Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số giải pháp nâng cao kỹ năng cơ bản nền nếp học tập nhằm phát triển tư duy tích cực và sáng tạo cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.67 KB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, mục tiêu cơ bản của bậc học tiểu học là hình thành và
phát triển nền tảng tư duy con người trong thời đại mới. Trong đó, những kiến thức
và kĩ năng cơ bản được chú trọng, bao gồm: đọc, viết, tính toán và những kiến thức
cơ bản của các môn học trong nhà trường; những kĩ năng tư duy và hoạt động sáng
tạo như: biết cách suy luận, phát hiện và giải quyết vấn đề, biết cách học và tự học,
có tư duy phê phán, tư duy sáng tạo,… ; hình thành và phát triển phẩm chất và
nhân cách con người mới có bản lĩnh, có ý thức và tinh thần trách nhiệm, trung
thực, biết tự quản lý và làm chủ bản thân,… Trong đó, mục tiêu phát triển năng lực
giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo ở người học được vô cùng coi trọng. Điều này
thể hiện trong nhà trường chính là thông qua dạy kiến thức, rèn kỹ năng để hình
thành và phát triển năng lực tư duy, phát triển trí tuệ, tư duy sáng tạo và các phẩm
chất nhân cách khác của học sinh. Như vậy, thông qua dạy và học để tạo nền móng
trí tuệ, cách thức giải quyết vấn đề, hoạt động sáng tạo ở người học được xem như
một trong những mục tiêu cơ bản, trọng tâm của giáo dục ở nhà trường Tiểu học
trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc hình thành kỹ năng cơ bản, cốt lõi cho học sinh lớp 1 là vấn đề hết sức
quan trọng và cần thiết. Nó góp phần hình thành nhân cách và là cơ sở để hình
thành và phát triển tư duy tích cực và sáng tạo, tạo cơ hội để các em được học tập
tốt hơn, được thừa nhận và tôn trọng, có điều kiện tốt hơn để thành công. Có tư
duy sáng tạo là điều kiện tiên quyết giúp học sinh có cái nhìn phê phán, biện chứng
đối với mọi vấn đề, từ đó có những giải pháp thích hợp, thông minh, hiệu quả hơn.
Muốn có một lớp đạt chất lượng giáo dục cao thì trước hết người giáo viên
phải hình thành và phát triển kỹ năng cơ bản, cốt lõi, nền nếp học tập cho học sinh
thông qua các môn học ngay từ khi mới nhận lớp. Tuy nhiên trong thực tế dạy học
hiện nay, nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức và thực hiện hiệu quả việc giáo
dục kỹ năng cho học sinh nên các em chưa biết ứng phó và giải quyết những tình
huống khó khăn, nguy hiểm. Mặt khác, nó còn ảnh hưởng đến phát triển tư duy cho
trẻ. Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng trên ? Đó là câu hỏi mà bản thân tôi
đã trăn trở, suy nghĩ. Là giáo viên trực tiếp dạy lớp 1, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu


và đưa ra “Một số giải pháp hình thành kỹ năng cơ bản thông qua các môn học
nhằm phát triển tư duy tích cực và sáng tạo cho học sinh lớp 1” góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục.
1.2. Mục đích nghiên cứu
+ Sáng kiến kinh nghiệm nhằm nâng cao kỹ năng cơ bản nền nếp học tập
nhằm phát triển tư duy tích cực và sáng tạo cho học sinh lớp 1.


+ Nhằm đúc rút ra một số kinh nghiệm để góp phần hình thành cho học sinh
lớp một có nền nếp trong học tập, giúp các em học tập tốt hơn và từ đó các em có
hứng thú say mê trong học tập.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
+ Cách tổ chức và thực hiện dạy học lớp 1 .
+ Nghiên cứu việc hình thành kỹ năng cơ bản của học sinh lớp 1D, trường
tiểu học Nga Bạch, Nga Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Qua nghiên cứu tôi đã tìm ra được các nhóm phương pháp chính sau đây:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: nghiên cứu các tài liệu
để nâng cao kỹ năng cơ bản nền nếp học tập nhằm phát triển tư duy tích cực và
sáng tạo cho học sinh lớp 1D.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Điều tra, khảo sát
thực tế của lớp mình phụ trách.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Thống kê lớp có bao nhiêu học sinh
thực hiện tốt hoặc chưa tốt các kỹ năng cơ bản, tìm nguyên nhân biện pháp rèn nền
nếp cho học sinh.
+Phương pháp thực nghiệm: Áp dụng các biện pháp rèn kỹ năng cho học
sinh.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tư duy có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của nền văn minh

nhân loại, trong đó có tư duy tích cực và tư duy sáng tạo. Thông qua các hoạt động
dạy học và giáo dục, các kỹ năng cơ bản được hình thành, là điều kiện để phát triển
tư duy. Do vậy, tư duy không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà tâm lý học mà
còn thu hút các nhà khoa học sư phạm, bởi nó có mối quan hệ sâu sắc với hoạt
động học tập của học sinh trong nhà trường đặc biệt là với việc phát triển trí tuệ
Phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ là mục tiêu của toàn xã hội. Nhân cách
của con người được hình thành trong quá trình giáo dục. Vì vậy giáo dục trẻ ngay
từ những ngày đầu tới trường là một việc làm hết sức cần thiết. Nó là nền tảng
vững chắc ngay từ bước đầu để trẻ hoàn thiện và phát triển nhân cách một con
người. Việc hình thành kỹ năng cơ bản, cốt lõi tạo nềm móng cho phát triển tư duy
và nhân cách học sinh tiểu học.
Trong thời đại mới hiện nay, người giáo viên làm tốt việc hình thành kỹ năng
cơ bản, cốt lõi là đã giúp học sinh phát huy được những đức tính và phong cách
của người lao động như ý thức vượt khó, thói quen phán đoán, tính cẩn thận chu
đáo, làm việc có kế hoạch. Để làm được điều này, người giáo viên chủ nhiệm lớp


