Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy để nâng cao hiệu quả dạy học môn ngữ văn 6 ở trường THCS ái thượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.08 MB, 22 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÁ THƯỚC

TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ÁI THƯỢNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY ĐỂ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN 6 Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ÁI THƯỢNG

Người thực hiện: Nguyễn Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Ái Thượng
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2017
Mục lục
1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
II- PHẦN NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1.GIỚI THIỆU BĐTD VỚI HỌC SINH
3.2.CHO HỌC SINH LÀM QUEN VỚI BĐTD VÀ


HƯỚNG DẪN HS CÁCH VẼ BĐTD.
3.3.ÁP DỤNG BĐTD VÀO TRONG DẠY HỌC.
3.3.1.LẬP BĐTD TRONG KIỂM TRA KIẾN THỨC CŨ.
3.3.2.LẬP BĐTD TRONG DẠY HỌC KIẾN THỨC MỚI.
3.3.3.LẬP BĐTD TRONG CỦNG CỐ KIẾN THỨC.
3.3.4.LẬP BĐTD TRONG BÀI ÔN TẬP.
3.3.5.LẬP BĐTD ĐỂ TỔNG HỢP KIẾN THỨC NHIỀU BÀI HỌC.
3.3.6. LẬP BĐTD ĐỂ RA BÀI TẬP VỀ NHÀ.
3.3.7. LẬP BĐTD ĐỂ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ HỌC SINH.
3.4. TIẾT DẠY THỰC NGHIỆM.
4.HIỆU QUẢ CỦA SKKN.
PHẦN III: KẾT LUẬN

TRANG
2
2
3
3
3
4
4
4
5
5
7
8
8
9
11
11

13
15
15
16
19
20

2


PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ
nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo
dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác
làm việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách
PPDH ở nhà trường phổ thông.
Trong những năm gần đây, một trong những vấn đề được Đảng và Nhà
nước quan tâm hàng đầu là đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất
lượng giáo dục. Với phương pháp dạy học mới, người học đóng vai trò trung
tâm, chủ động, tích cực, tự giác trong học tập, Giáo viên (GV) là người tổ chức,
hướng dẫn học sinh (HS) tự khám phá kiến thức mới, dạy cho HS không chỉ
kiến thức mà cả phương pháp học. Trong đó, cốt lõi là phương pháp tự học.
Một thực tế dễ nhận thấy ở HS miền núi là khả năng tư duy, mức độ tiếp
thu kiến thức còn hạn chế, các em chưa hứng thú trong học tập, còn thụ động, ỷ
lại, chưa tự giác, tích cực, chưa có phương pháp học tập hiệu quả.
Đặc biệt là đối tượng HS lớp 6, với đặc điểm tâm lí lứa tuổi của HS tiểu
học: hồn nhiên, trong sáng. Khi bước vào lớp 6, các em có tâm lí lo lắng, bỡ

ngỡ, khi chưa biết cách học, chưa biết cách ghi chép, chưa biết hệ thống kiến
thức, chưa có khả năng ghi nhớ sâu, thâu tóm hay trình bày vấn đề, trong khi số
lượng môn học và khối lượng kiến thức của các em lại nhiều hơn, khó hơn. Nếu
các em không có được phương pháp học đúng đắn, phù hợp, kết quả học tập sẽ
không cao, từ đó có thể dẫn tới sự tự ti, nhút nhát trong tâm hồn trẻ thơ của các
em, đó sẽ là một sự khuyết tật về tính cách sau này.
Trong khi đó, Môn Ngữ Văn là một môn học chính trong nhà trường, khối
lượng kiến thức nhiều, thời gian trong một tiết học lại ngắn, nếu HS không biết
cách ghi chép, không có phương pháp học phù hợp thì hiệu quả học tập sẽ
không cao.
Trong khi tiếp nhận dạy môn Ngữ Văn lớp 6, tôi đã rất chú trọng dạy làm
sao để giúp các em hình thành được cách học, phương pháp học phù hợp với
đặc điểm tâm lí lứa tuổi để giúp các em yêu thích bộ môn Ngữ Văn, khơi gợi
trong các em hứng thú học tập, thích thú hơn khi học, từ đó nâng cao chất lượng
dạy và học.
Về đổi mới phương pháp dạy học và sử dụng các kĩ thuật dạy học tích
cực trong dạy học, tôi đã được làm quen với các Kĩ thuật dạy học tích cực như:
dạy học theo góc, dạy học theo Hợp đồng, kỹ thuật khăn phủ bàn….trong đó có
kỹ thuật dạy học bằng Bản đồ tư duy (BĐTD). Tôi nhận thấy đây là một kỹ
thuật dạy học thực sự hiệu quả và rất phù hợp với đối tượng HS lớp 6 Trường
THCS Ái Thượng .
Kỹ thuật này sẽ giúp các em có được phương pháp học hiệu quả, từ đó sẽ
đạt kết quả cao trong học tập, không chỉ môn Ngữ Văn mà các môn học khác,
giúp nâng cao chất lượng giáo dục. Nên trong năm học 2016 -2017, tôi đã chọn
3


