SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THẠCH THÀNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY
HỌC PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU LỚP 4
TRƯỜNG TIỂU HỌC THẠCH QUẢNG 2
Người thực hiện: Đặng Thị Loan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thạch Quảng 2,
Thạch Thành, Thanh
Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng việt
THẠCH THÀNH, NĂM 2017
MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
NỘI DUNG
Trang
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu.
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
2
2.1.1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
2
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu
3
2.1.3. Xét về tâm lý lứa tuổi
3
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
4
2.2.1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu
4
Lớp 4 Trường tiểu học Thạch Quảng 2
2.2.2. Kết quả của thực trạng
5
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
7
2.3.1. Các giải pháp thực hiện ở lớp 4A
7
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện ở lớp 4A
7
2.3.2.1. Khơi gợi sự tò mò, nuôi dưỡng hứng thú học tập cho học
7
sinh.
2.3.2.2. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu
8
2.3.2.3. Phân loại đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp dạy
9
học phù hợp.
2.3.2.4. Phân loại bài tập và giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học
9
Thạch Quảng 2 làm tốt đối với mỗi dạng bài trong phân môn
Luyện từ và câu lớp 4.
2.3.2.5. Giáo viên thực hiện tốt thông tư 22 trong đánh giá
15
2.3.2.6. Đề xuất với nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, hoạt
16
động ngoài giờ lên lớp.
2.3.2.7. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn khác và phụ
18
huynh học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
19
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
3.1. Kết luận
19
3.2. Kiến nghị
20
2
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta.
Tiếng Việt có vai trò đặc biệt quan trọng trong cộng đồng người Việt Nam. Trong
cuộc sống, Tiếng Việt là vốn ngôn ngữ phát triển toàn diện nhất, có khả năng đáp
ứng mọi nhu cầu về giao tiếp trong xã hội. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt chính là góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Ở tường Tiểu học việc dạy cho các em biết Tiếng Việt, hiểu Tiếng Việt, biết
sử dụng Tiếng Việt và giỏi Tiếng Việt là vô cùng cần thiết đối với mỗi giáo viên
trực tiếp đứng lớp.
Có thể nói môn Tiếng Việt trong chương trình bậc Tiểu học giúp học sinh
biết đọc thông viết thạo, biết sử dụng từ ngữ một cách chuẩn xác và có kĩ năng
giao tiếp trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Những kiến thức của môn Tiếng
Việt là tiền đề là cơ sở cho học sinh tiếp cận với các môn học khác. Việc dạy và
học môn Tiếng Việt trong nhà trường luôn được chú trọng ngay từ lớp đầu cấp.
Đặc biệt trong bộ môn Tiếng Việt là phân môn Luyện từ và câu có một vị trí rất
quan trọng, là chìa khoá mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống xã
hội của con người. Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ cung cấp
những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu (nói viết), kĩ năng đọc cho học sinh. Mục tiêu của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là
giúp học sinh:
- Một là: “Mở rộng, hệ thống hoá vốn từ trang bị cho học sinh một số hiểu
biết sơ giản về từ và câu”. [1]
- Hai là: “Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng
dấu câu.” [2]
- Ba là: “Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng và nói thành câu,
có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp”. [3]
Trường Tiểu học Thạch Quảng 2 là một trường vùng cao trong huyện, học
sinh thuộc đồng bào dân tộc Mường chiếm gần 50%. Qua thực tế dạy học Lớp 4
nhiều năm liền, tôi thường nhận thấy tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em.
Việc sử dụng vốn từ trong học tập và trong giao tiếp của các em còn nhiều hạn
chế. Các em gặp khó khăn để nắm được kiến thức khi giáo viên hướng dẫn và
càng khó khắc sâu mạch kiến thức đó. Không chuyển thành kĩ năng, kĩ xảo trong
cuộc sống và trong giao tiếp. Suy nghĩ, trăn trở “làm thế nào cho học sinh yêu
thích Tiếng Việt, yêu thích phân môn Luyện từ và câu? Cần làm gì để các em có
thể hiểu và học tốt Luyện từ và câu?”. Xuất phát từ nhận thức trên, trong quá
trình dạy học tôi đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, kết quả chất lượng được tăng lên
rõ rệt. Do đó tôi xin được chia sẻ những kinh nghiệm nhỏ qua sáng kiến "Một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu lớp 4
trường Tiểu học Thạch Quảng 2".
3
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra một số giải pháp hợp lý nhất trong quá trình dạy học các dạng bài
tập Luyện từ và câu lớp 4. Hướng dẫn, rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ
và câu cho học sinh hiệu quả nhất. Góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng việt
nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Với đề tài này tôi muốn tập trung nghiên cứu một số biện giúp học sinh lớp
4 trường Tiểu học Thạch Quảng 2 làm tốt một số dạng bài tập Luyện từ và câu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí luận.
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
1.4.3. Phương pháp thực nghiệm.
1.4.4. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.
1.4.5. Phương pháp phân tích đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Vị trí vai trò của phân môn Luyện từ và câu.
“Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ. Các kỹ
năng cơ bản góp phần hình thình nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ
nghĩa. Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm của người công dân, chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học THCS” [4]
Phân môn Luyện từ và câu là một môn học giữ vị trí quan trọng trong
chương trình Tiếng Việt lớp 4. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học
sinh đã được làm quen với lý thuyết của từ và câu. Sau đó chương trình được mở
rộng thêm và nâng cao dần để phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc
sống của các em cũng như trong lao động, học tập và giao tiếp. Chính vì vậy, dạy
Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, không có vốn từ đầy đủ thì không thể
nắm được ngôn ngữ để biến nó thành một phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và
câu giúp học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập phát triển toàn
diện. Khả năng giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to lớn. Nó có nhiều
khả năng để phát triển ngôn ngữ, tư duy logíc và các năng lực trí tuệ như trừu
tượng hoá, khái quát hoá, phân tích tổng hợp... và các phẩm chất đạo đức như
tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra phân môn Luyện từ và câu còn có vai trò hướng
dẫn cho học sinh kĩ năng nghe, nói, đọc, viết.
Luyện từ và câu là môn học nền tảng để học sinh học các môn học khác
trong tất cả các cấp học sau cũng như trong lao động và giao tiếp trong cuộc
sống, bởi nó giúp học sinh có năng lực nói, viết đúng, chính xác. Từ đó sử dụng
Tiếng Việt một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học, giao tiếp và lao động.
Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học
được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em
mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một
4
tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn. Như vậy phân môn Luyện từ và câu có
vị trí quan trọng trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh.
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Luyện từ và câu.