trong trường có vai trò rất quan trọng. Muốn nâng cao chất lượng học tập và phẩm
chất năng lực cho học sinh thì một trong những việc làm cần thiết của giáo viên là
hình thành và phát triển kỹ năng kỹ xảo cho học sinh. Các em có kỹ năng tốt sẽ
giúp học sinh có tính tự lập, nghiêm túc, tích cực trong học tập và lao động, nâng
cao chất lượng dạy và học, đồng thời rèn luyện cho học sinh đạo đức, tác phong,
phát triển tư duy tích cực và sáng tạo. “Có tư duy sáng tạo, ngoài giúp cho việc học
tập và tiếp thu tri thức tốt hơn, nó còn giúp học sinh có bộ óc thông minh, tỉnh táo
để phát hiện và giải quyết những vấn đề phức tạp, tránh được những mối nguy
hiểm, những tác động xấu của môi trường xung quanh. Nếu không có khả năng tư
duy sáng tạo thì học sinh không thể và rất khó khăn trong giải quyết tốt các vấn đề
nảy sinh trong quá trình học tập và trong cuộc sống ». [1]
Hành vi ở mỗi học sinh Tiểu học sẽ theo suốt cuộc đời của mỗi cá nhân, vì
những gì đã hình thành ở mỗi trẻ em rất khó thay đổi. Đặc điểm này đòi hỏi sự

chuẩn xác, tính khoa học, tính nhân văn cao ở một nền giáo dục, ở nhà trường, ở
mỗi giáo viên. Chính vì vậy mà chúng ta cần phải chú trọng hình thành kỹ năng cơ
bản cho học sinh ngay từ những ngày đầu đi học.
2.2. Thực trạng
*Về phía giáo viên:
- GV chưa nghiên cứu kỹ bài dạy để lựa chọn phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học phù hợp, hệ thống câu hỏi chưa rõ ràng, dễ hiểu để định hướng cho
học sinh nhận xét các sự vật hiện tượng, từ đó biết cách xử lý những tình huống
đơn giản trong cuộc sống.
- Trong nhà trường phần đa các đồng chí giáo viên đều chú ý rèn kỹ năng cho
học sinh nhưng còn một số đồng chí giáo viên chủ nhiệm chưa làm tròn bổn phận
của mình còn lơ là, chưa quan tâm tới cá nhân học sinh, coi việc rèn kỹ năng như
một việc làm bắt buộc, làm cho hết trách nhiệm của mình hay theo yêu cầu của
lãnh đạo, họ chưa thấy tầm quan trọng của việc rèn nền nếp đặc biệt là đối với học
sinh lớp 1. Một số giáo viên cho rằng chỉ cần phấn đấu dạy cho tốt thế là học sinh
học tập tốt còn những nội dung khác của việc rèn nền nếp có lúc bị xem nhẹ.
- Cũng có một số giáo viên chỉ quan tâm đến việc rèn nền nếp cho những học
sinh con gia đình khá giả, có địa vị trong xã hội, còn những học sinh khó khăn hay
những học sinh chậm tiến, học sinh cá biệt trong lớp thì ít được quan tâm.
- Việc kiểm tra, đánh giá học sinh trước, sau giờ học hay tuần, tháng …còn
chưa thực hiện thường xuyên.
* Về học sinh:
Năm học 2016- 2017, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 1D Trường
Tiểu học Nga Bạch. Có thể nói học sinh lớp 1 là lớp đầu tiên của bậc Tiểu học,các
em còn nhiều bỡ ngỡ với nhiệm vụ học tập và ý thức tự giác, kỉ luật của lớp, của
trường. Phần lớn hoạt động của các em phải có giáo viên bên cạnh.


- Biểu hiện về nền nếp học tập : Học sinh học không có định hướng trước,
không có thời gian cho từng môn học, không có kế hoạch nhất định mà chỉ học

theo sự dặn dò của giáo viên….
- Biểu hiện về nền nếp sinh hoạt : Ở lớp các em có thói quen chỉ nghe lời thầy
cô chủ nhiệm, hay lẫn tránh những hoạt động tập thể như: lao động, sinh hoạt
hè…..Còn ở nhà các em lại hay cải lời cha mẹ, một số em có biểu hiện vô lễ, chẳng
biết đi thưa về trình,…
- Biểu hiện về cách ứng xử đơn giản: Thầy cô vẫn nghe đâu đó câu chửi tục,
chửi thề ở các em, nói năng với người lớn chưa lễ phép, có nhiều hành vi thiếu suy
nghĩ đánh bạn, tự lấy đồ dùng ở trường, chưa biết quan tâm đến đến buồn vui của
bạn bè.
- Học sinh giao tiếp còn hạn chế, ứng xử chưa tốt.
Vì thế việc hình thành nề nếp cho học sinh hằng ngày là việc làm không thể
thiếu. Đặc biệt là học sinh lớp 1 đang độ tuổi hình thành những phẩm chất nhân
cách quan trọng nhất.
Qua thực tế tôi đã thực hiện khảo sát và tổng hợp kết quả cụ thể như sau:

Tổng
số HS
26

Có kỹ năng cơ bản,
xử lý tình huống tốt
SL
5

TL
19%

Biết kỹ năng cơ bản,
biết xử lý tình huống ở
mức đơn giản

SL
TL
8
30,4%

Chưa có kỹ năng cơ
bản và xử lý tình
huống
SL
TL
14
50,6%

Như vậy, qua khảo sát thực tế, số lượng học sinh có kỹ năng cơ bản, xử lý tình
huống tốt còn ít so với số học sinh của lớp. Số lượng học sinh chưa có kỹ năng cơ
bản, chưa biết xử lý tình huống còn chiếm tỷ lệ cao. Bởi vậy cần có những giải
pháp phù hợp và hiệu quả để khắc phục tình trạng trên.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh
Ngay từ đầu năm học, giáo viên luôn gần gũi quan tâm đến học sinh để tìm
hiểu hoàn cảnh gia đình, lực học và các kỹ năng của học sinh để nắm bát tình hình
và đưa ra cách dạy học phù hợp. Sau đó, giáo viên phân loại thành các nhóm:
- Hoàn cảnh gia đình: Phần đa các em đều con nhà gia đình làm nghề thủ
công , không có công ăn việc làm ổn định, bố mẹ phải đi làm ăn xa, các em ở với
ông bà. Do vậy việc quan tâm chăm sóc các em học tập của phụ huynh còn lơ là
chưa sát sao.
- Lực học: Trong lớp số học sinh có kỹ năng cơ bản, nền nếp học tập chỉ
chiếm 19 %. Số học sinh biết kỹ năng cơ bản, nền nếp học tập chiếm 30,4 %. Còn
lại là số học sinh chưa có kỹ năng cơ bản, nền nếp học tập chiếm 50,6 %. Vì vậy



