Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng giờ học môn luyện từ và câu lớp 4 theo chuẩn kiến thức kĩ năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.63 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ HỌC MÔN LUYỆN
TỪ VÀ CÂU LỚP 4 THEO CHUẨN KIẾN THỨC KĨ NĂNG”

Người thực hiện: Nguyễn Việt Hà.
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Mậu Lâm 2.
SKKN thuộc phân môn : Tiếng việt.

THANH HOÁ NĂM 2017.


MỤC LỤC.
A. MỞ ĐẦU
I. . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DUNG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ.
1. Biện pháp 1: Giáo viên phải hiểu về mục tiêu, nội dung


chương trình, yêu cầu kiến thức, kĩ năng của phân môn Lyện tư
và câu lớp 4.
2. Biện pháp 2: Giáo viên cần có sự chuẩn bị tốt.
3. Biện pháp 3: Linh hoạt khi tổ chức thực hiện nhằm tạo cơ
hội cho học sinh.
4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
5. Biện pháp 5: Gắn kiến thức bài học với thực tế.
6. Biện pháp 6: Chú ý bồi dưỡng các đối tượng học sinh, tưng
bước nâng cao chất lượng đại trà.
7. Biện pháp 7: Dạy học sinh nhận biết, vận dụng kiến thức
thông qua các dấu hiệu.
VI. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ .
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.

Trang
3
3
3
3
3
4
4
4
6
6-8
8
9
10

10 - 11
11 - 13
13 -15
15 - 16
16
16
16 - 17


A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống
ngôn ngữ. Từ là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể
thực hiện
chức năng giao tiếp. Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn
ngữ quyết
định tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học.
Việc dạy
luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hoá và làm phong phú
vốn từ cho học
sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về từ và
câu, rèn cho
học sinh kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để
thể hiện tư
tưởng, tình cảm của mình, đồng thời giúp cho HS có khả năng
hiểu các câu
nói của người khác. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học
sinh trong
việc nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ và trí tuệ của các

em.[1]
Phân môn luyện tư và câu ở bộ môn tiếng Việt khối 4, 5 là một môn học
khó với học sinh bởi nội dung chủ yếu là ngữ pháp và phân tích ngữ nghĩa của
tư ngữ. Chương trình nặng, nội dung khó hiểu đã dẫn đến học sinh không thích,
không hứng thú trong việc học luyện tư và câu. Vì vậy hiếm có học sinh học thật
tốt môn này. [2]
Qua nhiều năm đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy hầu như tất cả giáo
viên đều rất coi trọng môn Tiếng việt, dành rất nhiều thời gian cho môn học
nhưng chất lượng môn Tiếng việt vẫn chưa đạt như mong muốn. Một trong
những nguyên nhân đó là do hiệu quả phân môn Luyện tư và câu chưa cao. Làm
thế nào để dạy - học tốt phân môn Luyện tư và câu góp phần nâng cao chất
lượng của môn Tiếng việt? Đây là nỗi trăn trở của rất nhiều thầy cô đang trực
tiếp đứng lớp.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của phân môn Luyện tư và câu, tôi
mạnh dạn đưa ra sáng kiến “ Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng giờ
học Luyện từ và câu lớp 4 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng”.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Với đề tài này, mục đích nghiên cứu chính là tìm ra giải pháp nâng cao
chất lượng giờ học phân môn Luyện tư và câu cho học sinh khối 4.
III .ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
- Thực trạng dạy học Luyện tư và câu.
3


- Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện tư
và câu cho học sinh khối 4 theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Phương pháp nghiên cứu lí luận( đọc tài liệu)
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Là người Việt Nam, mỗi chúng ta ai cũng tự nhận thấy rằng ngôn ngữ
chúng ta hết sức phong phú và đa dạng. Mỗi con người ngay tư khi sinh ra
đến tuổi đi học đều hình thành cho mình vốn ngôn tư tiếng Việt, quy tắc giao
tiếp nhất định. Bởi vậy, để có được vốn tư, để chính xác hóa nội dung ngữ
nghĩa của tư cũng như thúc đẩy việc hình thành kĩ xảo ngữ pháp diễn ra
một cách nhanh chóng, thuận lợi không thể không chú ý đến việc rèn luyện,
trau dồi cho các em vốn kiến thức về tiếng Việt qua phân môn Luyện tư và
câu.
Tiểu học là cấp học đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển
nhân cách con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông và các cấp học trên.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước đòi hỏi học sinh phải có vốn kiến
thức cần thiết. Để giúp học sinh có vốn kiến thức đó, nhiệm vụ của môn Tiếng
việt ở Tiểu học nhằm trang bị cho các em những kiến thức về hệ thống tiếng
Việt, chuẩn tiếng Việt, rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong giao
tiếp. Trong đó phân môn "Luyện tư và câu" là một trong những phân môn quan
trọng có ý nghĩa to lớn trong chương trình tiểu học. Luyện tư và câu giúp học
sinh mở rộng, hệ thống hoá vốn tư và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ
giản về tư và câu. Rèn cho học sinh một số kĩ năng dùng tư đặt câu và sử dụng
các dấu câu. Bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng tư đúng, nói - viết thành
câu, có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp, rèn luyện phát triển tư
duy, bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp cho học sinh. Việc bồi dưỡng và nâng cao chất
lượng phân môn "Luyện tư và câu" sẽ giúp các em làm giàu vốn tư, vốn tri thức
về tâm hồn. Tư đó, các em tích luỹ cho mình những kiến thức cần thiết, tạo điều
kiện để các em học tốt các phân môn khác trong tiếng Việt như: Chính tả, Tập
làm văn. Đồng thời học tốt các môn học khác như: Toán, Tự nhiên-xã hội, Âm

nhạc, Mĩ thuật. Đặc biệt là khơi dậy trong tiềm thức tâm hồn học sinh lòng yêu
quý sự phong phú của tiếng Việt, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt,
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác
“xuất phát tư nhu cầu của bản thân, xác định tốt, đúng phương pháp giảng dạy
4


