễ
đến khó để tất cả các em có thể tham gia học tập, xây dựng bài một cách tích
cực.
- Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy được khả năng
của từng học sinh. Mọi học sinh đựơc tham gia hoạt động học tập trong mọi giờ
học.
- Sau khi lập kế hoạch tôi tiến hành dạy học đến từng đối tượng học sinh trong
mọi giờ học. Trong mỗi tiết học căn cứ vào trình độ của học sinh để giao nhiệm
vụ học tập một cách vừa sức, tránh yêu cầu quá cao hoặc quá dễ, thông thường
nếu bài tập không đòi hỏi sự tư duy nhiều tôi giao cho học sinh có học kém, nếu
bài tập có yêu cầu khó hơn một chút tôi giao cho học sinh học tốt hơn. Để các
em được thể hiện, được trả lời. Điều đó giúp học sinh thấy tự tin hơn trong khi
học, các em sẽ thấy hứng thú, tự tin và chủ động khi tiếp cận kiến thức.
- Trong mỗi tiết dạy, sau khi giảng bài mới xong, cho lớp làm bài tập vào vở, lúc
này tôi dành thời gian đến từng học sinh học kém để xem các em có hiểu bài
chưa và có làm được bài không. Nếu học sinh nào nắm chưa vững kiến thức,
chưa vận dụng vào làm bài tập tôi sẽ hướng dẫn thêm cho các em, để các em có
thể hiểu, nắm vững kiến thức của bài học.
- Đến giờ báo cáo kết quả làm việc tôi tiếp tục quan tâm đến mọi đối tượng học
sinh cụ thể:
+ Nếu bài tập dễ, đòi hỏi ít tư duy tôi cho các em học sinh kém, trung bình lên
làm và trình bày.

+ Nếu bài tập khó đòi hỏi sự tư duy tôi dành cho các em học tốt.
Như vậy sẽ phát huy được khả năng và sở trường của các em, giúp các em hứng
thú học tập và học tập một cách tích cực hơn.
- Do học sinh tiểu học còn có đặc điểm tâm lí dễ chán nản và thiếu tự tin khi bị
phê bình quyết liệt. Chính vì vậy trong quá trình dạy học tôi luôn chú ý đến việc
khuyến khích, động viên học sinh. Đối xử một cách công bằng với tất cả mọi
học sinh trong lớp. Nếu có học sinh nào làm sai chỉ cần nhắc nhở một cách nhẹ
nhàng và động viên các em lần sau cố gắng hơn nữa.
2.3.4. Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cho phù:
Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học là khả năng tập trung chú ý
chưa cao, ưa thích những điều mới lạ, dễ chán nản nếu duy trì một hoạt động
nào đó quá dài. Chính vì vậy trong quá trình dạy học người giáo viên cần biết
lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp, thường xuyên
thay đổi các hình thức tổ chức dạy học trong mỗi tiết học.
7


Sử dụng phối kết hợp các hình thức thi đua học tập giữa các cá nhân hay nhóm
một cách phù hợp, có hiệu quả. Trong mỗi giờ học cần sử dụng phương pháp trò
chơi học tập, cải tiến các bài tập ở sách giáo khoa, vở bài tập thành các dạng trò
chơi giúp học sinh thấy hứng thú học tập và nắm kiến thức được tốt hơn.
Ví dụ: Trong khi dạy học toán chúng ta có thể cải tiến các bài tập thành các
dạng trò chơi như :Thi giải toán nhanh, giải ô chữ toán học. (chú ý hình thức trò
chơi, các trò chơi cũng cần dành cho mọi đối tượng, khi chơi cũng cần gọi các
đối tượng học sinh có trình độ ngang nhau. Tránh hiện tượng trò chơi chỉ giành
cho học sinh học tốt).
Chúng ta cũng có thể áp dụng trò chơi ở nhiều môn để gây hứng thú và giúp
học sinh tiếp thu bài với tâm trạng vui vẻ, thoải mái . Ví dụ: Trong phân môn
Luyện từ và câu, chúng ta cũng có thể tổ chức các trò chơi như: Ai nhanh ai
đúng, hình thức tiếp sức để gắn từ đúng, hoặc trò chơi giải ô chữ tìm từ thuộc