ngay từ đầu năm tôi đã khảo sát chất lượng, nắm học lực của từng học sinh trong
lớp, đặc biệt chú ý học sinh chưa hoàn thành, lượng kiến thức quá tải đối với các
em nên không làm được bài các em sẽ nói chuyện và nhìn bài của bạn.
- Kĩ năng cơ bản: Mỗi học sinh có ý thức tự quản, xây dựng nền nếp tốt, biết
quan tâm giúp đỡ những bạn có hoàn cảnh khó khăn. Song vẫn còn một bộ phận
nhỏ học sinh nói tự do trong lớp, thường xuyên không thuộc bài …
Qua việc tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh đã giúp tôi nắm được hoàn
cảnh, lực học của từng em. Từ đó đưa ra biện pháp dạy học phù hợp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục.
2.3.2. Tăng cường xây dựng nền nếp học tập cho học sinh
Thời gian đầu (một tháng) tôi kiểm tra hàng ngày từng em. Khi đã thành
nền nếp rồi tôi giao việc kiểm tra cho cán bộ lớp, cụ thể là các em tổ trưởng, sau
báo cáo lại cho giáo viên. Phải có sự kiểm tra thường xuyên tất nhiên phải có em
thực hiện tốt, có em chưa tốt. Tôi hướng dẫn các em tổ trưởng ghi lại sự kiểm tra
của các bạn sau đó ghi vào sổ thi đua của tổ. Cuối tuần tổng kết vào buổi sinh hoạt
lớp. Tổ nào, cá nhân nào tốt sẽ được khen, biểu dương có phần thưởng (khen hoặc
thưởng có khi chỉ là một các bút chì, tẩy hoặc mỗi em một nhãn vở). Còn em nào
chưa tốt hay quên đồ dùng hoặc sách vở thì sẽ nhắc nhở, rút kinh nghiệm trước
lớp, nếu nhiều lần giáo viên sẽ ghi vào sổ liên lạc và kết hợp cùng phụ huynh học
sinh để khắc phục.
- Việc ngăn nắp trong khi sắp xếp sách vở và đồ dùng học tập cũng là yếu tố
quan trọng dẫn đến học tập tốt. Tôi hướng dẫn các em cách lấy sách vở trong cặp
nhanh không gây tiếng động, thực hiện được theo các ký hiệu của giáo viên yêu
cầu, ví dụ: B: lấy bảng; STV: sách Tiếng Việt… Em nào đã sắp xếp sách vở ở nhà
một cách khoa học thì lấy vở nhanh, tôi cho các em thi đua xem em nào, tổ nào làm
nhanh (trong thời gian đầu) khi cô nói và viết tên môn học trên bảng là lúc các em
lấy sách vở của môn đó ra và khi cô giáo giới thiệu bài học hay viết tên bài học
trên bảng thì các em phải mở đúng sách vở phần bài học. Giữa giáo viên và học
sinh có sự kết hợp nhịp nhàng. Tôi thấy tiết học rất nhẹ nhàng và đảm bảo đủ thời

gian cho các hoạt động học tập.
- Trong tiết học khi cần phát biểu tôi hướng dẫn học sinh nếp giơ tay phát biểu
như: chống khuỷu tay trái xuống bàn, giơ thẳng, bàn tay khép lại. Không nói leo,
gây ồn ào trong giờ học.
- Trong giờ học vần: Khi gọi các em đọc bài sách giáo khoa tôi luôn uốn nắn
cách cầm sách không bị hỏng gáy sách, không bị quăn mép, hướng dẫn tỉ mỉ cách
đứng đọc, cách lấy hơi để các em đọc to và rõ ràng.
- Hoặc trong giờ tập viết: Ngoài việc hướng dẫn các em viết đúng, đúng kỹ
thuật và đẹp các em còn phải biết sử dụng bút khi viết, không được ấn mạnh quá sẽ


gẫy ngòi, hoặc sẽ rách vở, không tỳ tay làm quăn mép vở…Việc rèn nếp giữ vở
sạch đẹp là vô cùng quan trọng trong nếp học tập của người học sinh.
Như vậy việc rèn nếp giữ gìn sách vở ngay trong giờ học, học sinh được
hướng dẫn thực tế và uốn nắn kịp thời, lâu dần sẽ hình thành ở các em thói quen
tốt.
Ngoài những nề nếp trên tôi còn giúp học sinh xây dựng nếp giờ truy bài:
- Học sinh giỏi truy bài học sinh yếu dưới sự kiểm tra của ban cán sự lớp và
giáo viên chủ nhiệm.
- 15 phút truy bài đầu giờ của mỗi ngày, giáo viên chủ nhiệm có mặt đôn đốc
nhắc nhở các em. Thỉnh thoảng giáo viên cho lớp tự quản để kiểm tra ý thức của
các em. Từ đó phát hiện và nhắc nhở kịp thời cá nhân làm ồn lớp trong giờ truy
bài.
Sau khi hình thành một số nền nếp cơ bản cho học sinh đặc biệt là nền nếp
trong giờ truy bài tôi thấy các em đã có ý thức tự giác học tập trong tất cả các môn
học .
2.3.3. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn và các tổ chức đoàn thể
trong nhà trường nhằm nâng cao kỹ năng cơ bản, nền nếp học tập tốt cho học
sinh.
Trong nhà trường, để tổ chức tốt các hoạt động cần phối hợp tốt với các tổ

chức đoàn thể, phát huy hết vai trò nội lực để huy động sức mạnh tổng hợp, nâng
cao hiệu quả hoạt động.
* Thông qua đội ngũ cán bộ lớp, Đội thiếu niên kiểm tra nền nếp học tập của
học sinh:
Ở bất cứ lớp nào việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp là hết sức quan trọng và
cần thiết. Riêng ở lớp một lại càng quan trọng hơn vì nó là nền tảng, là bước đầu
cho các năm học phổ thông. Vì vậy, xây dựng một đội ngũ cán bộ lớp tốt là việc rất
quan trọng mà người giáo viên phải có kế hoạch thực hiện. Hơn nữa, để đội ngũ
cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nền nếp học
tập của các bạn là một công việc cần thiết và có ích. Ở đây tôi chỉ nói đến phạm vi
hẹp: đó là trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lớp trong việc hình thành, xây dựng nền
nếp học tập cho học sinh.
- Trước hết, những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải
gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối
xử với bạn bè…Vấn đề này giáo viên cần theo dõi và uốn nắn học sinh kịp thời
cũng như để lựa chọn chính xác.
- Sau đó, hàng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm bốn tổ phó, bốn tổ
trưởng, hai lớp phó, một lớp trưởng sẽ tiến hành công việc của mình.