phân môn "Luyện tư và Câu", người giáo viên sẽ tìm ra những giải pháp tối ưu
để nâng cao chất lượng giáo dục.” [1]
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM.
1. Giáo viên.
- Phân môn Luyện tư và câu là phần kiến thức khó nên một số giáo viên
còn lúng túng và gặp khó khăn trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu
và vận dụng vào việc làm các bài tập.
- Một số giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy nhưng chủ yếu chỉ là những
tiết thao giảng, còn lại chưa chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai
thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, còn lệ thuộc vào
đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này.
- Bên cạnh đó, hình thức tổ chức dạy học của một số giáo viên còn đơn
điệu, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. Một số giáo viên còn
chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn tư, phát triển vốn tư cho học sinh, giúp học
sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về tiếng Việt.
2. Học sinh
- Học sinh đa số là người dân tộc thiểu số, vốn tư còn nghèo, HS nhút
nhát, rụt rè. Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của
phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn
này.
- Học sinh không có hứng thú học phân môn này.
- Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của tư, câu...Tư đó dẫn đến việc

nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm
lẫn nhiều.
- Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay
bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến con em mình còn có quan
điểm ''trăm sự nhờ nhà trường, nhờ thầy, cô'' cũng làm ảnh hưởng đến chất
lượng học tập bộ môn.
3. Kết quả của thực trạng trên
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi
chảy, chính xác, nhưng khi vận dụng làm bài tập, thực hành thì lúng túng và làm
bài không đạt yêu cầu. Điều đó chứng tỏ việc nắm kiến thức của các em không
chắc chắn, thụ động.
Do vậy ngay khi dạy hết phần tư ghép, tư láy (Tuần 4).Tôi đã tiến hành
khảo sát học sinh lớp 4A trường tiểu học Mậu Lâm 2 năm học 2016 - 2017 với
34 học sinh ( trong đó có 1 học sinh khuyết tật) qua đề bài sau.
Đề bài:
Câu 1: Những tư nào sau đây nói về lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương
con người?
Thương người, nhân ái, hiền từ, thông minh, nhân từ, bao dung, nhân nghĩa
Câu 2: Xác định tư ghép và tư láy trong đoạn văn sau.
5


“Mùa thu, bầu trời tự nhiên cao bổng lên và trong xanh. Một màu xanh trứng
sáo ngọt ngào, êm dịu. Vắng hẳn đám mây đen thường ùn ùn kéo lên từ phía
chân trời mỗi buổi chiều oi bức.”.
Kết quả khảo sát thu được như sau:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành

Số lượng Tỉ lệ ( %)
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
3
9.2
12
36.3
18
54.5
Với kết quả như trên ta thấy, số lượng học sinh chưa hoàn thành chiếm tỉ
lệ khá cao 54,5% và điều đáng nói ở đây là có tới 20 em xác định không đúng tư
ghép, tư láy; bài làm của các em trình bày chưa khoa học, câu trả lời chưa đầy
đủ.
Tư những nguyên nhân trên, tôi đã tiến hành phân tích và áp dụng một số
giải pháp cải tiến mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy vào dạy Luyện
tư và câu cho học sinh lớp 4 năm học 2016 – 2017 với mong muốn góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục của lớp mình phụ trách nói riêng và chất lượng
của toàn trường Mậu Lâm 2 nói chung.
Tuy nhiên, do khả năng có hạn nên tôi rất mong nhận được sự góp ý của
bạn bè, đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Biện pháp 1: Giáo viên phải hiểu về mục tiêu, nội dung chương
trình, yêu cầu kiến thức, kĩ năng của phân môn Lyện từ và câu lớp 4.
Phương pháp dạy học mới không cho phép giáo viên cung cấp kiến thức
cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều xong lại yêu cầu giáo viên phải nắm
vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho học sinh.
Mặt khác, việc nắm vững mục tiêu của môn học, nội dung chương trình,
yêu cầu kiến thức, kĩ năng của phân môn Lyện tư và câu lớp 4 nói chung, mục

tiêu cần đạt trong tưng tiết, trong tưng bài tập nói riêng giúp người giáo viên tự
tin, chủ động trên bục giảng góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Mục tiêu, nội dung chương trình, yêu cầu kiến thức, kĩ năng của phân
môn Lyện tư và câu lớp 4 gồm:
a. Nội dung chương trình
Gồm 32 tiết ở học kỳ I và 30 tiết ở học kỳ II bao gồm các tư thuần Việt,
Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ phù hợp với chủ điểm học tập của tưng đơn vị học.
* Học kỳ I: 5 chủ điểm
- Chủ điểm 1: Thương người như thể thương thân: Nhân hậu - Đoàn kết.
- Chủ điểm 2: Măng mọc thẳng: Trung thực - Tự trọng.
- Chủ điêm 3: Trên đôi cánh ước mơ : Ước mơ.
- Chủ điểm 4: Có chí thì nên: Ý chí - Nghị lực.
- Chủ điểm 5: Tiếng sáo diều: Đồ chơi - Trò chơi.
* Học kỳ II: 5 chủ điểm
- Chủ điểm 1: Người ta là hoa là đất: Tài năng - Sức khoẻ.
- Chủ điểm 2: Vẻ đẹp muôn màu: Cái đẹp.
6


- Chủ điểm 3: Những người quả cảm : Dũng cảm.
- Chủ điểm 4: Khám phá thế giới: Du lịch - Thám hiểm.
- Chủ điểm 5: Tình yêu cuộc sống : Lạc quan yêu đời.
b. Yêu cầu kiến thức
b.1 Mở rộng và hệ thống hoá vốn từ:
Môn Tiếng Việt có 10 đơn vị học thì phân môn Luyện tư câu mở rộng và hệ
thống hoá vốn tư 10 chủ điểm đó.
b.2 Trang bị cho học sinh các kiến thức về từ và câu.
* Cấu tạo tư:
- Tư đơn.
- Tư phức.