để tài "Một số kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy để nâng cao hiệu quả dạy
học môn Ngữ Văn 6 ở Trường trung học cơ sở Ái Thượng” để nghiên cứu và
bước đầu thu được những thành quả đáng mừng.

2. ĐỐI TƯỢNG NGIÊN CỨU.
Sáng kiến chủ yếu tập trung vào nghiên cứu: Kĩ thuật dạy học bằng bản
đồ tư duy trong dạy học ngữ văn 6 bậc trung học cơ sở.

3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu đưa ra những
nhận định đánh giá về phương pháp học tập truyền thống
của học sinh, đề xuất giải pháp ứng dụng bản đồ tư duy
trong dạy học. Tự bồi dưỡng tay nghề chuyên môn, nghiệp
vụ và đóng góp kinh nghiệm vào việc đổi mới phương pháp
học tập, nâng cao hiệu quả dạy học ngữ văn.S
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã áp dụng những phương
pháp cụ thể sau:
4.1. Phương pháp quan sát:
Phương pháp quan sát cho phép thu thập kết quả từ việc
ghi chép. Nhằm quan sát thực tế phương pháp học tập truyền
thống của học sinh lớp 6 trường THCS Ái Thượng.
4.2. Phương pháp thu thập phân tích tài liệu:
– Tài liệu viết: Dựa vào vở ghi, đề cương ôn tập của học sinh
khối 6.
– Tài liệu thống kê: Dựa vào những số liệu, bảng thống kê về kết
quả học tập của học sinh trường THCS Ái Thượng, huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hóa.
4.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Đối tượng phỏng vấn:học sinh trường THCS Ái
Thượng,huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
4.4. Phương pháp dùng bảng hỏi:
– Đối tượng: học sinh trường THCS Ái Thượng, huyện Bá Thước,
tỉnh Thanh Hóa. Mục đích nhằm thăm dò ý kiến, thái độ của về

phương pháp học tập kiểu truyền thống, khảo sát về nhu cầu
ứng dụng bản đồ tư duy vào việc học tập và đánh giá những
mặt mạnh của việc ứng dụng bản đồ tư duy.
4.5. Phương pháp thực nghiệm: dạy một tiết cụ thể.

4


PHẦN HAI: NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Nhà văn Gor.ki từng nói, văn học là nhân học, học văn cũng chính là học
cách làm người. Học văn sẽ giúp các em hình thành, phát triển và hoàn thiện
nhân cách, sự đa dạng, phong phú về mặt tâm hồn. Môn Văn với những câu
chuyện, những bài thơ, những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt và Tập làm văn sẽ
giúp các em biết cách giao tiếp, đặc biệt nó sẽ giúp các em biết yêu cái đẹp, cái
hay, cái tốt, biết căm ghét cái xấu xa, cái giả dối. Từ đó bồi đắp thêm tâm hồn
cho các em , bồi đắp thêm tình yêu gia đình, quê hương, đất nước cũng như các
tình cảm khác.
Tất cả điều đó chỉ có thể làm được khi các em yêu thích môn văn. Nhưng,
nếu không có phương pháp học tập hiệu quả ngay từ đầu cấp, sẽ dẫn tới các em
chán nản, thờ ơ với môn văn, như vậy vai trò của môn văn trong nhà trường
THCS sẽ bị lu mờ.
Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học không phải là mới lạ. Song, với
đối tượng học sinh lớp 6, các em vừa thay đổi môi trường học tập, từ cấp Tiểu
Học lên học ở cấp Trung Học Cơ Sở, số lượng môn học và kiến thức tăng lên.
Nên nhiều học sinh bỡ ngỡ đã không theo kịp sự thay đổi này, dẫn đến học hành
giảm sút so với thời kì học ở bậc Tiểu Học. Vì thế, để nâng cao chất lượng học
tập môn Ngữ Văn, phải gây được hứng thú học tập của HS, bên cạnh việc đổi
mới phương pháp dạy học, thì nhất thiết phải giúp các em có phương pháp học
tập phù hợp, hiệu quả, và sử dụng BĐTD là thiết thực nhất, vì nó phù hợp với