+ Đầu buổi học: Tổ trưởng và tổ phó kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của các
bạn: soạn sách vở đầy đủ theo thời khoá biểu, mang đủ đồ dùng học tập, có ý thức
xem trước bài mới…rồi tổ trưởng báo cáo với giáo viên.
+ Các tổ trưởng tập hợp kết quả tổ của mình báo cáo với lớp trưởng hay lớp
phó ( nếu lớp trưởng vắng) và đầu mỗi giờ học, lớp trưởng sẽ báo cáo cô giáo chủ
nhiệm. Thời gian ổn định tổ chức giáo viên trực tiếp nhắc nhở từng học sinh vi
phạm hay khen ngợi nếu lớp đầy đủ…
Trường hợp vi phạm hai lần trở lên giáo viên sẽ thông báo về cho phụ huynh
học sinh biết để kịp thời đôn đốc con em thực hiện tốt nền nếp học tập. Có như thế
các em mới nhớ và tạo thói quen có nền nếp tốt trong học tập.

* Thông qua Đội thiếu niên xây dựng học sinh thói quen “ Nói lời hay làm
việc tốt”. Vào buổi sinh hoạt “ Đội” giáo viên chủ nhiệm phối hợp với đội cờ đỏ kể
những câu chuyện mang tính giáo dục, những tấm gương tốt trong nhà trường để
các em học tập, thông qua đó nhắc nhở những em chưa tốt.
Sau khi kết hợp với “ Đội ” và giao nhiệm vụ cho cán bộ lớp kiểm tra nền nếp
học tập của học sinh tôi thấy nền nếp của lớp tôi có tiến bộ rõ rệt.
* Thông qua giáo viên, ban giám hiệu để cùng phối hợp giáo dục, tổ chức các
cuộc thi.
Ngay từ khi học sinh bước vào lớp một, ngoài cô giáo chủ nhiệm lớp, các em
còn được học các thầy, cô giáo bộ môn như: Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục…nên
việc rèn nếp cho học sinh lớp một là rất cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với
giáo viên bộ môn chuyên biệt để cùng rèn nếp cho học sinh từ tư thế ngồi, cách
cầm bút, cách phát biểu…Nếp này phải được rèn thường xuyên trong học sinh để
các em tạo thói quen và trở thành điều kiện thuận lợi cho việc học tập ở những lớp
trên.
Việc phối hợp với các giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng nhằm theo dõi
sĩ số học sinh của lớp mình qua đó giúp các em học tập tốt hơn. Có những em học
sinh thích học môn này, lại không thích môn kia vì những lý do khác nhau do vậy
tôi luôn tìm hiểu kĩ các nguyên nhân từ các giáo viên bộ môn để cùng với giáo viên
bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em có thể có kết quả học tập
tốt hơn từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều đặn hơn. Mặt khác tôi đã
phối hợp với các giáo viên bộ môn trong trường để phát hiện về năng khiếu cũng
như sở thích và những hạn chế của từng học sinh để từ đó phát hiện và bồi dưỡng
kịp thời giúp các em phát triển một cách hoàn thiện hơn.
Ví dụ: Ngay từ đầu năm học tôi đã tìm hiểu ở lớp Mầm non để biết năng
khiếu của các em và qua một thời gian gần gũi các em, thì tôi nhận thấy em Mai
Huyền Trang có năng khiếu hát hay, múa dẻo lại mạnh dạn, lúc nào em cũng thích
múa, hát nên tôi đã trao đổi với thầy Vũ Văn Thu - Giáo viên dạy Âm nhạc để thầy
bồi dưỡng thêm cho em. Qua một thời gian tôi nhận thấy không những em thích



học các môn văn hoá mà em rất hào hứng học môn Âm nhạc. Lúc nào em cũng
thích hát, múa, em đã tập cho các bạn trong lớp rất nhiều bài hát, điệu múa.
Không những các em thích học môn âm nhạc mà còn rất thích học môn mĩ
thuật. Vừa qua nhà trường phát động cuộc thi “Vẽ tranh chiếc ô tô mơ ước” các
em rất hứng thú vẽ và tham gia nhiệt tình. Chính vì vậy số tranh vẽ đẹp và sáng
tạo lớp tôi đạt phần trăm rất cao.
* Thông qua các tổ chức đoàn thể, hội cha mẹ học sinh : Nhà trường- Gia
đình - Xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau trong việc giáo dục học sinh.
Chính vì vậy một lớp có nền nếp tốt thì phải kết hợp cả 3 yếu tố trên. Khi học sinh
có sai phạm giáo viên liên hệ kịp thời với phụ huynh để cùng có hướng giải quyết
giúp học sinh tiến bộ nhanh.
Kết hợp với bên Đội để giáo dục các em. Nếu em nào có tiến bộ thứ 2 đầu
tuần tuyên dương các em dưới cờ. Như vậy các em sẽ có hứng thú trong học tâp
hơn.
Lớp 1D của tôi chủ nhiệm đa phần các em đều ngoan và có ý thức học tập tốt
nhưng vì tâm lí lứa tuổi các em còn nhỏ nên không thể tránh khỏi những hiếu
động, hơn nữa hầu hết các em đều con gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bố
mẹ đi làm ăn xa, các em ở với ông bà. Do vậy việc quan tâm tới tình hình học tập
của các em còn lơ là, chưa thỏa đáng, chưa đúng mực. Hầu hết họ còn ỷ lại cho
giáo viên chủ nhiệm. Vì vậy việc xây dựng nền nếp học tập là cần thiết nhằm hỗ
trợ hiệu quả cho chất lượng giáo dục. Chính vì vậy ngay từ đầu năm tôi đã tổ chức
họp phụ huynh để thông báo kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của các em. Từ
đó tôi cùng với phụ huynh xây dựng nền nếp lớp học
a. Xây dựng nền nếp tự quản.
b. Nền nếp đi học chuyên cần.
c. Xây dựng nền nếp học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp, có đủ đồ dùng
học tập và thói quen giữ gìn đồ dùng học tập sạch đẹp.
d. Có ý thức bảo vệ môi trường, chấp hành luật lệ giao thông.
Để xây dựng tốt mỗi nền nếp, tôi đã phải đưa ra những biện pháp khác nhau:

* Nền nếp tự quản: Đây là một vấn đề vô cùng nan giải bởi lứa tuổi các em
còn nhỏ nên ý thức học sinh chưa cao, chưa ý thức được bản thân mình. Chính vì
thế tôi thường suy nghĩ và tìm biện pháp áp dụng sao cho hiệu quả. Tập cho học
sinh biết cách tổ chức sinh hoạt lớp vào 5 phút đầu giờ để các em tự kiểm tra và
đánh giá các bạn như chuẩn bị và xây dựng bài trong tiết học, tuyên dương những
bạn làm tốt, bạn mắc khuyết điểm thì nghiêm khắc phê bình và nhắc nhở. Mỗi tổ
được phát một quyển vở theo dõi việc thực hiện nền nếp của tổ mình, cuối tuần báo
cáo lại cho lớp trưởng và hai lớp phó.
Ngoài ra trong giờ học, giáo viên phải thu hút được các em vào bài giảng và
giao nhiệm vụ cụ thể cho các em, khen chê kịp thời những em tiến bộ để từ đó
khuyến khích các em làm tốt.


* Nền nếp đi học đúng giờ, chuyên cần: Tôi đã phối hợp cùng phụ huynh, nhờ
phụ huynh nhắc nhở con em mình. Mặt khác theo dõi sát sao từng em bằng cách
kiểm tra sĩ số từ đầu buổi học, bạn nào vắng đi muộn cuối tuần sinh hoạt nhắc nhở,
khen ngợi , động viên những bạn chuyên cần để làm gương cho bạn khác.
* Xây dựng nền nếp chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Kiểm tra sách vở, đồ
dùng học tập trước khi vào buổi học. Đầu giờ cán sự lớp kiểm tra xem bạn nào đã
làm đủ và chưa làm bài tập, sau đó cán sự lớp ghi lại và báo cáo với giáo viên chủ
nhiệm để có biện pháp giáo dục.
* Xây dựng cho học sinh có ý thức bảo vệ môi trường ,chấp hành luật lệ giao
thông: Trong tiết tự nhiên xã hội, giờ dạy Kỹ năng sống, An toàn giao thông giáo
viên giúp học sinh có ý thức giữ gìn vệ sinh chung như: Không vứt rác bừa bãi,
bảo vệ vật nuôi và cây trồng, tiết kiệm nước….Biết đi về bên phải, đội mũ bảo
hiểm khi đi xe máy…
Sau khi phối hợp với tất cả các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh. Việc chỉ đạo
lớp của giáo viên chủ nhiệm phần nào đỡ vất vả hơn song nền nếp của lớp tôi
thường xuyên xếp thứ nhất.
2.3.4. Tăng cường giáo dục kĩ năng cơ bản nhằm phát triển tư duy tích cực và

sáng tạo cho học sinh.
Với học sinh lớp 1, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các
em, giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này và đây cũng là một
vấn đề mà xã hội và phụ huynh hết sức quan tâm. Ngoài việc dạy kiến thức, để
giáo dục kĩ năng sống cho các em có hiệu quả thông qua các môn học, tiết học tôi
đã vận dụng các kĩ năng cơ bản, cốt lõi nhằm phát huy tư duy sáng tạo cho học
sinh. Cụ thể:
* Kĩ năng tự nhận thức:
Đối với học sinh lớp 1, việc hình thành kĩ năng tự nhận thức vô cùng quan
trọng. Thông qua từng hoạt động và nội dung học tập của từng bài học, đặc biệt là
thông qua việc tổ chức dạy học môn Đạo, đức, Tiếng Việt, giáo viên cần giúp cho
các em biết xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, để bước đầu có
được niềm tin vào chính mình, biết tự xây dựng kế hoạch học tập, làm việc phù
hợp với khả năng của mình, biết khắc phục khó khăn để đạt được mục tiêu trong
học tập và trong mọi hoạt động. Học sinh biết tự nhận thức giá trị bản thân, hiểu rõ
bản thân mình về: Đặc điểm, tính cách, thói quen, thái độ, ý kiến, cách suy nghĩ,
cảm xúc, nhu cầu của chính mình, các mối quan hệ xã hội cũng như những điểm
tích cực và hạn chế của bản thân.
Đây sẽ là cơ sở để giúp các em hình thành và phát triển kĩ năng tư duy tích
cực và tư duy sáng tạo trong học tập, giúp học sinh tự tin trong cuộc sống và học
tập tốt.
* Hình thành kĩ năng giao tiếp, ứng xử


Để hình thành kĩ năng giao tiếp, ứng xử tốt cho học sinh , trong quá trình dạy
học, tôi đã giúp các em biết rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng nhận xét, giúp các em
có khả năng bày tỏ ý kiến của bản thân theo nhiều hình thức; mạnh dạn đứng trước
tập thể lớp để trình bày quan điểm của mình đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý
kiến của người khác.
Nếu các em có được khả năng giao tiếp tốt, luôn biết cởi mở, bày tỏ suy nghĩ