- Tư ghép: Ghép có nghĩa tổng hợp; Ghép có nghĩa phân loại.
- Tư láy: Láy âm, láy vần, láy cả âm và vần ( láy tiếng).
* Tư loại:
- Danh tư: Danh tư chung, danh tư riêng.
- Động tư: Cách thể hiện ý nghĩa thời gian của động tư.
- Tính tư: Cách thể hiện ý nghĩa, mức độ của đặc điểm, tính chất của tính tư.
* Các kiểu câu:
- Câu hỏi và dấu chấm hỏi; Dùng câu hỏi với mục đích khác; Giữ phép lịch sự
khi đặt câu hỏi.
- Câu kể: Câu kể “Ai làm gì?”, Câu kể “Ai thế nào?”, Câu kể “Ai là gì?”,
Luyện tập câu kể “Ai làm gì?”.
- Câu khiến; Cách đặt câu khiến; Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề
nghị.
- Câu cảm.
* Cấu tạo câu.
- Thành phần chính trong câu:
+ Vị ngữ trong câu kể “Ai làm gì?”, “Ai thế nào?”, “Ai là gì?”.
+ Chủ ngữ trong câu kể “Ai làm gì?”, “Ai thế nào?”, “Ai là gì”.
- Thành phần phụ trong câu:
+ Thêm trạng ngữ cho câu.
+ Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn, chỉ thời gian, chỉ nguyên nhân, chỉ mục
đích, chỉ phương tiện cho câu.
* Dấu câu:
- Dấu hai chấm.
- Dấu ngoặc kép.
- Dấu chấm hỏi.
- Dấu gạch ngang.
* Ngữ âm - chính tả:
- Cấu tạo tiếng.
- Cách viết tên người, tên địa lí Việt Nam; Cách viết tên người, tên địa lí

nước ngoài; Cách viết tên các cơ quan, tổ chức, giải thưởng, danh hiệu,
huân chương.
7


c. Yêu cầu kỹ năng về từ và câu:
c.1. Từ.
- Nhận biết được cấu tạo của tiếng.
- Giải các câu đố chữ liên quan đến cấu tạo của tiếng.
- Nhận biết tư loại.
- Đặt câu với những tư đã cho.
- Xác định tình huống sử dụng thành ngữ - Tục ngữ.
c.2. Câu
- Nhận biết các kiểu câu.
- Đặt câu theo mẫu.
- Nhận biết các kiểu trạng ngữ.
- Thêm trạng ngữ cho câu.
- Tác dụng của dấu câu.
- Điền dấu câu thích hợp.
- Viết đoạn văn với dấu câu thích hợp.
c.3. Dạy Tiếng Việt văn hoá trong giao tiếp.
- Thông qua nội dung dạy phân môn Luyện tư và câu lớp 4, bồi dưỡng cho học
sinh ý thức và thói quen dùng tư đúng, nói viết thành câu và ý thức sử dụng
Tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hoá.
- Chữa lỗi dấu câu.
- Lựa chọn kiểu câu, kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần đạt được và đó cũng
như là nhiệm vụ mà người giáo viên cần nắm vững khi giảng dạy phân môn này.
d. Quy trình dạy luyện từ và câu.
Dạy bài lí thuyết
1. KTBC: (3-5')

2. Bài mới
a. GBT: 1 - 2'
b. Hình thành KN: 10-12'
- Giáo viên sẽ phân tích ngữ liệu
c. Hướng dẫn luyện tập: 20 - 22'
- Đọc và xác định yêu cầu của bài tập
- Hướng dẫn giải 1 phần bài tập mẫu
- Học sinh làm bài tập
- Chữa, chấm nhận xét -> chốt KT
d. Củng cố -dặn dò (2-3')

Dạy bài thực hành
1. KTBC(3-5')
2. Bài mới
a. GTB (1-2')
b. Hướng dẫn thực hành (32-34')
- Đọc và xác định yêu cầu của BT
- Hướng dẫn 1 phần BT mẫu
- Học sinh là BT
- Chấm chữa - nhận xét -> Chốt KT
c. Củng cố - dặn dò (2-3')

2. Biện pháp 2: Giáo viên cần có sự chuẩn bị tốt.
a. Lập kế hoạch dạy học.
Việc lập kế hoạch bài học tức là tạo ra cho mình một cẩm nang trong việc
dạy học. Vì vậy, khi lập kế hoạch dạy học giáo viên cần phải xác định được
mình dạy cái gì và dạy cho ai. Kế hoạch bài học của giáo viên phải logic, tích
8



hợp đầy đủ các nội dung dạy học ở trong đó, phải có đầy đủ mục đích, yêu cầu
cũng như quy trình một bài dạy sao cho phù hợp, có hoạt động của người dạy,
người học. Khi lập kế hoạch bài học, trước hết giáo viên cần đọc trước các nội
dung trong sách giáo khoa để hiểu dụng ý của tác giả, sau đó tham khảo tài liệu
hướng dẫn để tìm biện pháp, hình thức và phương pháp dạy học thích hợp
để tổ chức quá trình dạy học. Bên cạnh đó, giáo viên còn phải
dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra trong giờ dạy để có thể kịp thời
xử lý, đồng thời tạo cho giờ học sinh động, hấp dẫn.
b. Chuẩn bị đồ dùng.
Việc dạy học theo phương pháp mới hiện nay đòi hỏi giáo viên phải năng
động, sáng tạo, tìm tòi học hỏi để làm tăng hiệu quả giờ dạy đồng thời nâng cao
chất lượng học tập của học sinh và góp phần lớn cho hiệu quả cũng như thành
công của tiết dạy. Vì vậy, việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cho mỗi bài dạy là khâu
quan trọng. Với mỗi bài khác nhau yêu cầu mỗi loại đồ dùng khác nhau tư đó
giáo viên xác định và chuẩn bị được những đồ dùng cần thiết phục vụ cho tiết
dạy và lập quy trình dạy học sao cho phù hợp .
3. Biện pháp 3: Linh hoạt khi tổ chức thực hiện nhằm tạo cơ hội cho
học sinh.
Mỗi tiết Luyện tư và câu, mỗi dạng bài tập Luyện từ và câu được
phân loại theo các cơ sở khác nhau. Dựa vào mục tiêu dạy học,
phạm vi nội dung kiến thức, kĩ năng được hình thành mà giáo
viên cần linh hoạt tổ chức các hoạt động học tập đa dạng và phong phú
nhằm giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và hình thành kỹ năng. Điều này có ý
nghĩa cho học sinh hoạt động một cách tích cực. Bởi vì: học sinh là người tham
gia các hoạt động ấy, các em tự tìm tòi, khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn
của giáo viên; các em phải trao đổi, thảo luận để giải quyết nhiệm vụ học tập
được giao; các em được đóng vai tham gia vào trò chơi học tập, đóng kịch, diễn
xuất … Vì vậy, giáo viên cần chú ý tạo cơ hội cho học sinh được thực hành,
được thể hiện, được trình bày ý kiến, ý tưởng, được báo cáo kết quả việc làm
bằng nhiều hình thức khác nhau và phải luân phiên nó bằng nhiều hình thức: có