tâm lí lứa tuổi ( thích vẽ), cách ghi chép, ghi nhớ thông tin nhanh, hiệu quả,
điều rất cần thiết với HS lớp 6.
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
Trường THCS Ái Thượng có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. Đội ngũ
cán bộ giáo viên nhiệt tình, say mê trong công tác giảng dậy. Nhà trường luôn
quan tâm tới công tác nâng cao chất lượng dạy và học của thầy và trò. Đa số học
sinh ngoan, yêu thích việc đến trường đi học.
Trong công tác giảng dạy giáo viên chưa phát huy tính chủ động tích cực
của học sinh. Đôi khi còn sa vào giảng giải , ghi bảng nhiều và đọc chép làm cho
học sinh tiếp thu một cách thụ động và ngại tư duy.
Qua một thời gian dạy, tôi nhận thấy HS lớp 6 đa phần không biết cách
ghi chép, thường GV viết gì trên bảng, các em sẽ ghi chép như vậy, cách ghi rất
chậm, cách học rất thụ động, rụt rè, nhút nhát, nhiều khi trong một tiết, GV
không dạy hết kiến thức vì phải đợi HS ghi xong bài. Đặc biệt, khả năng ghi nhớ
kiến thức của các em rất hạn chế, các em rất khó nhớ một vấn đề, thường học
trước, quên sau, khi GV kiểm tra, các em chưa biết cách xác định được các nội
dung chính mà thường đọc theo sách giáo khoa không sót một từ. Trong khi đó,
5


nội dung kiến thức lại nhiều, khó hơn so với cấp tiểu học. Vì thế các em rất ngại
học Văn.
Đây là kết quả khảo sát HS , thông qua bài Khảo sát đầu năm học 20162017 môn Ngữ Văn khối 6 Trường THCS Ái Thượng – Huyện Bá Thước- Tỉnh
Thanh Hóa:
Kết quả khảo sát đầu năm
Tổng HS thích học
Văn
số HS
Giỏi
Khá

TB
Yếu
Kém
khối 6
SL
%
SL % SL % SL % SL % SL %
6A: 30
16
53,3
2 6,6 5 16,6 14 46,6 6
20
3
10
HS
6B: 30
15
50
1 3,3 6
20 12 40
7 23,3 4 13,3
HS
Tổng :
31
51,6
3
5 11 18,3 24 40 13 21,6 7 11,6
60 HS
Có thể thấy, tỉ lệ HS chưa có phương pháp học tập đúng đắn, chưa hứng
thú với môn văn và tỉ lệ HS yếu kém là rất cao. Đây là một khó khăn lớn đối với