của mình sẽ tạo được các mối quan hệ tích cực với bạn bè và luôn được bạn bè
đồng tình, ủng hộ.
Đây là yếu tố dẫn đến sự phát triển các kĩ năng như: Kĩ năng chia sẻ, cảm
thông; kĩ năng thương lượng; kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn,
kiểm soát cảm xúc và cuối cùng là kĩ năng đạt được mục tiêu.
Khi dạy bài đạo đức: “Em là học sinh lớp một” tôi đưa ra nội dung: “Em hãy
nói về bản thân em và làm quen với mọi người”. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên,
tôi tổ chức cho các em tự giới thiệu về tên và sở thích của từng em và làm quen với
các bạn xung quanh. Lúc đầu các em rất ái ngại không tự tin khi nói về mình
nhưng tôi nhắc nhở những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hoà đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái
ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng câu nói chắc gọn: “Mình tên là gì,
nhà mình ở đâu? , Mình thích và không thích điều gì....”
* Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề
Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề cũng là những kĩ năng rất cần thiết
trong học tập và trong cuộc sống hằng ngày đối với học sinh. Tôi giúp các em biết
lựa chọn và đưa ra quyết định đúng đắn, phù hợp và kịp thời đem lại thành công;
ngược lại, nếu học sinh nào hay nhút nhát, rụt rè, đưa ra những quyết định chậm trễ
hay sai lầm sẽ ảnh hưởng tới kết quả học tập, cuộc sống sinh hoạt và tương lai sau
này tôi đã gần gũi và động viên giúp đỡ các em tự tin mạnh dạn hơn trong học tập.
Vì vậy, trong các giờ học Đạo đức,Tự nhiên xã hội tôi đã tăng cường sử dụng
các tình huống, bài tập thực hành; đưa ra các tình huống, bài tập cụ thể, gắn liền
với thực tế, khuyến khích học sinh suy nghĩ và lựa chọn các phương án tốt nhất
hoặc nên hay không nên làm…
Thông qua các tình huống, các bài tập giúp học sinh mạnh dạn đề xuất ý
tưởng của mình, từ đó giáo viên hướng các em có cách xử lí và giải quyết vấn đề
phù hợp, đúng đắn.
Trong môn học: "Tự nhiên và xã hội ở bài: "Ăn uống hằng ngày" tôi cho học
sinh thảo luận nhóm và lên thực đơn cho các bữa ăn trong một ngày: Sáng, trưa, tối
dưới sự trợ giúp của giáo viên. Sau khi học sinh nhận xét thực đơn của nhau, học

sinh sẽ khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm bảo các chất ... Các em
làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn


bè, với cô giáo một cách tự tin, mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra
được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích
cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý
kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
* Hình thành kĩ năng hợp tác, chia sẻ:
Qua từng nhiệm vụ, từng hoạt động trong các bài học, tôi đã giúp học sinh
thấy được lợi ích và hiệu quả của làm việc tập thể là vô cùng to lớn. Có những
việc phải cần có sự hợp tác của bạn mới đem lại thành công. Tôi đã giúp học sinh
biết chung sức làm việc, biết giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau trong mọi hoạt động; biết
chia sẻ và sẵn sàng gánh vác trách nhiệm cùng với nhóm, với tập thể lớp. Ở điểm
này, tôi đã phân chia lớp theo các nhóm nhỏ, mỗi nhóm vừa có học sinh khá giỏi,
vừa có học sinh yếu để tạo cho các em có cơ hội giúp đỡ lẫn nhau trong học tập,
sinh hoạt vui chơi… Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát, tôi giúp trẻ học cách
cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với các em học sinh
lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp các em biết cảm thông, chia sẻ và sẽ cùng
bạn hợp tác làm việc. Tổ chức lớp cũng nên đổi mới. Lớp trưởng, lớp phó, tổ
trưởng, tổ phó cần thay đổi theo từng tháng để từng học sinh biết được các công
việc của người lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và xử lý ra sao…đồng thời biết
thông cảm với công việc của người chỉ huy. Qua đó rèn cho các em những kĩ năng
chỉ huy, lãnh đạo cần thiết.
Khi dạy bài tập đọc “ Ngôi nhà ” tôi tổ chức cho học sinh luyện đọc nhóm 4,
cử nhóm trưởng điều hành các bạn trong nhóm đọc bài, yêu cầu học sinh đọc tốt
giúp đỡ những học sinh đọc còn chậm.
* Hình thành kĩ năng tự phục vụ và quản lí thời gian
Tự phục vụ và quản lí thời gian là một trong những kĩ năng quan trọng trong
nhóm kĩ năng làm chủ bản thân. Đối với học sinh Tiểu học và đặc biệt là học sinh

lớp 1 ở nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên thường cha mẹ ít quan tâm tới
việc học tập của con em mình. Vậy, nếu thực hiện tốt kĩ năng này sẽ giúp các em
luôn đi học đều và đúng giờ, tham gia tốt các hoạt động học tập và luôn hoàn thành
tốt các nhiệm vụ, yêu cầu trong học tập, sinh hoạt. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu
quả học tập, làm việc của bản thân, của nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài “Đi học đều và đúng giờ”, tôi chú trọng rèn học sinh các kĩ
năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để đi học đúng giờ qua trò chơi sắm vai
hoặc rèn kĩ năng quản lí thời gian để đi học đều và đúng giờ qua hoạt động tự liên
hệ bản thân.


Giáo viên cần giúp học sinh xác định được những việc cần làm để đi học đều
và đúng giờ, tự liên hệ bản thân mình đã thực hiện đi học đều và đúng giờ chưa,
nếu chưa thì phải làm gì?...
Hoặc khi dạy bài “Em và các bạn”, thông qua trò chơi “tặng hoa”, tôi giúp
học sinh thể hiện sự mạnh dạn, tự tin, thể hiện kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng
của bản thân...
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số chính
xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ
khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng.
2.3.5. Tăng cường tổ chức các hoạt động thi đua, nêu gương, biểu dương,
khen thưởng để khích lệ học sinh tham gia các hoạt động học tập và rèn luyện
Học sinh Tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi đã
hướng dẫn tổ trưởng theo dõi chấm thi đua hàng ngày và gắn hoa hàng tuần cho
mỗi học sinh về 3 mặt: Học tập, Kỷ luật, Vệ sinh. Nếu học sinh thực hiện tốt mặt
nào thì được cắm cờ đỏ mặt đó. Cuối tuần mỗi mặt học sinh được 5 cờ đỏ sẽ được
gắn hoa đỏ. Học sinh nào đạt được 3 cờ đỏ thì gắn hoa vàng, còn chỉ đạt 1 cờ đỏ sẽ
gắn hoa xanh. Hình thức thi đua đó giúp cho học sinh vui thích, phấn khởi để học
tập tốt. Sau bốn tuần thi đua, học sinh đạt cả 3 mặt đều tốt sẽ được nhận quà
thưởng của phụ huynh. Cũng chính có hình thức thi đua, các em càng phấn khởi và