khi là phiếu học tập, có khi là bằng bảng giấy hay bảng lớp, có khi trình bày
bằng miệng. Ngoài ra còn có thể cho thi đua giữa các nhóm.
Ví dụ: BT2 trang 17, SGK Tiếng Việt 4 - Tập I, tiết Luyện tư và câu bài
Mở rộng vốn từ: Nhân hậu- Đoàn kết thay vì cho học sinh làm bài cá nhân, tôi
tồ chức cho học sinh làm bài bằng hình thức trò chơi: chia lớp thành các đội
chơi, phát cho các nhóm bộ thẻ ghi nội dung các tư đã cho theo bài: nhân dân,
nhân hậu, nhân ái, công nhân, nhân loại, nhân đức, nhân từ, nhân tài.
Yêu cầu các đội chơi thảo luận với nhau trong thời gian nhất định, sau đó
nối tiếp gắn các tư tương ứng với nghĩa vào bảng. Đội nào gắn nhanh, đúng là
đội thắng cuộc.
Từ có tiếng nhân có nghĩa là Từ có tiếng nhân có nghĩa là
“người”
“lòng thương người”
9


nhân dân, công nhân, nhân loại, nhân hậu, nhân ái, nhân đức, nhân
nhân tài

Bên cạnh việc linh hoạt khi tổ chức thực hiện nhằm tạo cơ hội cho học
sinh thì giáo viên cũng cần phải đánh giá kết quả sau mỗi hoạt động. Bởi vì việc
kiểm tra, đáng giá, uốn nắn kịp thời sẽ tạo cho các em niềm hứng thú trong học
tập và kĩ năng làm việc đặc biệt là học sinh yếu. Giáo viên tôn trọng những phát
hiện riêng của tưng học sinh trong diễn đạt, thận trọng khi đánh giá, sửa bài làm
của tưng em một cách cụ thể (chẳng hạn, tôi nhận xét miệng trước lớp khi học
sinh trả lời bằng các câu: Đúng lắm! giỏi lắm! rất đúng với ý của cô hoặc Cả
lớp khen bạn đi nào! bạn nói đúng rồi đấy hoặc Em đặt câu đúng ngữ pháp rồi
đấy nhưng em cần sửa từ này, từ này thì câu văn chắc chắn sẽ hay hơn rất
nhiều, …
Hay để có thời gian chấm và nhận xét được nhiều học sinh tôi đã khắc bộ

dấu có lời nhận xét kèm theo hoa mặt cười và mặt mếu để nhận xét vào vở của
học sinh như: với bài làm tốt: kèm với hoa mặt cười là lời nhận xét Con hiểu bài
và vận dụng tốt, cô khen!; bài làm còn cần khắc phục là hoa mặt mếu với lời
nhận xét: Con làm bài hơi chậm, cần cố gắng con nhé,…) Bên cạnh việc đánh
giá của giáo viên, tôi hướng dẫn và cho học sinh được góp ý, đánh giá và nhận
xét lẫn nhau.
4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài
Việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài là một điều kiện vô cùng quan trọng
để giúp học sinh tiếp thu bài học một cách tốt nhất và cũng là một biện pháp góp
phần to lớn vào việc nâng cao hiệu quả dạy học. Sau mỗi tiết học giáo viên cần
dành chút ít thời gian để hướng dẫn các em xem trước nội dung bài học sắp tới
và những phần cần chuẩn bị, có như vậy khi học bài mới, các em mới không bỡ
ngỡ, chủ động chiếm lĩnh và có thể còn vận dụng được những kiến thức đã học
liên quan đến nội dung bài mới.
Mặt khác khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài giáo viên cần phải giao
nhiệm vụ rõ ràng, kích thích hứng thú học tập của các em bằng các hình thức thi
đua, khen thưởng, nêu tình huống có vấn đề,... và có lưu ý đến sự phân hoá cho
phù hợp với tưng đối tượng học sinh.
Ví dụ: ở tiết Tính từ (tiếp theo - trang 124) bài tập 3 yêu cầu học sinh đặt
câu với mỗi tư ngữ em vưa tìm được ở bài tập 2 (Bài tập 2: tìm những tư ngữ
miêu tả mức độ khác nhau của các đặc điểm: đỏ, cao, vui), yêu cầu học sinh có
khả năng hoàn thành tốt với mỗi tư có thể đặt tư 2-3 câu để miêu tả các mức độ
khác nhau thì các đối tượng còn lại chỉ yêu cầu các em đặt 1 câu .
Hay: Khi dạy bài "Câu kể Ai là gì?" Trang 57, SGK Tiếng Việt 4 - Tập
I, để giúp học sinh thực hiện tốt yêu cầu viết đoạn văn giới thiệu về gia đình
mình hoặc tập thể lớp mình trong đó có sử dụng Câu kể Ai là gì? thì học sinh
cần chuẩn bị tấm ảnh chụp gia đình đem đến lớp. Nếu giáo viên nhắc học sinh
chuẩn bị và các em mang đầy đủ thì chắc chắn rằng, giờ học này sẽ sinh động
hơn vì em nào cũng háo hức muốn giới thiệu về gia đình của mình.
10