GV khi tiếp nhận dạy môn Ngữ văn lớp 6.
3. CÁC GIẢI PHÁP VÀ CÁCH THỰC HIỆN.
3.1. Giới thiệu về BĐTD với HS.
BĐTD ( hay còn gọi là sơ đồ tư duy) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi
đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ
thống hóa một chủ đề…bằng việc kết hợp sử dụng các hình ảnh, đường nét,
màu sắc, chữ viết.
Cần phân biệt cho HS thấy rõ được sự khác nhau giữa BĐTD với sơ đồ
hệ thống hóa kiến thức mà trước đây GV vẫn thường dạy các em.
Sử dụng Sơ đồ hệ thống hóa kiến thức thì HS vẫn là người thụ động, vì
GV là người vẽ sẵn, cung cấp kiến thức sẵn, HS chỉ là người ghi chép, vẽ lại,
không phát huy được tính chủ động, tích cực của các em.
BĐTD là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng
việc kết hợp nét vẽ, màu sắc và chữ viết. Đặc biệt, đây là một bản đồ mở, việc
thiết kế BĐTD bằng việc cung cấp các từ khóa theo cấp bậc, các câu hỏi gợi ý
và bằng sự hiểu biết, kiến thức, kỹ năng của mình, HS hoàn thiện một BĐTD
theo ý thích của cá nhân chứ không theo sự áp đặt, có sẵn của GV như dạng sơ
đồ hóa kiến thức.
Hơn nữa, với việc thiết kế BĐTD, HS được phát huy tối đa sự sáng tạo
của mình, đặc biệt là các em được vẽ, được tô màu sắc theo những ý tưởng của
riêng cá nhân vì thế các em rất yêu thích, tích cực, chủ động hơn.
BĐTD có những ưu điểm sau : Lôgic, mạch lạc. Trực quan, dễ nhìn, dễ
hiểu, dễ nhớ. Các em có thể nhìn thấy “bức tranh tổng thể mà lại chi tiết”. Vì thế
cũng dễ dạy, dễ học hơn. Hơn nữa nó sẽ kích thích hứng thú học tập và sáng tạo
của HS. Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức. Giúp hệ thống hóa kiến thức,
ôn tập kiến thức. Giúp ghi nhớ nhanh , nhớ sâu, nhớ lâu kiến thức. Giúp phân
tích, so sánh, tổng hợp nắm được vấn đề. So sánh được các vấn đề trong cùng
6



một hệ thống kiến thức. BĐTD có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở
vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế BĐTD trên giấy, bìa,
bảng phụ,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD.
Với những ưu điểm trên, BĐTD sẽ giúp HS:
BĐTD giúp HS học được phương pháp học:
Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, HS sẽ học được phương pháp học,
tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD- giúp HS học tập một cách tích cực: HS học tập một cách tích
cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Các em sẽ khắc sâu và nhớ lâu, nắm
vững kiến thức hơn.
BĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. HS biết chọn lọc thông tin, từ ngữ,
sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sẽ giúp HS dần
dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
Đối với môn Văn, BĐTD có thể áp dụng được vào cả 3 phân môn:
Với phân môn Tập làm văn, HS có thể sử dụng BĐTD để hệ thống kiến
thức của một kiểu văn bản, một vấn đề hay để lập dàn ý cho một đề văn cụ thể,
kiến thức được hệ thống theo mạch logic, HS sẽ nhớ lâu hơn.
Ví dụ: Khi học tiết Ôn tập văn miêu tả ( tiết 119), GV có thể yêu cầu HS
chuẩn bị trước BĐTD về văn miêu tả với các từ khóa nội dung chính.
Với phân môn Văn học, HS có thể sử dụng BĐTD để hệ thống kiến thức
toàn bài học theo những ký hiệu, màu sắc mình yêu thích, hay để hệ thống một
vấn đề, một nhân vật, một thể loại văn học, phần tổng kết, luyện tập… từ đó
giúp HS khắc sâu nội dung bài học hơn. Ví dụ, sau khi học xong đoạn trích “
Bài học đường đời đầu tiên” ( trích “ Dế Mèn phiêu lưu kí” – Tô Hoài, tiết
73,74) GV có thể hướng dẫn HS vẽ BĐTD phần tổng kết theo những gợi ý về
nội dung và nghệ thuật:

7



Với phân môn Tiếng Việt, HS có thể sử dụng BĐTD để hệ thống hóa các
vấn đề kiến thức liên quan với nhau sau khi học xong một bài hoặc nhiều bài. Ví
dụ, sau khi học xong bài Cụm danh từ ( tiết 44), GV đưa ra các từ khóa và yêu
cầu HS vẽ BĐTD về cụm danh từ.

Bên cạnh đó, một ưu điểm nổi bật nữa của BĐTD là có thể áp dụng cho
mọi đối tượng HS:
- Đối với HS Trung bình, yếu: BĐTD sẽ tập cho các em có thói quen tự
ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã học, đã đọc theo cách hiểu của
các em theo dạng BĐTD.
- Đối với HS Khá, Giỏi: HS có thể sử dụng BĐTD để tìm chiến lược
giải quyết một vấn đề, hay tìm những hướng khác nhau để giải quyết một vấn đề
khó dưới hình thức hoạt động nhóm.