“Dạy phân môn Luyện từ và câu ở trường Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói
riêng có nhiệm vụ cung cấp cho các em một số kiến thức cơ bản ban đầu và cần
thiết về từ, câu, các kiểu từ, các kiểu câu...nhưng phải vừa sức đối với lứa tuổi các
em. Dạy Luyện từ và câu có nhiệm vụ trang bị cho học sinh một số hệ thống khái
niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ và những quy luật của nó’’[5]. Cụ thể là
Luyện từ và câu ở tiểu học giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về
từ và câu. Những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ Luyện từ và câu: Biết
dùng từ, câu trong nói và viết, nói đúng, dễ hiểu và sử dụng các câu văn hay, nhận
ra những từ và câu không đúng, không phù hợp để loại ra khỏi vốn từ, ngoài ra
học sinh còn nắm được văn hoá chuẩn của lời nói.
Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu còn rèn cho học sinh khả năng tư duy
logic cao, khả năng nhìn nhận đánh giá sự vật xung quanh chính xác và khả năng
thẩm mĩ. Nhiệm vụ chủ yếu của việc dạy từ và câu giúp học sinh mở rộng, phát
triển vốn từ (phong phú hoá vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hoá vốn
từ), quản lí phân loại vốn từ (hệ thống hoá vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích
cực hoá vốn từ.
Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm được cấu tạo từ và mở rộng vốn
từ, giải nghĩa từ, nắm được các kiểu câu, các dấu câu (dấu chấm hỏi, dấu chấm
than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn), biết cách sử dụng từ và câu
phù hợp với ngữ cảnh và lời nói.
2.1.3. Đặc điểm tâm lý của trẻ tiểu học.
“Đối với trẻ em ở lứa tuổi tiểu học thì tri giác của học sinh tiểu học phản
ánh những thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng và xảy ra khi chúng
trực tiếp tác động lên giác quan. Tri giác giúp cho trẻ định hướng nhanh chóng và
chính xác hơn trong thế giới. Tri giác còn giúp cho trẻ điều chỉnh hoạt động một
cách hợp lý. Trong sự phát triển tri giác của học sinh, giáo viên tiểu học có vai trò
rất lớn trong việc chỉ dạy cách nhìn, hình thành kỹ năng nhìn cho học sinh, hướng
dẫn các em biết xem xét, biết lắng nghe” [6].
Ở lứa tuổi này trí tuệ của các em được phát triển nhờ sự đối hoại giữa chủ
thể với đối tượng và môi trường. Vì ở lứa tuổi của các em: nghe thì quên, nhìn thì
nhớ, làm thì hiểu. Vừa chơi, vừa học các em lại thấy thoải mái hơn, hiệu quả hơn.
Đặc điểm tâm lí của học sinh dân tộc thiểu số còn được thể hiện ở tư duy
ngôn ngữ, logíc dừng lại ở mức độ trực quan cụ thể. Hứng thú là một khâu quan
trọng, là một hiện tượng trong tâm lý đời sống mỗi người. Hứng thú tạo điều kiện
cho con người học tập lao động được tốt hơn. Nhà văn M.Goóc ki nói "Thiên tài
nảy nở từ tình yêu đối với công việc". Việc bồi dưỡng hứng thú học tập môn
Tiếng Việt - Phân môn Luyện từ và câu lớp 4 là một việc làm cần thiết.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng của việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu Lớp 4
Trường tiểu học Thạch Quảng 2.
5
2.2.1.1. Đối với nhà trường:
Nhà trường luôn quan tâm về chất lượng giáo dục và các phong trào hoạt
động thể dục thể thao, văn nghệ, kể chuyện. Nhưng bên cạnh đó tôi còn nhận
thấy:
- Nhà trường chỉ đạo công tác chuyên môn xây dựng nội dung các buổi sinh
hoạt chuyên môn còn chưa quan tâm đến phương pháp dạy phân môn Luyện từ
và câu. Sinh hoạt tổ còn chưa có chuyên đề Luyện từ và câu lớp 4.
- Chưa chú trọng xây dựng giờ dạy minh họa về phân môn Luyện từ và câu
để giáo viên được góp ý, xây dựng tiết dạy,trao đổi học hỏi đồng nghiệp.
- Đối với môn tiếng Việt, ngoài các tiết dạy học ở buổi chính khóa, nhà
trường còn bố trí cho học sinh được học ở buổi hai (trong đó giáo viên dành 1tiết
cho Luyện từ và câu). Như vậy, thời gian còn hạn chế để học sinh thực hành ôn
tập thêm các bài tập và củng cố kiến thức về Luyện từ và câu.
2.2.1.2. Đối với giáo viên:
- Hầu hết giáo viên chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân
môn Luyện từ và câu nên chưa dành nhiều thời gian để nghiên cứu phân môn này.
- Thực tế khi giảng dạy nhiều giáo viên còn chưa nghiên cứu kỹ, sử dụng
phương pháp dạy học chưa linh hoạt. Phân môn Luyện từ và câu là phần kiến
thức khó nên giáo viên đôi khi còn lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng
dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập. Đôi lúc
giáo viên còn máy móc, phụ thuộc vào SGV, vào đáp án, gợi ý. Chưa linh hoạt sử
dụng phương pháp trong dạy học phù hợp với đối tượng, phân chia thời lượng
còn không đảm bảo, hoạt động cô trò còn thiếu nhịp nhàng, mang tính hình thức.
- Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút
lôi cuốn học sinh. Giáo viên còn chưa thật sự quan tâm đến việc mở rộng vốn từ,
phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về
Tiếng Việt
2.2.1.3. Đối với học sinh:
- Học sinh đa số là học sinh dân tộc thiểu số. Mức độ hiểu sâu về từ ngữ
chưa có, chưa biết sử dụng từ hợp lí. Thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ nhiều. Vốn
ngôn ngữ còn hạn chế.
- Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó việc nhận diện
phân loại, việc xác định câu, từ còn nhầm lẫn, xác định hướng làm bài lệch lạc.
Học sinh chưa chú trọng khi học Luyện từ và câu, chưa hứng thú với phân môn
này. Một số ít đối tượng học sinh ngại học phân môn này.
- Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ
sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
- Học sinh thường nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động nên chưa áp
dụng kiến thức đã học vào thực tế giao tiếp hằng ngày.
2.2.2. Kết quả của thực trạng.
a. Kết quả khảo sát như sau:
Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn đề xuất với Ban giám hiệu nhà trường
xin được khảo sát chất lượng phân môn Luyện từ và câu khối lớp 4 gồm lớp 4A
và lớp 4B (trong đó lớp 4A trực tiếp tôi giảng dạy) được nhà trường nhất trí. Tôi
6
đã tiến hành cho hai lớp 4 làm bài khảo sát vào chiều thứ 6 ngày 23 tháng 9 năm
2016 (Đề bài có phụ lục kèm theo).
Kết quả thu được như sau:
Lớp Số học
Tốt
sinh
SL
TL%
Đạt yêu cầu
Chưa đạt yêu cầu
SL
TL%
SL
TL%
4A
30
2
6.6
19
63.3
9
30.1
4B
28
1
3.6
21
75.0
6
21.4
Qua bảng số liệu và qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do
nhiều nguyên nhân và lỗi học sinh thường mắc ở mỗi dạng bài cũng khác nhau.