nỗ lực thi đua học tập tốt, kỷ luật tốt và giữ gìn vệ sinh tốt.
Ngoài việc lập bảng thi đua như trên, tiết sinh hoạt cuối tuần và cuối tháng tôi
yêu cầu các tổ bình chọn những học sinh ngoan ngoãn đạt thành tích cao trong tập
để tuyên dương trước lớp, có phần thưởng nho nhỏ động viên các em và đề nghị
đội cờ đỏ tuyên dương trong tiết chào cờ sáng thứ hai đầu tuần.
Sau khi áp dụng biện pháp này tôi thấy không khí học tập sôi nổi, số lượng
học sinh trong lớp được tuyên dương vào cuối tuần và cuối tháng tăng hơn so với
đầu năm, chất lượng học tập của lớp đạt hiệu quả cao .
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với việc hình thành kỹ năng
cơ bản, cốt lõi thông qua các môn học cho học sinh
Từ những kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng dạy và giaó dục đã
giúp học sinh phát triển toàn diện về nhân cách con người. Mặt khác còn giúp học
sinh những đức tính và phong cách làm việc của người lao động. Hơn thế nữa cùng
với những ý kiến thực của các đồng nghiệp và thông qua kết quả đạt được trong
thời gian vừa qua tôi thấy làm tốt công tác chủ nhiệm lớp tức là góp phần nâng cao
hiệu quả chất lượng giáo dục cho đất nước những thế hệ học sinh có đủ tài, đủ đức
để sau này xây dựng đất nước. Bằng những kinh nghiệm của bản thân hình thành
nền nếp học tập cho học sinh và áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi thấy học sinh
trong lớp có chuyển biến rõ rệt về nền nếp học tập cũng như nếp sinh hoạt tập thể


đã trở thành thói quen của mỗi học sinh. Từ đó, chất lượng học tập của học sinh
cũng được nâng lên, các em luôn chủ động trong việc học tập. Bản thân giáo viên,
chính thói quen về nền nếp học tập của học sinh làm cho cô giáo cảm thấy say sưa,
hứng thú trong giảng dạy, chú ý chuẩn bị đồ dùng dạy học kỹ lưỡng và sinh động
trong các tiết dạy của cả chín môn học trong chương trình. Học sinh có điều kiện
để học tập tốt và thấy được niềm vui khi đến trường học, được bộc lộ những suy
nghĩ và việc làm của mình trước cô giáo và các bạn. Tình bạn, tính cộng đồng
trong tập thể lớp 1D được xây dựng và củng cố bền vững để các em có điều kiện
nuôi dưỡng những ước mơ tốt đẹp về mái trường, về thầy cô và bạn bè. Kỷ niệm

thân yêu dưới mái trường Tiểu học sẽ còn in đậm trong tâm trí và cũng sẽ đi theo
các em trong suốt cả cuộc đời.
Qua một thời gian áp dụng các biện pháp rèn nền nếp trên, tôi thấy lớp tôi có
chuyển biến rõ rệt về nền nếp cũng như chất lượng học tập. Trong giờ học sự kết
hợp của cô giáo và học sinh rất nhịp nhàng, các em tiếp thu bài tốt, không khí học
tập sôi nổi, thực sự tiết học trở thành “ Học mà chơi, chơi mà học”. Các em rất
hứng thú say mê trong học tập. Như vậy rõ ràng việc rèn nền nếp học tập cho học
sinh lớp một không những làm cho các em luôn có thói quen chuẩn bị tốt, đầy đủ
đồ dùng học tập, có ý thức nền nếp trong từng môn học mà còn giúp các em chủ
động sáng tạo hơn khi học tập. Với việc làm trên, tôi đã tạo cho các em có thói
quen đi học sớm để dọn vệ sinh trường lớp, đến lớp đúng giờ ...
Bằng kinh nghiệm giảng dạy và giáo dục toàn diện cho học sinh, cùng với
lòng nhiệt tình, yêu học sinh, đồng thời cũng là trách nhiệm của người làm thầy,
nền nếp lớp tôi đã đạt được một số kết quả khả quan như sau:
Biết kỹ năng cơ
Chưa có kỹ năng cơ
bản, nền nếp học tập
bản, nền nếp học tập tốt
Tổng số
tốt
HS
SL
%
SL
%
SL
%
26
19
72,2

7
27,8
0
0
Qua quá trình thực hiện các biện pháp nêu trên số học sinh có, biết kỹ năng
cơ bản nền nếp học tập tốt chiếm 100% .
Có kỹ năng cơ bản,
nền nếp học tập tốt

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Hình thành kỹ năng cơ bản, cốt lõi cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của người giáo viên chủ nhiệm. Muốn có lớp đạt nền nếp tốt thì giáo viên chủ


nhiệm phải thực sự thương yêu, gần gũi với các em, phải nhẫn nại, kiên trì và có
tinh thần trách nhiệm cao, bởi lớp có nền nếp tốt mới nâng cao chất lượng học tập.
Muốn hình thành cho học sinh kỹ năng tốt thì đòi hỏi người giáo viên phải
thực sự có tâm huyết với nghề dạy học, thực sự yêu nghề, mến trẻ, bám
trường,bám lớp, đi sâu tìm hiểu đặc điểm tâm lý hoàn cảnh gia đình, năng lực của
từng học sinh để đề ra được kế hoạch, biện pháp giáo dục phù hợp và có hiệu quả
cao.
Để đạt được kết quả tốt trong hình thành kỹ năng cơ bản, cốt lõi cho học sinh,
bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên cần có kế hoạch cụ thể cho từng tuần, từng tháng, từng kỳ, cả
năm. Xây dựng được một đội ngũ cán sự lớp có năng lực, nhiệt tình và có tinh thần
trách nhiệm cao. Rèn luyện cho học sinh có ý thức tự quản thật tốt, biết đoàn kết,
thương yêu nhau như con trong một nhà. Biết giúp đỡ nhau trong học tập mọi hoạt
động khác. Người giáo viên phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai, luôn luôn gần
gũi, cởi mở để nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của các em học sinh. Người giáo