Bên cạnh việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, giáo viên cũng cần kiểm
tra bài vở của mọi đối tượng học sinh để tất cả các em cùng học tập, tránh tình
trạng vì kiến thức quá khó mà một vài học sinh không học tập hoặc học tập
không hiệu quả.
5. Biện pháp 5: Gắn kiến thức bài học với thực tế.
Kiến thức tiếng Việt vốn bắt nguồn tư đời sống thực tế, nếu trong khi dạy,
giáo viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập tốt hơn,
hứng thú hơn. Vì thế, sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần liên hệ thực
tế để giáo dục các em, giúp các em vận dụng được những điều đã học vào cuộc
sống. Có như vậy, các em mới cảm thấy kiến thức bài học thật gần gũi, yêu thích
môn học hơn.
Ví dụ: Bài Mở rộng vốn từ Trung thực - Tự trọng- Tuần 5 - TV4, trang
48.
Sau khi giúp học sinh hiểu nghĩa của tư trung thực thông qua việc tìm tư
cùng nghĩa, trái nghĩa (Bài tập1), giáo viên liên hệ thực tế bằng câu hỏi: Em hãy
nêu những việc em đã làm thể hiện sự trung thực trong cuộc sống. (lưu ý học
sinh nêu thành câu) khi học sinh nêu được các việc đã làm giáo viên cùng học
sinh phân tích mặt tốt, mặt hạn chế (nếu có) của việc làm để phát huy và khắc
phục. Như vậy bên cạnh việc giúp học sinh hoàn thành được ý một của bài tập 2
thì đồng thời giáo viên cũng đã lồng ghép giáo dục các em về sự trung thực và
giúp học sinh khắc sâu kiến thức.
Hay khi dạy bài Mở rộng vốn từ Nhân hậu - Đoàn kết - Tuần 3- TV4,
trang 33.
Giáo viên liên hệ thực tế giúp học sinh hiểu tinh thần tương thân tương ái,
sống nhân hậu đoàn kết tư đó các em biết vận dụng vào cuộc sống bằng những
việc làm cụ thể như: ủng hộ lũ lụt, ủng hộ bạn nghèo đồ dùng học tập, giúp đỡ
người tàn tật, giúp đỡ các bạn trong lớp, trong trường có hoàn cảnh khó khăn,…
Bên cạnh đó tư năm học 2010-2011, Bộ Giáo dục đào tạo đã ban hành tài

liệu Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học cho tất cả các lớp. Ở
trường, tôi cũng đã được tham gia tập huấn chuyên đề này và bản thân tự nhận
thức được việc cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Phân môn Luyện tư và câu trong sách giáo khoa Tiếng việt lớp 4 được thể
hiện trong cuốn sách Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học – lớp
4 chỉ có vài bài nhưng không phải vì thế mà giáo viên chỉ giáo dục kĩ năng sống
trong phạm vi những bài đó mà cần thực hiện khai thác các kĩ năng sống trong
bất cứ bài học nào có thể có trong nội dung, trong tưng hoạt động của bài. Tuy
nhiên giáo viên cần phải luôn nhớ rằng việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống sẽ
không làm nặng nề, quá tải nội dung bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ Trung thực- Tự trọng Tuần 6, SGK
trang 62,63 tôi xác định giáo dục kĩ năng sống cho học sinh như sau:
- Kĩ năng trao đổi, thảo luận.
- Kĩ năng nhận xét, bình luận ( nhận xét về nhân vật bạn Minh)
- Kĩ năng tự nhận thức bản thân về tính trung thực, tự trọng.
11


Ở bài tập này, giáo viên có thể cho học sinh nêu nhận xét về bạn Minh.
Qua đó luyện tập kĩ năng nhận xét, bình luận đồng thời giáo dục thái độ: học tập
những điều hay của bạn và điều chỉnh hành vi của mình trong học tập. Vì vậy,
ngoài việc tích hợp 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết thì giáo viên cần chú ý điều
này nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện cho học sinh.
6. Biện pháp 6: Chú ý bồi dưỡng các đối tượng học sinh, từng bước
nâng cao chất lượng đại trà.
Trong một lớp học bao giờ cũng có nhiều đối tượng học sinh: Hoàn thành
tốt, Hoàn thành và chưa hoàn thành. Vì thế các bài tập trong sách giáo khoa
được lựa chọn để đảm bảo theo yêu cầu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng là mọi đối
tượng học sinh đều phải đạt được.
Theo tinh thần “ Tất cả vì học sinh” nên lớp tôi được Ban giám hiệu tạo

điều kiện cho học tăng 2 buổi/ tuần do tôi dạy vào các buổi chiều thứ ba và thứ
năm. Vì thế tôi có thời gian rèn luyện thêm cho học sinh. Mặt khác giáo viên
được nhà trường tạo điều kiện cho chủ động lựa chọn nội dung kiến thức cần
truyền đạt nên bản thân tôi luôn ý thức rằng mình cần lựa chọn nội dung kiến
thức như thế nào để đáp ứng yêu cầu củng cố, mở rộng , nâng cao cho học sinh.
Chính vì thế trong một tiết học luôn có các bài tập phù hợp cho tưng đối tượng
nhằm tưng bước nâng cao chất lượng mũi nhọn cũng như chất lượng đại trà.
Ví dụ : Bài Mở rộng vốn từ Ý chí- Nghị lực tuần 12 Trang 118, SGK
Tiếng Việt 4 Tập I. Sau giờ học buổi sáng, các em đã được làm các bài tập trong
VBT. Đến buổi chiều, tôi cho các em rèn luyện thêm các bài tập như sau:
Bài tập 1: Chọn tư thích hợp trong các tư sau để điền vào ô trống: ý chí,
quyết chí, chí hướng, chí thân.
a, Nam là người bạn ….. của tôi.
b, Hai người thanh niên yêu nước ấy cùng theo đuổi một……
c, ………..của Bác Hồ cũng là ……của toàn thể nhân dân Việt Nam.
d, Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
……. ắt làm nên.
Lời giải : a: chí thân; b : chí hướng; c: ý chí; d : Quyết chí.
Bài tập 2: Trong các câu tục ngữ dưới đây, câu nào không nói về ý chí,
nghị lực:
a, Có chí thì nên
b, Thua keo này, bày keo khác
c, Có bột mới gột nên hồ
d, Có công mài sắt, có ngày nên kim.
e, Có đi mới đến, có học mới hay
g, Thắng không kiêu, bại không nản
Lời giải: c, Có bột mới gột nên hồ
Như vậy đối với hai bài tập này, mục tiêu của giáo viên đề ra là:

- Bài tập 1: dành cho học sinh toàn lớp.
12


- Bài tập 2: dành cho học sinh có khả năng hoàn thành tốt.
Hoặc học xong bài Mở rộng vốn từ Nhân hậu- Đoàn kết - Tuần 3, buổi
chiều tôi cho học sinh làm thêm bài tập sau: Em hãy viết một đoạn văn ngắn kể
về một người có tấm lòng nhân hậu, trong đó có dùng ít nhất một thành ngữ, tục
ngữ đã học.
Với bài tập này, học sinh có khả năng hoàn thành tốt làm được. Tuy nhiên
với học sinh có khả năng hoàn thành và chưa hoàn thành còn lúng túng, tôi
không yêu cầu các em dùng thành ngữ, tục ngữ vào bài bài viết, và hướng dẫn
các em sử dụng các tư ngữ thuộc chủ điểm đã học bằng các câu hỏi gợi ý: Người
em định kể là ai? Người đó có tấm lòng nhân hậu như thế nào? …
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc quan tâm đến các đối tượng học
sinh là một việc làm quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giảng dạy, nhất
là những lớp học tăng buổi. Với những bài tập rèn luyện thêm vào buổi chiều đã
phát huy được khả năng học tập của các em, tưng bước nâng cao chất lượng đại
trà. Bên cạnh đó còn rèn cho các em tính chăm chỉ, không chịu dưng lại ở những
gì mình đã biết.
Về việc ra bài tập để các em rèn luyện, giáo viên cần căn cứ theo tình hình
thực tế ở lớp mình, tham khảo thêm các sách như: Tiếng Việt nâng cao lớp 4 ,
Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 4 của nhà xuất bản Giáo Dục.
7. Biện pháp 7: Dạy học sinh nhận biết, vận dụng kiến thức thông qua
các dấu hiệu.
Ở môn Toán học sinh được truyền đạt và có kỹ năng không cần thực hiện
phép tính mà vẫn nhận biết được một số bất kì nào đó có chia hết cho 2,5,3,9
hay không thông qua các dấu hiệu, điều đó giúp các em vận dụng vào việc học
về phân số và làm cơ sở để giúp các em học tốt môn toán ở cấp trên .
Ở môn Tiếng việt, các dấu hiệu không được nói rõ ràng như môn Toán mà

được nói lồng ghép trong việc giải quyết các bài tập và các em phải được gặp
nhiều, thực hành nhiều mới vận dụng được.
Ví dụ: ở bài Câu kể Ai là gì? Tiếng việt 4- tập 1- trang 166 -167.
- Phần nhận xét, học sinh được làm 3 bài tập ( Bài tập 1: đọc các câu văn;
Bài tập 2: tìm trong mỗi câu trên các tư chỉ hoạt động, chỉ người và vật hoạt
động; Bài tập 3: đặt câu hỏi cho tư chỉ hoạt động, cho tư chỉ người và vật hoạt
động)
- Phần ghi nhớ: rút ra nội dung bài học ( Câu kể Ai làm gì? thường gồm
hai bộ phận: bộ phận thứ nhất là chủ ngữ, trả lời cho câu hỏi Ai (con gì, cái gì?),
bộ phận thứ hai trả lời cho câu hỏi làm gì?
- Phần bài tập - ở bài tập 1: Tìm những câu kể Ai làm gì? trong đoạn văn
sau: ...
Mặc dù ở phần nhận xét, với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh thực
hiện rất tốt các yêu cầu nói trên nhưng khi tìm câu kể Ai làm gì? có trong đoạn
văn thì hầu hết các em rất lúng túng, không xác định được câu theo yêu cầu.
Vì vậy, giáo viên ngoài việc giúp các em nắm chắc kiến
thức về mặt nội dung thì còn cần giúp các em nắm chắc những
13


dấu hiệu về mặt hình thức được thể hiện trong từng đơn vị học
cụ thể nhằm giúp học sinh vận dụng tốt vào thực hành.
Thực tế, qua nhiều năm dạy lớp 4, bản thân tôi đã đúc rút được một số
dấu hiệu khi dạy Luyện tư và câu như sau:
Ví dụ:
1. Khi dạy bài Dấu hai chấm - TV4 tập 1, trang 22.
Bài tập 2: Viết đoạn văn theo truyện Nàng tiên Ốc, trong
đó có ít nhất hai lần dùng dấu hai chấm:
- Một lần, dấu hai chấm dùng để giải thích.
- Một lần, dấu hai chấm dùng để dẫn lời nhân vật.

Đây là bài tập tương đối khó đối với học sinh:
- Thứ nhất: các em phải chuyển câu truyện thơ thành dạng
văn xuôi.
- Thứ hai: các em phải vận dụng để sử dụng dấu hai chấm
thể hiện được hai tác dụng của nó (dùng để giải thích và dùng
để dẫn lời nhân vật).
Để giúp học sinh hoàn thành được đoạn viết tôi hướng dẫn
học sinh như sau:
- Yêu cầu các em đọc lại câu chuyện và xác định trong
truyện có mấy nhân vật.
- Khổ thơ nào thể hiện sự giải thích (khổ thơ thứ hai), khổ
thơ nào các nhân vật có thể nói chuyện với nhau. (khổ thơ cuối)
Khẳng định: Chỗ nào các nhân vật có thể nói chuyện với
nhau (các em hãy hình dung xem các nhân vật có thể nói gì) thì
đặt lời nói đó của nhân vật sau dấu hai chấm và dấu ngoặc kép
hoặc dấu gạch đầu dòng và chỗ nào có dấu hiệu liệt kê, giải
thích ta sẽ đặt dấu hai chấm trước những từ ngữ đó.
Tuy nhiên nếu giáo viên chỉ hướng dẫn như trên thì chỉ học
sinh có khả năng hoàn thành tốt mới viết được đoạn văn, giáo
viên cần hướng dẫn thêm:
- Các nhân vật có thể nói chuyện trực tiếp được không, họ
có thể sẽ nói gì? Nếu cho các nhân vật nói chuyện trực tiếp, thì
các em phải đặt lời nói sau dấu hai chấm và dấu gạch đầu
dòng.
Như vậy, dấu hiệu để nhận biết tác dụng thứ hai của dấu
hai chấm - báo hiệu sau nó là lời nói của nhân vật - là dấu hai
chấm sẽ đi kèm với dấu ngặc kép hoặc dấu gạch ngang.
2. Khi dạy bài Dấu ngoặc kép - TV4 tập 1, trang 82.
Bài tập1: Tìm lời nói trực tiếp trong đoạn văn sau:
Có lần, cô giáo ra cho chúng tôi một đề văn ở lớp: “ Em đã