Do đó tôi thường theo dõi, kiểm tra bài để tìm lỗi sai của học sinh, tìm phương
pháp giảng dạy phù hợp.
b. Các lỗi học sinh thường mắc ở mỗi dạng bài cụ thể:
Trong quá trình trực tiếp dạy Luyện từ và câu ở lớp 4A năm học 2016 2017 tôi đã thống kê được một số lỗi sai điển hình ở mỗi dạng bài như sau:
Dạng 1: Bài tập mở rộng vốn từ.
Vốn từ của học sinh còn hạn chế, chưa hiểu nghĩa của từ nên còn dùng từ
sai, bí từ khi đặt câu.
Dạng 2: Bài tập về Tìm từ ghép, từ láy.
Học sinh còn nhầm lẫn giữa từ ghép và từ láy. Ngoài những học sinh không
nắm được khái niệm về từ láy thì còn có học sinh tìm từ láy chỉ dựa vào hình
thức, không căn cứ vào nghĩa của từ. Dưới đây là một số lỗi điển hình của bài làm
học sinh của lớp tôi:
Bài của học sinh : Nguyễn Thị Hoài
Dạng 3: Bài tập xác định từ loại: danh từ, động từ, tính từ .
Ngoài một số ít học sinh làm sai do không nắm được khái niệm về mỗi từ
loại thì học sinh còn thường làm sai do không phân biệt được các tiểu từ loại.
(Danh từ: Danh từ chỉ người, chỉ vật, chỉ hiện tượng, chỉ khái niệm, chỉ đơn vị).
Cụ thể lỗi điển hình của học sinh trong lớp:
7
Bài của học sinh : Nguyễn Đình Thành
Bài của học sinh : Bùi Thị Kim Ngân
Dạng 4: Bài tập xác định các kiểu câu.
Học sinh thường mắc về viết câu, sử dụng chấm câu chưa đúng, không sử
dụng dấu chấm câu, chưa đọc kỹ đề bài, không hiểu yêu cầu, dẫn đến viết sai mục
đích câu. Đây là hình ảnh lỗi sai điển hình cụ thể của học sinh lớp 4A.
Bài của học
sinh : Bùi Thị
Kim
Huệ
Bài của học
sinh : Bùi Thị
Ngọc Mai
Bảng
thống kê số
lượng
học
sinh mắc lỗi ở
lớp 4 A qua
quá trình học với từng nội dung bài cụ thể : (Tổng số học sinh lớp 4A: 30 học
sinh) .
Các lỗi sai học sinh thường mắc
Dùng từ sai.
Chưa phân biệt được từ loại
Chưa phân biệt được từ ghép, từ láy
Chưa xác định được kiểu câu.
Chưa biết đặt câu, đặt câu sai mục đích
Số lượng HS
6
5
7
3
9
Tỉ lệ %
20.0
16.7
23.3
10.0
30.0
Ghi chú
Có học
sinh mắc
đến 2,3
lỗi.
8
Xuất phát từ tình hình thực tế và tôi mong muốn thử nghiệm một số biện
pháp tổ chức giảng dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 4, nên đã đề xuất với Ban
giám hiệu nhà trường xếp thời khóa biểu phân môn Luyện từ và câu của hai lớp
4A và 4B lệch nhau. Tạo đề kiện cho tôi có thời gian dự giờ, trao đổi với đồng
nghiệp (giáo viên dạy lớp 4B) về phương pháp, hình thức dạy học phân môn
Luyện từ và câu lớp 4
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Các giải pháp thực hiện với học sinh lớp 4 A:
- Khơi gợi sự tò mò, nuôi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.
- Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu.
- Phân loại đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
- Phân loại dạng bài và giúp học sinh lớp 4A trường Tiểu học Thạch Quảng
2 làm tốt đối với mỗi dạng bài trong phân môn Luyện từ và câu lớp 4.
- Thực hiện tốt Thông tư 30 và Thông tư 22 sửa đổi, bổ sung Thông tư 30 về
đánh giá học sinh tiểu học.
- Đề xuất cho nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, hoạt động ngoài giờ lên
lớp.
- Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn và phụ huynh.
2.3.2. Các biện pháp tổ chức thực hiện ở lớp 4A:
2.3.2.1. Khơi gợi sự tò mò, nuôi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.
- Tạo hứng thú trong học tập cho học sinh cũng là một nghệ thuật trong quá
trình dạy học của người giáo dục. Tạo hấp dẫn cuốn hút học sinh vào hoạt động
học và nhất là môn Luyện từ và câu đòi hỏi giáo viên cần có phương pháp và tổ
chức phong phú. Giảm bớt sự căng thẳng, nhàm chán.
- Để tạo được sự hứng thú học tập cho các em, tôi luôn tạo được sự thoải
mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp và khả năng kì
diệu của ngôn từ, để kích thích vốn từ sẵn có của từng em. Vì vậy tôi luôn biết
gây hứng thú học tập cho học sinh sẽ làm cho các em thích thú học tập không còn
gây cảm giác khô khan, chán học. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài tôi sử
dụng nhiều phương pháp, hình thức khác nhau (Phương pháp trò chơi, phương
pháp động não, phương pháp hỏi đáp…) phù hợp với từng dạng bài.
a. Khơi gợi sự tò mò tạo hứng thú từ cách giới thiệu bài.
Để bắt đầu tiết học thật thoải mái tôi thường gợi mở, dẫn dắt cho các em vào
vấn đề dễ nhất, hiệu quả nhất, vừa giúp các em nắm vững kiến thức cũng vừa
giúp các em không áp dụng máy móc trong thực tế cuộc sống. Tôi đã sử dụng
phương pháp hỏi đáp ( Phương pháp nêu vấn đề) khi giới thiệu bài.
Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ : Ý chí – Nghị lực ( TV 4- tuần 12- trang 118)
* Tổ chức thực hiện: Giáo viên giới thiệu bằng cách đặt câu hỏi:
- Đọc bài Vua tàu thủy Bạch Thái Bưởi, các em thấy Bạch Thái Bưởi là
người thế nào mà từ hai bàn tay trắng ông đã vượt qua khó khăn để trở thành
“anh hùng kinh tế”? ( Học sinh trả lời) Giáo viên hỏi tiếp:
- Vậy theo em Ý chí là gì?, thế nào là nghị lực (HS trả lời)
- Giáo viên giới thiệu: Để giúp các em biết thêm nhiều từ, nắm được nghĩa
và cách dùng các từ ngữ ở chủ điểm Ý chí – Nghị lực. Hôm nay chúng ta sẽ mở
rộng vốn từ theo chủ điểm này học sinh sẽ dễ dàng hình dung và hiểu được những
9
người có lời nói, cử chỉ, việc làm…như Bạch Thái Bưởi trong câu chuyện là
người giàu ý chí, nghị lực.
b. Khơi hứng thú, thu hút sự chú ý của các em trong thực hành làm bài
tập. Để thu hút học sinh vào bài học, ngoài giới thiệu bài thì trong khi tổ chức,
hướng dẫn làm bài tập tôi cũng luôn tạo không khí học tập để khơi gợi sự hứng
thú đối với học sinh.