viên phải thể hiện được mình là người bạn đáng tin cậy, vừa là chỗ dựa tinh thần
cho học sinh. Ngoài ra giáo viên phải thường xuyên liên lạc hai chiều với phụ
huynh, với hội cha mẹ học sinh, phối hợp với các ban ngành đoàn thể ở trong nhà
trường, địa phương nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã
hội, thường xuyên chú ý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục.
- Trong việc giáo dục nền nếp cho học sinh hiện nay, ngoài việc giáo viên cần
làm gương tốt : ‘‘Mỗi thầy cô là một tấm gương sáng về đạo đức cho học sinh noi
theo’’ thì việc nêu gương - khen thưởng những học sinh thực hiện tốt nền nếp là
rất cần thiết. Vậy tôi thiết nghĩ việc này nên tổ chức thường xuyên trong các giờ
chào cờ đầu tuần có sự tham gia của học sinh toàn trường để các em được biết
những tấm gương sáng ở ngay gần mình mà học tập, noi theo. Có như vậy hiệu quả
giáo dục nền nếp mới tăng cao, học sinh chắc chắn sẽ vui vẻ thực hiện, đua nhau
thực hiện tốt các quy định mà ban thi đua nhà trường đưa ra.
- Trong sinh hoạt chuyên môn, bộ phận chuyên môn cũng như tất cả các giáo
viên cần đưa ra những khó khăn khi làm công tác chủ nhiệm ở lớp mình phụ trách
và có nhiều học sinh cá biệt, từ đó nhà trường và tổ khối sẽ thảo luận, rút kinh
nghiệm tìm ra biện pháp tốt nhất trao đổi với nhau để cùng học tập.
3.2. Kiến nghị


Để góp phần làm tốt công tác chủ nhiệm ở Tiểu học nói chung, công tác chủ
nhiệm lớp một nói riêng và phần nào giảm bớt khó khăn cho giáo viên làm công
tác chủ nhiệm tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
- Phụ huynh dành nhiều thời gian quan tâm đến việc tự học ở nhà và quản lý
con em mình chặt chẽ hơn.
- Trong chương trình sách giáo khoa đạo đức lớp 1 tuy bài học và tranh minh
họa rất phù hợp với đối tượng học sinh nhưng tôi cũng mong ban chỉ đạo thay sách
giáo khoa có thể bổ sung thêm những câu chuyện đạo đức về những tấm gương
sáng trong cuộc sống thường ngày với việc thực hiện các hành vi đạo đức đúng để

các em học sinh dễ nắm bắt, học tập và noi theo. Học tập qua những tấm gương,
những nhân vật trong các câu chuyện có thật hẳn các em sẽ thấy rất thú vị và gần
gũi, từ đó giúp các em định hướng tốt hơn nữa trong việc thực hiện đúng các hành
vi đạo đức của mình.
Trên đây là một số đúc rút kinh nghiệm và các giải pháp mà bản thân tôi đã áp
dụng và thực hiện trong quá trình giảng dạy hình thành nền nếp học tập cho học
sinh ở lớp tôi chủ nhiệm và cũng là những kinh nghiệm mà tôi đã đúc rút được từ
thực tế làm công tác chủ nhiệm trong nhiều năm qua. Đây chỉ là những ý kiến
mang tính chủ quan nên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được
sự góp ý của hội đồng khoa học các cấp để kinh nghiệm của tôi ngày càng hoàn
thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Nga Sơn, ngày 29 tháng 5 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
………………………………………………………………
nghiệm của mình viết, không sao chep
……………………………………………………………… nội dung của người khác.
………………………………………………………………
………………………………………………………………

Người viết

………………………………………………………………
………………………………………………………………
………………………………………………………………

Hoàng Thị Hương




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh tiểu học - Thạc sỹ Đỗ Ngọc Miên- Viện
khoa học giáo dục Việt Nam
2. Tập san giáo dục Tiểu học –TËp 30 - Một vài giải pháp nhằm xây dựng nền
nếp ở lớp chủ nhiệm.
3. Trẻ em Việt Nam –Hồ chí Minh
4. Con sẽ nên người - L.P.XTÔROOPXCAIA- NXB Văn hóa Thông tin Hà
Nội- năm 2000.
5. Trẻ em Việt Nam- Hồ Chí Minh – 1942- NXB Chính trị Quốc gia.
6.Giáo trình tâm lí học - Bùi Văn Huệ (chủ biên)- NXB Giáo dục- 1997
7.Thông tư số 22- Bộ GD & ĐT- Có hiệu lực ngày 06/ 11/ 2016

DANH MỤC


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP
LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Hoàng Thị Hương
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Nga Bạch

STT
1
2
3
4


Tên đề tài SK
Cách khắc phục lỗi chính tả
cho học sinh lớp 3
Một số biện pháp luyện đọc
diễn cảm cho học sinh lớp 3
Trường Tiểu học Nga Bạch
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 4, 5 viết đúng chính
tả
Một số giải pháp nâng cao
kỹ năng cơ bản nền nếp học
tập nhằm phát triển tư duy
tích cực và sáng tạo cho học
sinh lớp 1-Trường Tiểu học
Nga Bạch

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
xếp loại

Phòng GD& ĐT

C


2010-2011

Phòng GD& ĐT

C

2013-2014

Phòng GD& ĐT

B

2015-2016

Phòng GD& ĐT

A

2016-2017


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH KỸ NĂNG CƠ BẢN
CỐT LÕI THÔNG QUA CÁC MÔN HỌC NHẰM PHÁT
TRIỂN TƯ DUY, TÍCH CỰC, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH
LỚP 1 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA BẠCH, NGA SƠN


Người thực hiện: Hoàng Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Bạch
SKKN thuộc môn : Khác

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh.
2.3.2. Tăng cường xây dựng nền nếp học tập cho học sinh.
2.3.3. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn và các tổ chức đoàn

TRANG
1
1
1
2
2

2
2
3
4
4
4
6

thể trong nhà trường nhằm nâng cao kỹ năng cơ bản, nền nếp học
tập cho học sinh.
2.3.4.Tăng cường giáo dục kĩ năng sống nhằm phát triển kỹ năng

9

cơ bản, nền nếp học tập, tư duy tích cực và sáng tạo cho học sinh.
2.3.5. Tăng cường tổ chức các hoạt động thi đua, nêu gương, biểu

12

dương, khen thưởng để khích lệ học sinh tham gia các hoạt động
học tập và rèn luyện.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với việc hình thành
kỹ năng cơ bản, cốt lõi thông qua các môn học cho học sinh.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI
ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT VÀ


13
14
14
15


CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN



×