làm gì để giúp đỡ mẹ ?”
14


Tôi loay hoay mất một lúc, rồi cầm bút và bắt đầu viết:
“Em đã nhiều
lần giúp đỡ mẹ. Em quét nhà và rửa bát đĩa. Đôi khi, em giặt
khăn mùi soa”
Để giúp học sinh tìm được lời nói trực tiếp tôi hướng dẫn
học sinh nhận biết:
- Trong đoạn văn có bao nhiêu dấu ngoặc kép?
- Trước dấu ngoặc kép có dấu hai chấm không?
Khi học sinh nêu được hai ý trên, khẳng định luôn nếu
trước những dấu ngoặc kép đó có dấu hai chấm thì các câu văn
trong dấu ngoặc kép là lời dẫn trực tiếp.
Như vậy dấu hiệu để nhận biết được tác dụng thứ nhất của
dấu ngoặc kép (dùng để dẫn lời nói trực tiếp của nhân vật hoặc
của người nào đó) là trước nó có dấu hai chấm.
* Việc giúp học sinh nhận biết tác dụng cũng như cách vận
dụng hai loại dấu câu trên sẽ giúp học sinh vận dụng tốt trong
làm văn kể chuyện mà khi kể có kết hợp dẫn lời nói trực tiếp
hoặc gián tiếp của nhân vật.
3. Khi dạy học sinh xác định, phân biệt ba loại câu
kể Ai làm gì?; Ai thế nào?; Ai là gì?
Cho học sinh nhận biết:
- Câu kể Ai làm gì? trong câu thường có động từ.
- Câu kể Ai thế nào? trong câu thường có tính từ.
- Câu kể Ai là gì? trong câu thường có từ là.
Ở những bài trên bao giờ bài tập 1 bao giờ cũng là xác
định các câu kể theo từng kiểu câu, vì vậy cần hướng dẫn học

sinh nhận biết theo các dấu hiệu
trên.
Bên cạnh đó để giúp học sinh khắc sâu kiến thức về ba
kiểu câu kể này, khi dạy hết các kiến thức về kiểu câu kể Ai là
gì?, giáo viên cần thống kê lại ba kiểu câu trên và cho học sinh
phân biệt, nhận biết rằng điểm khác biệt của ba kiểu câu kể
trên chính là ở phần vị ngữ.
4. Bài Thêm trạng ngữ cho câu (TV4 - Tập 2 - trang
126)
Theo cấu tạo câu, trạng ngữ là thành phần phụ của câu, nó
được đưa ra sau khi học sinh học hai thành phần chính của câu
là chủ ngữ và vị ngữ.
Trạng ngữ có hai dấu hiệu:
- Là thành phần phụ của câu, thường đứng ở đầu câu.
- Có chức năng bổ sung ý chỉ thời gian, nơi chốn, nguyên
nhân, mục đích (tình huống),… của sự việc nêu ở trong câu.
15


Trạng ngữ có dấu hiệu hình thức để nhận diện là bộ phận
trả lời cho câu hỏi “Khi nào?”, “Ở đâu?”, “Để làm gì?”...

Bên cạnh cung cấp cho học sinh các dấu hiệu như trên, ở
phần xác định các từ loại, tôi hướng dẫn học sinh xác định bằng
cách phân chia từ theo các tiểu loại của từ để dễ nhận diện.
Ví dụ: Ở bài Tính từ - TV4 tập 1, trang 110.
- SGK cung cấp khái niệm: Tính từ là những từ ngữ miêu
tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt động, trạng thái.
Với khái niệm như trên, khi vận dụng vào làm bài tập1: Tìm
tính từ trong các đoạn văn, đa phần học sinh không xác định

được tính từ. Vì vậy tôi đã hướng dẫn các em xác định bằng
cách định nghĩa lại tính từ theo các tiểu loại: tính từ là những từ
chỉ màu sắc, hình dạng, kích thước, tính tình, tư chất,… Với cách
làm như trên học sinh dễ dàng xác định được tính từ có trong
từng đoạn văn.
* Bên cạnh tất cả các biện pháp trên, trong quá trình dạy
tăng buổi, tôi còn phân chia bài tập theo từng mảng kiến thức
để giúp học sinh củng cố và rèn kĩ năng.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC, ĐỐI VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP, NHÀ
TRƯỜNG.
Sau khi đã áp dụng biện pháp cải tiến trong dạy học Luyện tư và câu nói
trên tôi nhận thấy học sinh tự tin hơn, làm chủ được kiến thức hơn, thích học
hơn còn giáo viên thì khai thác bài sâu hơn, trọng tâm hơn và các kiến thức có
hệ thống hơn.
Để đối chiếu với kết quả học tập của học sinh đầu năm học sau khi áp
dụng đổi mới dạy học phân môn Luyện tư và câu tại thời điểm này, tôi đã tiến
hành cho các em làm bài kiểm tra đối chứng với đề bài sau:
Đề bài:
Câu 1: Tìm và ghi lại 5 tư có tiếng dũng
Câu 2: Đánh dấu x vào ô trống trước những câu là câu khiến?
- Cho bác đứng nhờ đây một tí nhé.
Ông lão nhìn Hoa trìu mến và cảm ơn rối rít.
Ông ơi, ông mặc áo mưa về nhà đi kẻo muộn.
Câu 3: Gạch một gạch dưới bộ phận chủ ngữ, hai gạch dưới bộ phận vị ngữ của
câu sau:
Mỗi đường chổi sơn ông quét lên cánh cửa lại hiện ra một màu xanh lạ kì.
Một màu xanh lấp lánh những ánh vàng.
Câu 4: Gạch dưới câu kể Ai làm gì? Trong đoạn văn sau:
Cẩu Khây nhổ cây bên đường quật túi bụi. Yêu tinh đau quá. Nó hét lên

khiến gió bão nổi ầm ầm. Đến một thung lũng, yêu tinh dưng lại phun nước ra
như mưa.
16