Trò chơi chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn. Tạo cơ hội giao lưu, hợp tác
với bạn bè trong nhóm trong tổ. Sử dụng trò chơi trong học tập sẽ đạt được hiệu
quả hơn, làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học
trở nên thoải mái dễ chịu. Học sinh tiếp thu bài tự nhiên nhẹ nhàng và hiệu quả.
Ví dụ: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: Trung thực – Tự trọng, tôi tổ chức cho
học sinh chơi trò chơi "Tìm đúng, gắn nhanh" khi làm bài tập 3.
(Tiếng việt 4 - tập 1 - trang 63).
* Cách làm lâu nay là: một số giáo viên vẫn thường áp dạng cách dạy máy
móc như sách giáo viên là cho học sinh làm việc cá nhân rồi kết luận.
* Tôi đã thực hiện là: Từ mức độ kiến thức của bài tôi có thể tổ chức được
trò chơi. Giúp học sinh có khả năng phân biệt nhanh, rèn tính nhanh nhẹn chính
xác, tạo khí thế cho các em. Giáo viên cần chuẩn bị các tấm thẻ có ghi sẵn các từ
đã cho trong bài (trung bình, trung thành, trung nghĩa, trung thực, trung thu,
trung hậu, trung kiên, trung tâm.)
a. Trung có nghĩa là “ở giữa”
b. Trung có nghĩa là “một lòng một dạ”
........................................................... …………..………………………….
.......................................................... ………………………………………
- Hình thức tổ chức: Giáo viên chia lớp thành 3 đội, mỗi đội có 5 em tham
gia. Thời gian: 3 phút. Tôi cho các em từng đội nhận giấy bìa, trong thời gian 3
phút các em đính các tấm thẻ đúng vào bảng phụ. Hết thời gian đội nào phân biệt
đúng nhất, nhanh nhất thì đội đó thắng cuộc .
Tóm lại: Phân môn Luyện từ và câu được đánh giá là phân môn khó trong
môn Tiếng Việt nên việc gây hứng thú đối với học sinh là rất quan trọng. Tuy
nhiên trong quá trình lên lớp giảng dạy mỗi giáo viên phải tổ chức tiết học theo
phương châm: “ Học mà chơi, chơi mà học” để tạo hứng thú đặc biệt đối với các
em nhưng chú ý không biến giờ học thành giờ chơi vô ích.
2.3.2.2. Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu.
Cũng như tất cả các bài tập ở môn học khác, để làm được bài tốt, bước đầu
tiên các em phải làm là phân tích đề bài. Giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu,
nắm bắt yêu cầu đề ra. Đọc kĩ đề sẽ giúp học sinh hiểu yêu cầu của đề bài. Giúp
học sinh đọc, phân tích để nắm vững yêu cầu của bài tập. Tổ chức bằng nhiều
hình thức tùy vào mỗi dạng bài có thể tổ chức nhóm, cá nhân.
* Tổ chức thực hiện:
- Cho học sinh đọc thầm đề bài; Giáo viên đặt câu hỏi để học sinh xác định
yêu cầu; Học sinh trình bày: Giáo viên chốt, khẳng định đúng sai.
- Giáo viên có thể giải thích thêm cho học sinh nắm rõ yêu cầu của bài
(trong trường hợp học sinh chưa nắm được yêu cầu của đề bài).
Ví dụ: Khi cho học sinh làm bài tập 1- bài Vị ngữ trong câu kể Ai là gì?
10
Tìm câu kể Ai là gì? Trong các câu thơ sau. Xác định vị ngữ của cầu vừa
tìm được. ...
(Tiếng việt 4 tập 2 – trang 62)
* Cách làm lâu nay là: Giáo viên cho học sinh đọc yêu đề bài và nêu yêu
cầu của bài rồi cho học sinh thực hành làm bài.
* Tôi đã thực hiện là: Hướng dẫn các em xác định yêu cầu của bài sau khi
các em đã đọc yêu cầu bài. Giáo viên nêu các câu hỏi giúp các em hiểu và xác
định cách làm.
+ Em hãy đọc kĩ yêu cầu bài tập và cho biết bài tập yêu cầu gì? (Tìm câu kể
Ai là gì ? và Xác định vị ngữ của cầu vừa tìm được)
+ Muốn xác định được câu kể Ai là gì? Ta phải làm gì? (Đọc kỹ đoạn văn và
tìm dấu hiệu nhận biết mẫu câu Ai là gì?)
+ Để xác định được vị ngữ câu kể Ai là gì cầm làm gì? (Đặt câu hỏi và trả
lời câu hỏi là gì?…)
2.3.2.3. Phân loại đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp dạy học
phù hợp.
- Theo dõi, kiểm tra thường xuyên để tìm lỗi sai của học sinh.
- Chia nhóm đối tượng theo lỗi sai cụ thể ở mỗi dạng bài.
ST
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Họ và tên học sinh
Bùi Văn Huy
Nguyễn Thị Hoài
Bùi Thị Kim Ngân
Bùi Văn Chí
Nguyễn Đình Thành
Vũ Lê Xuân Mạnh
Bùi Thị Quỳnh
Bùi Thị Ngọc Mai
Bùi Thị Kim Huệ
Các lỗi sai
Dùng từ sai. Chưa phân biệt được từ loại.
Chưa phân biệt được từ loại; từ láy, từ ghép
Chưa biết đặt câu.
Chưa phân biệt được từ ghép, từ láy.
Chưa phân biệt được từ loại.
Chưa xác định được kiểu câu.
Chưa phân biệt được từ ghép, từ láy.
Dùng từ sai. Chưa biết đặt câu.
Dùng từ sai. Chưa phân biệt được từ loại.
Thông qua đó để tìm ra phương pháp dạy học hợp lý cho từng dạng bài tập,
cho từng đối tượng học sinh, giúp các em phần nào khắc phục tình trạng trên.
2.3.2.4. Phân loại dạng bài và giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học
Thạch Quảng 2 làm tốt đối với mỗi dạng bài tập phân môn Luyện từ và câu
lớp 4.
Với mỗi loại bài đều có phương pháp, hình thức tổ chức dạy học khác nhau.
Vì vậy để tiết học đạt hiệu quả cao giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương
trình, xác định các loại bài cụ thể trong phân môn để từ đó vận dụng các phương
pháp, hình thức dạy học phù hợp.
Dạng 1: Bài tập mở rộng vốn từ.
Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con
người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là
một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định giữa
các từ này với từ khác có một nét gì chung khiến ta phải nhớ đến từ kia nên từ
được tích luỹ nhanh chóng hơn. Từ mới có thể được sử dụng trong lời nói và khi
sử dụng nhờ hệ thống liên tưởng, học sinh nhanh chóng huy động lựa chọn từ phù
hợp với yêu cầu giao tiếp.[7]
11
Với mục đích tích luỹ nhanh chóng vốn từ và tạo điều kiện để sử dụng từ
một cách dễ dàng, giáo viên nên đưa ra những từ theo một hệ thống và sử dụng
linh hoạt nhiều phương pháp, hình thức dạy học (Thảo luận nhóm, trò chơi, đàm
thoại, hỏi đáp...) có sự hỗ trợ tích cực của đồ dùng dạy học.
Ví dụ 1: Khi tổ chức làm bài tập 1 trang 11, tiết Luyện từ và câu bài " Mở
rộng vốn từ: Tài năng" tuần 19.
* Cách làm lâu nay là: Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu kết quả, giáo
viên kết luận.
* Tôi đã thực hiện là: Xác định mục tiêu bài học và chuẩn bị đồ dùng cho
tiết dạy như sau:
- Mục tiêu: Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ ngữ theo chủ điểm; nắm được
cách dùng từ ngữ đó.
- Đồ dùng: + Bộ thẻ từ ghi từ đã cho : Tài giỏi, tài nguyên, tài nghệ, tài trợ,
tài ba, tài đức, tài sản, tài năng, tài hoa.
+ Bảng sau:
Từ có tiếng tài có nghĩa là "có khả Từ có tiếng tài có nghĩa là "tiền của").
năng hơn người bình thường"
...............................................................................
………………………………………………………
……………………………………………………
………………………………………….…………
- Hình thức tổ chức: Chia lớp thành các nhóm (nhóm 4), phát cho các nhóm
bộ thẻ từ, thảo luận và gắn vào hai cột trên bảng cho phù hợp. Các nhóm trình
bày kết quả (dán phiếu) trên bảng hoăc trên tường ở vị trí của nhóm.
Từ có tiếng tài có nghĩa là "có khả Từ có tiếng tài có nghĩa là "tiền của").
năng hơn người bình thường"
Tài giỏi, tài nghệ, tài ba, tài đức, tài nguyên, tài trợ, tài sản
tài năng, tài hoa
Ngoài việc tổ chức chia nhóm như trên, còn có thể tổ chức hoạt động học
theo hình thức trò chơi .
Ví dụ 2: Khi tổ chức làm bài tập 4 ở tiết Luyện từ và câu tuần 5 trang 148
SGK, Tiếng Việt 4, tập 1, bài "Mở rộng vốn từ: Đồ chơi - Trò chơi". Tôi tổ chức
cho học sinh chơi trò chơi “Mở rộng từ ngữ”. (Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố
mở rộng thêm từ, tích luỹ được vốn từ. Giúp học sinh phát huy tính chủ động và
tự tin)
* Chuẩn bị: Chuẩn bị bảng nhóm, bút lông
* Hình thức tổ chức: Cho học sinh chơi theo đội, mỗi nhóm học tập là một
đội, giáo viên giao việc cho các đội trong thời gian 3 phút, học sinh tìm tìm các
từ miêu tả tình cảm thái độ của con người khi tham gia các trò chơi và ghi vào
bảng nhóm các từ đúng theo yêu cầu thuộc chủ điểm. Hết thời gian các đội trình
bày. Đội nào tìm được nhiều từ đúng thì đội đó thắng .
Kết quả học sinh sẽ tìm được các từ như: hào hứng, say mê, say sưa, đam
mê, mê, ham thích ...
Dạng 2: Bài tập về Tìm từ ghép, từ láy
Giáo viên cần xác định lỗi cụ thể học sinh thường mắc phải để tìm cách
hướng dẫn phù hợp. Dạng bài này không những căn cứ vào hình thức mà cần cho
học sinh xác định các tiếng trong từ có nghĩa hay không.
12
Ví dụ 1: Bài 1 SGK Tiếng việt 4- trang 39. Khi học sinh mắc lỗi như trên
giáo viên cho học sinh nêu lại “Thế nào là từ ghép, thế nào là từ láy?” Từ đó
giáo viên cho học sinh thấy: cả hai tiếng có nghĩa là từ ghép mặc dù chúng có thể
giống nhau ở âm đầu hay vần ( từ ghép: dẻo + dai = dẻo dai…)
* Cách làm lâu nay là: Thường thì giáo viên hay tổ chức nhóm, giao nhiệm
vụ cho mỗi nhóm thảo luận, trình bày kết quả thảo luận, giáo viên chốt kết quả.
* Tôi đã thực hiện là: Hình thức tổ chức: Cho học sinh hoạt động theo hình
thức nhóm, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ làm việc theo công đoạn
"Công đoạn". Các nhóm thi làm bài và trình bày kết quả.
Đối với hình thức chia nhóm, tôi sử dụng theo nhiều cách khác nhau tạo
điều kiện cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác trong lớp. Tôi
chia nhóm theo số điểm danh, theo màu sắc, theo tên các loại trái cây các em yêu
thích, theo số đếm,...Yêu cầu học sinh có cùng số điểm danh, cùng một màu,
cùng một loại trái cây yêu thích sẽ cùng vào một nhóm.
Làm việc theo "Công đoạn" là một hình thức dạy học tích cực khi ứng dụng
vào dạy học và hiệu quả nhất là với những bài tập tìm từ. Với hình thức này, giáo
viên chia lớp thành các nhóm, giao cho mỗi nhóm một nhiệm vụ khác nhau. Cụ
thể nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, nhóm 3 chuyển cho
nhóm 4, nhóm 4 chuyển cho nhóm 1... các nhóm đọc và bổ sung cho nhau. Sau
đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận kết quả từ nhóm
khác để góp ý. Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại phiếu của nhóm
mình cùng với các ý kiến của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem, xử lý ý kiến
của các bạn để hoàn thiện kết quả của nhóm mình. Sau khi hoàn thiện xong,
nhóm sẽ trình bày kết quả trên bảng.
Ví dụ 2: Bài tập 3 trang 99 SGK ( tiết 6 Ôn tập giữa kỳ 1)
Tìm trong bài văn trên: - 3 từ đơn;
- 3 từ láy;
- 3 từ ghép
* Giáo viên chuẩn bị phiếu bài tập sau
PHIẾU BÀI TẬP NHÓM 1
- 3 Từ đơn: ………………………………………………………………………………………………..
Nhóm 2 bổ sung:…………………………………………………………………………………………
Nhóm 3 bổ sung ……………………………………………………………………………………..
PHIẾU BÀI TẬP NHÓM 2
- 3 Từ láy: ………………………………………………………………………………………………..
Nhóm 1 bổ sung: …………………………………………………………………………………………
Nhóm 3 bổ sung :………………………………………………………………………………………..
PHIẾU BÀI TẬP NHÓM 3
- 3 Từ ghép: ………………………………………………………………………………………………..