chủ điểm đã học. Dạng này dành cho các tiết mở rộng vốn từ …
Từ những trò chơi học tập như thế sẽ thu hút sự chú ý của các em, các em
thấy mỗi tiết học thú vị, nắm bài nhanh, tránh được sự căng thẳng trong học tập.
2.3.5. Thường xuyên chấm chữa bài để nắm được mức độ hiểu bài và vận
dụng vào trong bài làm của học sinh, ra đề khảo sát chất lượng học sinh để lấy
kết quả đối chứng, rút kinh nghiệm.
- Trong tất cả các môn học tôi thường xuyên chấm chữa bài cho học sinh từ 2-3
lần/tuần/ môn vừa đảm bảo quy định chấm chữa bài đồng thời cũng giúp tôi có
điều kiện nắm bắt kịp thời những em học sinh nào nắm được bài, em nào chưa
hiểu bài.
- Đối với học sinh học yếu kém việc chấm chữa bài còn giúp tôi phát hiện xem
các em làm bài sai ở đâu, để từ đó tìm nguyên nhân vì sao các em sai để từ đó
kịp thời uốn nắn, sửa chữa cho các em vào các tiết học ở buổi hai.
Qua việc chấm chữa bài thường xuyên đó cũng một phần giúp tôi đánh giá
lại hiệu quả của quá trình giảng dạy của mình. Để từ đó có hướng điều chỉnh
phương pháp cách dạy học của mình.
- Với những biện pháp rèn luyện học sinh chưa hoàn thành: Trong quá trình
giảng dạy cuối mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì tôi lại ra đề khảo sát các đối tượng
học sinh trong lớp. Đó kiểm tra xem các biện pháp dạy học đó có đem lại hiệu
quả so với cách dạy thông thường. Qua mỗi lần khảo sát cho thấy kết quả ngày
càng tốt hơn giúp tôi vững tin hơn trong quá trình viết sáng kiến kinh nghiệm về
các biện pháp rèn luyện học sinh chưa hoàn thành mà mình đã áp dụng.
2.3.6. Sử dụng đồ dùng hợp lí và hiệu quả.
Tôi thường nghiên cứu và tìm cách làm đồ dùng sao cho mang lại hiệu quả
cao nhất đối với mỗi tiết dạy. Thông qua đó giúp học sinh dễ hiểu và nắm vững
kiến thức hơn.
2.3.7. Phát động phong trào học tập: “Đôi bạn cùng tiến”
Ngoài việc dạy học, người giáo viên cũng cần quan tâm đến công tác chủ
nhiệm quản lý lớp học. Bởi đây cũng là một phần việc rất quan trọng trong quá
trình rèn luyện học sinh học yếu. Nếu làm tốt công tác chủ nhiệm lớp giáo viên

8


có thể khuyến khích, phát động phong trào học tập giữa các cá nhân, tổ, nhóm.
Tạo nên phong trào học tập sôi nổi và tích cực ở trong lớp.
- Mặt khác khi bố trí lớp học cần bố trí cho các em ngồi xen kẽ: học sinh hoàn
thành tốt _ học sinh chưa hoàn thành, học sinh hoàn thành – học sinh chưa hoàn
hành. Sắp xếp như vậy cũng là một nghệ thuật của người giáo viên chủ nhiệm.
Mục đích sắp xếp như vậy là để trong quá trình học tập, thảo luận, các em có thể
giúp đỡ lẫn nhau, học hỏi lẫn nhau cùng tiến bộ. Khi sắp xếp như vậy người giáo
viên cũng cần giao nhiệm vụ cụ thể như : những em hoàn thành tốt và hoàn
thành phải có nhiệm vụ giúp đỡ bạn trong quá trình học tập, những bạn chưa
hoàn thành phải cố gắng không ỉ lại, dựa dẫm vào những bạn học giỏi. Giáo viên
theo dõi sát sao, nhắc nhở giúp các em cùng tiến bộ. Sau mỗi đợt phát động giáo
viên nên cho học sinh bình bầu và có phần thưởng cho đôi bạn nào có nhiều tiến
bộ nhất.
- Phát động phong trào “ Đôi bạn cùng tiến” giữa các cặp học sinh với nhau,
vừa tạo ra sự thi đua học tập lại vừa tạo ra thái độ có trách nhiệm với nhau hơn
giữa các học sinh.
2.3.8. Luôn quan tâm, gần gũi, động viên và khích lệ học sinh.
- Trong quá trình dạy học giáo viên cũng cần quan tâm đến cuộc sống đời
thường của các em, gần gũi trò chuyện với các em, động viên khuyến khích các
em học tập trong mọi lúc. Bởi những học sinh chưa hoàn thành thường nhút
nhát, ngại gần thầy cô giáo và thấy tự ti trước các bạn học giỏi hơn. Vì vậy, gần
gũi động viên các em kịp thời để tạo cho các em thấy vững vàng, tự tin không
có cảm giác bị bỏ quên. Thường xuyên động viên và tạo mọi điều kiện để các
em đi học đều, không nghỉ học vô lí do nữa
- Giáo viên chủ nhiệm làm tham mưu với các tổ chức Đội - Đoàn - Nhà trường Hội cha mẹ học sinh để có những phần thưởng xứng đáng giành cho những học
sinh chưa hoàn thành có cố gắng vươn lên hoàn thành, hoàn thành tốt vào các
kỳ, năm học.