Kết quả thu được: Tổng số lớp 4A có 34 em. ( 1 HS khuyết tật)
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
Số lượng
Tỉ lệ ( %)
10
30.3
21
63.7
2
6
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
I. KẾT LUẬN.
Tiếng Việt rất giàu và rất đẹp, có thể dùng tiếng Việt diễn tả được tất cả
các sắc thái tình cảm rất tinh tế trong suy nghĩ của mỗi người. Chúng ta sẽ
không hài lòng khi đọc một bài văn, một suy nghĩ, ý kiến của các em mà vốn tư
còn nghèo nàn, cách diễn đạt thiếu trôi chảy, mạch lạc. Chính vì vậy để nâng cao
hiệu quả giảng dạy phân môn Luyện tư và câu ở lớp 4 trước hết giáo viên phải
làm cho học sinh thấy rõ tiếng Việt rất lý thú và bổ ích, giúp học sinh hiểu được
sự phong phú và cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, nâng cao cảm thụ thẩm mĩ. Đây

còn là vấn đề cấp thiết để đáp ứng nhu cầu học tập cho bản thân học sinh. Ngay
tư bậc học đầu tiên các em mới bước vào ngưỡng của văn hóa giáo dục, phải
trang bị cho các em vốn tư phong phú, chính xác để giúp các em đi vào cuộc
sống, tạo cho các em thói quen biết sử dụng Tiếng Việt có văn hóa.
II. KIẾN NGHỊ .
Tư những bài học kinh nghiệm trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất
như sau:
1. Đối với giáo viên:
- Cần xác định vai trò chủ đạo của mình trong đổi mới phương pháp dạy
học, phải tìm tòi phương pháp truyền đạt có hiệu quả, kích thích tích tư duy,
sáng tạo của học sinh. Chủ động tự bồi dưỡng chuyên môn, tìm tài liệu chuẩn
phù hợp với nhận thức của học sinh để cung cấp cho các em.
- Trong việc soạn giảng, giáo viên nên thiết kế bài bám sát chuẩn kiến
thức kỹ năng của môn học, bài học. Tuỳ theo đặc điểm của tưng bài học mà xây
dựng kế hoạch bài giảng cho phù hợp. Sắp xếp các hoạt động của giáo viên, học
sinh một cách phù hợp với đặc điểm của tưng bài và tăng cường sử dụng thiết bị
dạy học trong đó có việc áp dụng công nghệ thông tin.
- Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với nội dung của bài dạy và chủ điểm của bài học đó.
2. Đối với nhà trường:
- Ngoài giờ học chính khoá nên có những buổi học ngoại khoá, tham quan
dã ngoại mang tính thực tế .
- Tổ chức các đợt hội thảo về đổi mới phương pháp giảng dạy một cách có
hiệu quả.
- Trong mỗi đợt thao giảng, yêu cầu tất cả các giáo viên tham gia dự giờ,
góp ý rút kinh nghiệm.
- Động viên kịp thời các đồng chí giáo viên làm tốt công tác tự học, tự bồi
dưỡng.
3. Đối với Phòng Giáo dục:
17



- Tiếp tục tổ chức cho các nhà trường được học tập những sáng kiến kinh
nghiệm hay để mọi người áp dụng vào quá trình công tác.
Trong phạm vi đề tài này tôi chỉ xin được giới thiệu một số kinh nghiệm
nhỏ của bản thân đã áp dụng thành công trong giảng dạy nhằm nâng cao chất
lượng giờ học Luyện tư và câu cho học sinh lớp 4 của đơn vị tôi công tác. Do
khả năng còn có nhiều hạn chế và thời gian có hạn nên sáng kiến kinh nghiệm
này không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được các đồng chí đóng góp
ý kiến để sáng kiến của tôi được áp dụng rộng rãi hơn trong dạy học.
Xin chân thành cảm ơn.
Xác nhận của hiệu trưởng
Như Thanh , ngày 5 tháng 6 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết bài

Nguyễn Việt Hà

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Lê Phương Nga: Phương pháp dạy học Luyện tư và câu cho học sinh
tiểu học. NXB GD
2. Luyện tư và câu: học cách nào không ngán. Lê Phương Trí (GV
Trường Tiểu học Đống Đa, Q.4, TP.HCM


19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: NGUYỄN VIỆT HÀ.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường tiểu học Mậu Lâm 2.
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1. - Một số biện pháp nâng cao
Phòng
B
hiệu quả các tiết học về tư
nhiều nghĩa.
2. - Một số giải pháp rèn kĩ năng
Phòng
B
hình học cho học sinh lớp 4,5
3. - Một số biện pháp giúp học

Phòng
B
sinh lớp 4 làm tốt các bài tập
về tính tư.
4. - Một số biện pháp giúp nâng
Phòng
B
cao chất lượng giờ học Lịch
sử cho học sinh lớp 4 - 5.
5. Một số biện pháp giúp nâng
Phòng
A
cao chất lượng giờ học Luyện
tư và câu lớp 4 theo chuẩn
kiến thức, kĩ năng.

Năm học
đánh giá xếp
loại
2009- 2010
2010 - 2011
2014 - 2015
2015 - 2016
2016 - 2017

20




×