Nhóm 1 bổ sung :………………………………………………………………………………………….
Nhóm 2 bổ sung :………………………………………………………………………………………
- Hình thức tổ chức: Chia lớp làm 3 nhóm, mỗi nhóm làm một ý.
13
Nhóm 1: Tìm được từ làm xong (Ghi vào phiếu bài tập trên), sau đó chuyển
cho nhóm 2, nhóm 2 bổ sung thêm từ, nhóm 3 bổ sung thêm từ. Cuối cùng
chuyển về nhóm 1. Nhóm 1 xem và hoàn thiện lại sau đó trình bày kết quả.
Tương tự như trên các nhóm khác cũng làm bài của nhóm mình, bổ sung bài
cho các nhóm khác.
Trong quá trình làm, các nhóm có thể không phải bổ sung từ nếu như nhóm
ban đầu đã tìm chính xác và đầy đủ các từ. Theo cách tổ chức này, các em rất
thích thú và quan trọng là đảm bảo cho mọi học sinh đều được làm tất cả các
phần của bài tập.
Sau khi học sinh trình bày kết quả, cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ
đó. Tôi cho học sinh làm việc cá nhân.
* Yêu cầu học sinh so sánh từ láy với từ ghép. Giáo viên chốt:
- Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
- Khi phân loại từ phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ: Nếu có
quan hệ về mặt ngữ nghĩa là từ ghép. Nếu có quan hệ về mặt ngữ âm là từ láy.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lấy thêm ví dụ:
Từ ghép: nhà cửa, sách vở, ruộng vườn...
Từ láy: chăm chỉ, luộm thuộm, mênh mông.....
Dạng 3: Bài tập xác định từ loại: danh từ, động từ, tính từ .
Với các dạng bài tập này tôi cho học sinh phân tích đề bài một cách rõ ràng.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, cần có những dự tính cho những tình huống
và những lỗi học sinh mắc phải khi giải quyết bài tập để sửa chữa kịp thời.
Muốn tìm, nhận diện, phân biệt được danh từ, động từ, tính từ trước hết học
sinh phải: Vạch được danh giới từ; Hiểu nghĩa các từ; Phân biệt được các tiểu từ
loại.
Ví dụ: Tìm danh từ chỉ khái niệm trong các danh từ được in đậm dưới đây:
Một điểm nổi bật trong đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lòng thương
người … Chính vì thấy nước mất, nhà tan … mà Người đã ra đi học tập kinh
nghiệm của cách mạng thế giới để về giúp đồng bào.
Theo Trường Trinh
(Tiếng việt 4 - tập 1- trang 53)
- Khi tôi tổ chức cho học sinh làm bài tập này theo hình thức cá nhân,
phương pháp động não. Học sinh đã gặp khó khăn. Học sinh chưa nắm chính xác
về danh từ chỉ khái niệm, các em còn nhầm lẫn giữa danh từ chỉ khái niệm với
danh từ chỉ đơn vị. Sau khi cho học sinh làm xong cho học sinh nhắc lại khái
niệm về danh từ chỉ khái niệm và danh từ chỉ chỉ đơn vị. Cho học sinh thấy rõ
điểm khác biệt của hai khái niệm này.
+ “Danh từ chỉ khái niệm: Là những danh từ gồm các từ không chỉ vặt thể,
các chất liệu hay các đơn vị sự vật cụ thể, mà biểu thị các khái niệm cụ thể ( như
các từ: cuộc đời, sự nghiệp, thiên nhiên…)
+ Danh từ chỉ đơn vị : Là những từ chỉ đơn vị các sự vật như : các danh từ
chỉ đơn vị tự nhiên; đơn vị đo lường; đơn vị tập thể; đơn vị thời gian; đơn vị hành
chính tổ chức (như các từ: lạng, con, tháng, buổi, cái, đội, đại đội…)”[8]
- Khi các em đã hiểu và phân biệt được giữa danh từ chỉ khái niệm với
danh từ chỉ đơn vị. Tiếp tục cho học sinh làm bài.
14
- Khi cho học sinh làm vẫn còn một số em chậm hiểu tôi đã yêu cầu học
sinh làm là tìm danh từ chỉ người, danh từ chỉ sự vật xong còn lại là anh từ chỉ
khái niệm. (Lời giải: điểm, đạo đức, lòng, kinh nghiệm, cách mạng.)
Như vậy các em sẽ thấy quen với cách làm của bài này. Cuối cùng tôi kiểm
tra, đánh giá kết quả nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và muốn học
sinh có mẫu sản phẩm tốt nhất thì tôi phải chuẩn bị mẫu lời giải đúng và dùng nó
đối chiếu với bài làm của học sinh. Với những bài làm sai tôi không nhận xét
chung mà chỉ rõ bài học sinh sai ở đâu và chuyển từ lời giải sai sang lời
giải đúng.
* Với cách làm này tôi đã thu được kết quả tốt. Học sinh không còn nhầm
lẫn danh từ chỉ khái niệm với danh từ chỉ đơn vị.
Dạng 4: Bài tập xác định các kiểu câu.
Với dạng bài tập này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày
để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự
khi đặt câu. Vì vậy khi dạy dạng bài tập này tôi đặt trong hệ thống chương trình
để thấy rõ vị trí của nó đồng thời phải nắm chắc nội dung khái niệm. Đây chính là
nội dung mà tôi cần đưa đến cho học sinh.Trong mảng kiến thức về câu gồm có:
Câu kể; Câu hỏi; Câu khiến; Câu cảm (Câu cảm thán)
Đây chính là nội dung cần đưa đến cho học sinh, để thực hiện giảng dạy tôi
đã linh hoạt sử dụng kết hợp các phương pháp, hình thức như: trực quan, hỏi đáp,
thảo luận nhóm, trò chơi, giúp học sinh rút ra kiến thức của bài học. Mục đích
cuối cùng của việc dạy câu trong nhà trường là sử dụng chúng một cách có ý thức
để thực hiện chính xác tư tưởng, tình cảm trong hình thức nói và viết. Vì vậy,
thực hành câu nhất thiết phải được dạy một cách có định hướng, có kế hoạch
thông qua hệ thống bài tập câu.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
(Tiếng việt 4 - tập 1 - trang 161)
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm...
Trường hợp trên học sinh đã đặt câu sai yêu cầu và không viết dấu chấm
câu. Nên giáo viên cần hướng dẫn như sau:
+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật. (Em có một
chiếc bút bi rất đẹp. Nó có màu xanh biếc.)
+ Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào? (Em luôn cùng bạn cố gắng
học tập. Bạn luôn động viên em lúc em buồn).
+ Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.
15
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho
học sinh trong lớp nhận xét bổ sung. Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau:
Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui...