2.3.9. Thường xuyên trao đổi thông tin với gia đình học sinh để có biện pháp rèn
luyện, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành
Đối với học sinh chưa hoàn thành, ngoài sử dụng các biện pháp kèm cặp rèn
luyện trên lớp. Tôi thường xuyên trao đổi thông tin kịp thời tới từng gia đình học
sinh thông qua cuốn sổ “liên lạc” mà tôi đã chuẩn bị ngay từ đầu năm học. Để
thông báo về tình hình học tập của con em gia đình theo tháng, kỳ.
Tôi cũng đã gặp gỡ trao đổi với những phụ huynh ít quan tâm đến việc học
của học sinh, đề nghị có sự hợp tác với giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp
giúp đỡ học sinh học tập tốt hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
* Trong quá trình dạy học mỗi lần tìm ra biện pháp giúp đỡ rèn luyện học sinh
chưa hoàn thành, tôi liền áp dụng vào giảng dạy. Vào những buổi sinh hoạt
chuyên môn của tổ tôi mạnh dạn đề xuất các biện pháp đã tìm được và áp dụng.
Để tổ chuyên môn và ban giám hiệu thảo luận góp ý để tìm ra biện pháp tốt
9


nhất. Sau đó tôi ghi chép lại đầy đủ, đưa về lớp mình thực hiện ứng dụng trong
thực tế và hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm.
* Sau khi hoàn thiện kinh nghiệm rèn luyện học sinh yếu tôi đã áp dụng triệt để
vào trong mọi giờ học. Qua những lần thao giảng dự giờ ở nhà trường tôi vẫn áp
dụng những biện pháp trên vào trong giảng dạy, ban giám hiệu và tổ chuyên
môn tới dự cũng đã góp ý và bổ sung thêm những kinh nghiệm cho tôi. Giờ dạy
của tôi được đánh giá rất cao vì học sinh hiểu bài và làm bài tập rất tốt, cách dạy
dễ hiểu , giờ học có hiệu quả .
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Qua việc nghiên cứu áp dụng các biện pháp rèn luyện học sinh chưa hoàn
thành vào giảng dạy ở lớp mình chủ nhiệm, tôi thu được kết quả khá tốt. Sau khi

tiến hành khảo sát chất lượng giữa hai lớp ( lớp 2A và lớp 2B), tôi thu được kết
quả như sau:
Kết quả khảo sát
Hoàn thành tốt Hoàn thành
Chưa hoàn thành

Môn

Lớp

Sĩ số

Toán

2A
2B

16
16

7
4

9
10

0
2

2A

2B

16
16

8
5

8
9

0
2

Tiếng
việt

Qua bảng chất lượng tôi nhận thấy số lượng học sinh hoàn thành tốt và hoàn
thành tăng lên. Số lượng học sinh chưa hoàn thành đã giảm và không còn so với
các lớp khác trong khối. Điều đó đã khẳng định các biện pháp rèn luyện học sinh
chưa hoàn thành như đã trình bày ở trên là rất phù hợp. Giải quyết được vấn đề
bức xúc của ngành giáo dục hiện nay đó là tình trạng học sinh chất lượng kém
nhiều.
Với việc áp dụng các biện pháp này vào trong quá trình giảng dạy sẽ giúp tất
cả các em đều hứng thú học tập và tự tin vào khả năng học tập của mình hơn. Từ
đó đem lại chất lượng hiệu quả giờ dạy và chất lượng học sinh cũng được nâng
lên đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay.
3.2. Kiến nghị.
Từ thực tiễn của quá trình dạy học tôi đã tập trung rèn luyện học sinh chưa
hoàn thành bằng các biện pháp rút ra từ thực tế của quá trình dạy học ở lớp tôi

đang giảng dạy, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Trong quá trình dạy học người giáo viên không ngừng tìm hiểu tình hình học
sinh lớp mình, tìm hiểu nguyên nhân cội rễ của vấn đề học sinh chưa hoàn
thành. Có trách nhiệm tìm ra biện pháp dạy học đến từng đối tượng học sinh
trong lớp không chỉ để bồi dưỡng học sinh hoàn thành tốt, nâng cao chất lượng
10


học sinh đại trà mà còn xóa bỏ tình trạng học yếu kém ngồi nhầm lớp như hiện
nay.
- Hàng năm các cấp quản lý cũng cần triển khai những sáng kiến kinh nghiệm
đạt giải qua các năm và có tính thực tiễn, hiệu quả đến mọi giáo viên để gịáo
viên có điều kiện học tập và vận dụng vào trong quá trình giảng dạy.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Trung Lý, ngày 25 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình
viết, không sao chép của người khác
Người viết
Phan Thị Thanh Thủy

11



×