Ví dụ 2: Khi dạy bài 1, 2 "Luyện tập về câu kể Ai là gì?",
(Tiếng việt 4 - tập 2 - trang 78)
- Chuẩn bị của giáo viên: phiếu đã ghi sẵn tên các bộ phận của câu và bộ
thẻ từ:
( Bộ thẻ ghi các câu kể có trong đoạn văn, được chia thành hai mảnh)
Cả hai ông
đều không phải là người Hà Nội.
Nguyễn Tri Phương
Hoàng
là người Thừa Thiên.
quê ở Quảng Nam
Diệu
Ông Năm
Cần
là dân ngụ cư của làng này.
là cánh tay kì diệu của các chú công nhân.
trục
- Hình thức tổi chức: Chia lớp thành các nhóm 4, phát thẻ từ cho các nhóm.
Trong nhóm, học sinh đặt các mảnh ngửa trên bàn, đảo đều và xếp thành hai dãy.
Từng em trong nhóm lần lượt chọn hai mảnh từ hai dãy sao cho hai mảnh này khi
đặt lại với nhau sẽ tạo thành một câu kể Ai là gì? với hai vế câu có nội dung phù
hợp và dán các thẻ câu trên phiếu bài tập.
- Ở bài tập này có điểm đặc biệt Giáo viên cần lưu ý cho học sinh câu Cả
hai ông đều không phải là người Hà Nội, tuy có chứa từ là nhưng từ là ở đây
không dùng để nối hai vế câu như các câu khác. Giáo viên cần yêu cầu học sinh
xác định: Khi tìm chủ ngữ cần trả lời câu hỏi Ai?, tìm vị ngữ cần trả lời câu hỏi
là gì?
Kết quả bài làm của học sinh.
Cả hai ông
Nguyễn Tri Phương
Ông Năm
Cần
đều không phải là người Hà Nội.
là người Thừa Thiên.
là dân ngụ cư của làng này.
là cánh tay kì diệu của các chú công nhân.
trục
16
Sau khi các nhóm đã hoàn thành, các nhóm trình bày kết quả và nêu tác
dụng của từng câu. Giáo viên phải chốt kết quả đúng, chính xác để học sinh có
chỗ dựa kiến thức vững chắc cho các kiểu câu học sau đó.
2.3.2.5. Thực hiện tốt Thông tư 30 và Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa
đổi bổ sung Thông tư 30 về quy định đánh giá học sinh tiểu học.
Trong dạy học nói chung, dạy học phân môn Luyện Từ và câu nói riêng việc
đánh giá nhận xét bài làm của học sinh vô cùng quan trọng. Đánh giá thường
xuyên cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và học sinh nhằm hỗ trợ, điều
chỉnh kịp thời, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh. Đánh giá thường xuyên thực hiện
theo tiến trình nội dung của các môn học, bài học cụ thể.
Đọc kỹ và nắm được cách đánh giá theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT và
theo Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi bổ sung Thông tư 30 về quy định
đánh giá học sinh tiểu học. “Giáo viên dùng lời nói chỉ ra cho học sinh biết được
chỗ đúng, chỗ chưa đúng và cách sửa chữa. Viết nhận xét vào vở, bài làm của học
sinh khi cần thiết, có biện pháp cụ thể giúp đỡ kịp thời”[8].
Tôi không những quan tâm đến việc sửa lỗi chung cho cả lớp mà còn sửa lỗi
cụ thể cho từng bài làm, cho từng học sinh. Điều này giúp học sinh nhận ra lỗi
của mình rõ ràng cụ thể trong mỗi bài.
Ví dụ:
Nhận xét những ưu điểm và góp ý những hạn chế cho học sinh, đánh giá vì
sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong
học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng; đảm
bảo kịp thời, công bằng, khách quan.
Ngoài ra giáo viên cần chú ý cho học sinh tự nhận xét và tham gia nhận xét
sản phẩm học tập của bạn, nhóm bạn trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ học
tập để học và làm tốt hơn.
2.3.2.6. Đề xuất với nhà trường tổ chức các buổi giao lưu, hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Ngoài việc dạy học ở trên lớp nên tổ chức cho học sinh những giờ học ngoại
khóa thật bổ ích như tổ chức các trò chơi đố vui để học… các hội thi tìm từ
nhanh, đặt câu đúng… để các em tăng thêm vốn hiểu biết tạo ra sự thi đua, hứng
khởi trong học tập tiếng Việt và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
17
Tôi tổ chức cho các em đi tham quan thực tế học tập để các em mở rộng vốn kiến
thức về quê hương, đất nước để giúp đỡ các em hiểu hơn về cuộc sống, từ đó làm
giàu thêm vốn từ. Ngay từ trong cuộc sống hằng ngày của các em thường giao
tiếp với thầy cô, bạn bè, cha mẹ… học sinh phải nắm bắt được điều đó để điều
chỉnh cho học sinh trong hoạt động giao tiếp, học đi đôi với hành.
Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp như các giờ chơi, chào cờ, các
cuộc toạ đàm trao đổi học sinh sẽ tích luỹ được vốn từ cho mình.
Ví dụ: Qua bài ''Mở rộng vốn từ đồ chơi - trò chơi'' các em cũng thấy được
những trò chơi nào có lợi. Thông qua các cuộc giao lưu, toạ đàm trao đổi, các em
biết đặt câu hỏi một cách lịch sự, tránh hỏi trống không hoặc những câu hỏi thiếu
tế nhị. Biết giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị.
Trong năm học 2016 - 2017 tôi đã đề xuất với Ban gám hiệu nhà trường,
phối hợp với Liên đội và giáo viên trong tổ chuyên môn để tổ chức Hoạt động
ngoài giờ lên lớp, trường đã tổ chức cho các em Giao lưu: Em yêu Tiếng Việt.
Tôi đã cung cấp hệ thống câu hỏi thuộc Luyện từ và câu lớp 4 như sau:
Câu 1: Tiếng yêu gồm những bộ phận cấu tạo nào?
A. chỉ có vần và thanh B. Chỉ có vần
C. Chỉ có âm đầu và vần (A)
Câu 2: Câu Cháu về đấy ư ? được dùng làm gì?
A. Để hỏi.
B. Để thay lời chào.
C. Để yêu cầu, đề nghị (B)
Câu 3: Trong các từ : Thành thật, nô nức, bờ bãi từ nào là từ láy? ( nô nức)
Câu 4: Chủ ngữ trong câu Cuộc đời tôi rất bình thường là?
A. Tôi
B. Cuộc đời tôi
C. Rất bình thường (B)
Câu 5: Nghĩa của chữ tiên trong đầu tiên khác với chữ tiên nào dưới đây?
A. Tiên tiến
B. Trước tiên
C. Thần tiên
(C)
* Tóm lại: Việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp có tác dụng rất lớn
đến việc dạy phân môn luyện từ và câu giúp các em có thói quen dùng từ đúng,
nói viết thành câu, biết quý biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Vì vậy tôi đã đề xuất để nhà trường tổ chức các buổi giao lưu hoạt động
ngoại khóa. Giúp các em sử dụng và yêu thích Tiếng việt hơn.
- Tổ chức các trò chơi, đố vui để học ( thi tìm nhanh, viết đúng…) để các
em tăng thêm vốn hiểu biết. Tạo sự thi đua hứng khởi trong học tập Tiếng việt nói
chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng.
- Tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế học tập để các em mở rộng vốn
kiến thức về quê hương, đất nước, cuộc sống con người làm giàu thêm vốn từ cho
các em.
2.3.2.7. Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn khác và với phụ huynh
học sinh.
Qua nhiều năm dạy học cho thấy sự phối hợp với phụ huynh, với thầy cô
giáo bộ môn khác vô cùng quan trọng.
* Với thầy cô giáo bộ môn khác cần chú ý nhắc nhở học sinh:
- Khi học sinh trả lời câu hỏi, hoặc trong trao đổi giao tiếp cần nói đủ câu,
diễn đạt rõ nghĩa và dùng từ chính xác.
* Với phụ huynh giáo viên cần trao đổi với phụ huynh về các vấn đề sau:
18
- Giao tiếp khi ở nhà cần nhắc nhở con: Dùng từ đúng; Nói thành câu; Diễn
đạt nội dung rõ ràng.
- Phụ huynh tạo điều kiện về mặt thời gian cho các em đi học đầy đủ cả
những buổi chính khóa và những buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chuẩn bị đủ
sách vở cho các em.
- Ở nhà phụ huynh cần nhắc nhở các em chuẩn bị bài, đọc sách, khuyến
khích các em đọc truyện Thiếu nhi.
- Điều đặc biệt với những học sinh thuộc dân tộc thiểu số thì cần thiết ở nhà
phụ huynh nên thường xuyên giao tiếp với các em bằng ngôn ngữ phổ thông để
các em mở rộng và rèn luyện cách sử dụng vốn từ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và, qua một thời gian áp dụng
phương pháp nghiên cứu, tôi đã đề xuất với Ban giám hiệu được tiến hành khảo
sát chất lượng phân môn Luyện từ và câu của học sinh ở hai lớp, lớp 4A và lớp
4B - Trường Tiểu học Thạch Quảng 2 vào chiều Thứ ba, ngày 18 tháng 4 năm
2017 (Đề bài có phụ lục kèm theo), đã được Ban giám hiệu nhất trí.
Kết quả thu được như sau:
Lớp Số học Tốt
sinh
SL
4A
30
7
4B
28
3
Đạt yêu cầu
TL%
23.3
10.7
SL
23
22
TL%
76.7
78.6
Chưa đạt yêu cầu
SL
0
3
TL%
0.0
10.7
Cụ thể các lỗi học sinh đã khắc phục được ở lớp 4 A như sau :
Các lỗi sai học sinh thường mắc
Số lượng HS Tỉ lệ % Ghi chú
Dùng từ sai.
1
3.3
Chưa phân biệt được từ loại
0
0.0
Chưa phân biệt được từ ghép, từ láy
1
3.3
Chưa xác định được kiểu câu.
0
0.0
Chưa biết đặt câu, đặt câu sai mục đích
0
0.0
Qua bảng số liệu cho thấy, kết quả khảo sát chất lượng học sinh đã được
nâng lên rõ rệt.
Điều này chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập
Luyện từ và câu là rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của
học sinh. Dần dần các em đã hình thành được thói quen làm việc có kế hoạch,
linh hoạt với từng dạng bài.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua kết quả thực nghiệm và thực tế giảng dạy phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 4, tôi nhận thấy để mỗi giờ dạy Luyện từ và câu đạt hiệu quả cao, giáo viên
cần phải xác định rõ tầm quan trọng, vị trí của phân môn Luyện từ và câu. Ngoài
ra còn phải chú ý:
- Tạo niềm say mê, tạo động lực giúp các em yêu thích môn học. Có hứng
thú khi học tập.
19
- Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính chủ động sáng tạo của học
sinh. Khi tổ chức dạy học cần phân loại đối tượng học sinh và tìm lỗi sai cụ thể ở
mỗi em để tìm phương pháp dạy học phù hợp.
- Hình thức tổ chức tổ chức học tập phải linh hoạt bằng nhiều hình thức:
học cá nhân, học nhóm, tâp thể, trò chơi học tập…
- Cần phối hợp chặt chẽ với phụ huynh và đồng nghiệp. Với phân môn
Luyện từ và câu thì việc uốn nắn học sinh trong giao tiếp là rất cần thiết, học đi
đôi với hành.
- Nghiên cứu kĩ bài dạy để soạn bài có chất lượng. Thường xuyên đọc các
tài liệu, trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, trau dồi kiến thức phân môn Luyện từ và
câu với các đồng nghiệp.
Sau khi thực hiện đề tài này tôi nhận thấy học sinh không những học tốt
phân môn Luyện từ và câu mà còn học tốt cả những phân môn khác trong môn
Tiếng Việt.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với phòng giáo dục:
- Phòng GD&ĐT tổ chức các chuyên đề về phương pháp dạy Luyện từ và
câu lớp 4, tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo cụm trường để giáo viên có điều
kiện trao đổi, học tập.
2.2. Đối với trường:
- Tổ chức ngoại khóa cho học sinh; Tổ chức tham quan học tập.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn toàn trường, tổ khối xây dựng tiết dạy
minh họa về phân môn Luyện từ và câu, để giáo viên được trao đổi, rút kinh
nghiệm, học hỏi đồng nghiệp.
- Mua bổ xung trang thiết bị, sách tham khảo phục vụ bộ môn: Từ điển
Tiếng Việt, đồ dùng dạy học tranh minh họa, bảng nhóm…
Vì kinh nghiệm nghề nghiệp còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không
nhiều, với một số biện pháp dạy học tôi xin đưa ra trong sáng kiến nhỏ này, rất
mong được sự góp ý của hội đồng khoa học cũng như tất cả đồng nghiệp để
SKKN được hoàn thiện, đảm bảo tính khoa học, hiệu quả và thiết thực hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thạch Quảng, ngày 22 tháng 04 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết:
Đặng Thị Loan
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] [2] [3] Sách giáo viên Tiếng việt 4 - tập 1- Nguyễn Minh Thuyết chủ
biên - Nhà xuất bản Giáo dục, 2005.
[4] Luật giáo dục số 44/2009/QH12
[5] Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học ở Tiểu học
-Lớp 4 của Bộ Giáo dục và Đào tạo - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2009
[6] Giáo trình Tâm lý học trẻ tiểu học - GS.TS Bùi Văn Huệ.
[7] Tham khảo một số tài liệu trên mạng Internet về chuyên đề Luyện từ và
câu lớp 4.
- Nguồn:
- Nguồn:
- Nguồn:
[8] Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi bổ sung Thông tư 30/2014/TTBGDĐT về quy định đánh giá học sinh tiểu học.
21
22