8


Có thể thấy, sử dụng BĐTD trong dạy học là một trong những biện pháp
hữu hiệu giúp HS có phương pháp học tốt nhất để nâng cao chất lượng dạy và
học môn Văn lớp 6
3.2. Cho học sinh làm quen với bản đồ tư duy và hướng dẫn học sinh
cách vẽ bản đồ tư duy.
3.2.1. Cho HS làm quen với BĐTD:
Để giúp HS có thể hình dung một cách cụ thể, rõ ràng BĐTD là gì, tại sao
lại có hiệu quả như vậy, cách vẽ như thế nào, cho HS làm quen dưới các hình
thức sau:
- Giới thiệu cho HS một số đoạn phim ngắn có sử dụng BĐTD qua máy
chiếu của nhà trường.
- GV vẽ trực tiếp một BĐTD lên bảng để HS trực tiếp quan sát, hình
dung, sau đó thuyết trình từng bước vẽ BĐTD để giúp các em hiểu kỹ hơn.

HS rất thích thú khi được quan sát trực tiếp, các em rất hào hứng với kỹ
thuật dạy học này.
3.2.2. Các bước vẽ một BĐTD:
Bước 1 : Vẽ chủ đề ở trung tâm.( Từ khóa)
- Bước đầu tiên trong việc tạo ra một BĐTD là vẽ chủ đề ở trung tâm trên
một mảnh giấy .
- Cách vẽ: Vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác. Có thể
tự do sử dụng tất cả màu sắc mà HS thích. Không nên che chắn mất hình vẽ chủ
đề vì chủ đề cần được làm nổi bật, dễ nhớ. Có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ
chủ đề nếu chủ đề không rõ ràng.
Bước 2 : Vẽ thêm các tiêu đề phụ.
- Bước tiếp theo là vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm.
- Cách vẽ : Tiêu đề phụ nên được viết bằng CHỮ IN HOA, hoặc chữ
thường nhưng với cỡ chữ to hơn bình thường nằm trên các nhánh dày để làm nổi
bật. Tiêu đề phụ nên được vẽ gắn liền với trung tâm. Tiêu đề phụ nên được vẽ
theo hướng chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một cách dễ
dàng.
Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ, vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ.
- Cách vẽ : Chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh. Bất cứ lúc nào có
thể, hãy dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời
gian.
- Mỗi từ khóa - hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc nên chỉ có tối đa một từ khóa. Chúng ta thay đổi màu sắc
khi đi từ một ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
Bước 4 : Ở bước cuối cùng này, hãy để trí tưởng tượng của HS bay
bổng.
- HS có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật,
cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ của HS tốt hơn.
Trong quá trình hướng dẫn HS các bước thực hiện, để có thể giúp HS vẽ
BĐTD hiệu quả, tôi đưa ra những gợi ý:


9


Sử dụng những từ ngữ đơn giản thể hiện thông tin: Những từ dư thừa chỉ
làm bản đồ lộn xộn. Khi viết chữ in không nên viết dính nhau hoặc không rõ
ràng sẽ khó đọc.
Sử dụng màu sắc để tách các ý khác nhau: Nó giúp HS làm bản đồ trực
quan hơn để gợi nhớ lại.
Lưu ý: không được quá chú trọng đến vẽ, tô màu dễ làm mất nhiều thời
gian, không được tô qúa đậm, quá nổi bật làm mờ đi phần ghi kiến thức.
Sử dụng những ký hiệu và hình ảnh:. Hình ảnh có thể giúp HS nhớ thông
tin hiệu quả hơn là từ ngữ.
Sử dụng liên kết đan chéo: Thông tin trong một phần của bản đồ có thể liên
quan đến phần khác. Khi đó, HS có thể vẽ những đường thẳng để chỉ ra sự liên
quan đan chéo. Việc sắp xếp các nhánh vẽ phải theo trình tự, khoa học, logic.
BĐTD của HS là tài sản riêng của HS: một khi HS hiểu cách tạo ra những
ghi chú trong BĐTD, HS có thể phát huy các quy tắc của riêng mình để làm cho
nó tốt hơn.
3.2.3 Cách ghi ghép trên BĐTD:
* Cách ghi chép trên BĐTD:
- Nghĩ trước khi viết. Viết ngắn gọn ( lược bỏ các từ dư thừa để làm nổi bật
thông tin chính, thông tin được nhanh hơn)
- Viết có tổ chức. Viết lại theo ý của mình, nên để khoảng trống để có thể bổ
sung ý (nếu sau này cần)
* Điều cần tránh khi ghi chép trên BĐTD:
- Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng, ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không
cần thiết. Dành quá nhiều thời gian để ghi chép.
3.3. Áp dụng BĐTD vào trong dạy – học.
3.3.1. Lập BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ:

Thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5 – 7 phút, nên yêu cầu
của GV thường không quá khó, mà thường chỉ yêu cầu HS tái hiện một phần
kiến thức bằng cách đặt câu hỏi, gọi HS lên bảng. Cách làm này vô tình có thể
để nhiều HS rơi vào tình trạng học vẹt, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài,
không nắm được bản chất của vấn đề, cũng như chưa hệ thống.
Cần thay đổi cách kiểm tra, đánh giá nhận thức của HS, không chỉ kiểm
tra phần nhớ, mà còn cần kiểm tra cả phần hiểu của các em, nhất là đối tượng
HS như lớp 6, nếu không sẽ hình thành phương pháp học không tốt ở các em.
Sử dụng BĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của
HS đối với bài học cũ. Các BĐTD thường được GV sử dụng ở dạng thiếu thông
tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ
của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Khi dạy bài So sánh( tiết
86, tiếp theo), trước khi vào dạy bài mới, GV có thể kiểm tra bài cũ về so sánh
dưới dạng cung cấp các từ khóa, yêu cầu HS điền thông tin kiến thức hoàn thành
BĐTD về so sánh dưới dạng:

10


Điều đặc biệt khi tiến hành kiểm tra bài cũ dạng này nó có nhiêu ưu thế
hơn so với dạng kiểm tra bài cũ truyền thống là:
Nếu kiểm tra bài cũ cách truyền thống, thường GV nêu câu hỏi, HS lên
bảng trả lời, còn HS ở dưới lắng nghe, nhận xét, góp ý. GV chỉ có thế kiểm tra
một, hoặc một số HS, còn những HS khác, sẽ không có thời gian kiểm tra. Với
cách kiểm tra thông minh này, GV có thể kiểm tra được tất cả HS khi yêu cầu
HS lập BĐTD tại chỗ, GV kiểm tra xác xuất một số HS, sau đó cùng các HS ấy
kiểm tra cả lớp. Vì thế, HS sẽ không còn thói quen ỷ lại, mà phải chủ động, tự
giác học, đồng thời phát huy được tính cách trung thực, độc lập ở các em, giúp
các em hoàn thiện nhân cách của mình. Hơn nữa, việc học bằng BĐTD đã giúp
HS có cách ghi nhớ kiến thức nhanh, nhớ lâu, nên khi đã quen cách học này, các

em không còn thấy khó khăn trong việc ghi nhớ, tìm hiểu kiến thức nữa, các em
đã chủ động hơn trong học bài cũ, các em không chỉ học để cô giáo kiểm tra, mà
học để ghi nhớ và hiểu sâu kiến thức theo một hệ thống hơn.
3.3.2. Lập BĐTD trong việc dạy kiến thức mới:
Sử dụng BĐTD là một gợi ý cho cách trình bày mới. GV thay vì gạch đầu
dòng các ý cần trình bày lên bảng, với sự sắp xếp các đề mục có phần cứng
nhắc, khô khan, thì có thể thay bằng cách trình bày với các đường nét, màu sắc
trực quan, sẽ lôi cuốn, hấp dẫn HS vào bài mới hơn, nhất là đối tượng HS lớp 6.
GV có thể sử dụng BĐTD hỗ trợ hình thành kiến thức mới ( một phần hoặc
cả bài). Mục tiêu bài học được cô đọng trong một từ khóa hay một hình ảnh đặt
ở trung tâm. Hoặc GV tự lập BĐTD, hoặc GV hướng dẫn HS lần lượt vẽ các
nhánh của bản đổ tư duy theo tiến trình hình thành kiến thức bài học mới, kết
hợp với các phương pháp: trực quan, thảo luận nhóm, gợi mở, vấn đáp…để giúp
HS tự khám phá kiến thức mới. Từ mỗi nhánh lại triển khai ra các nhánh phụ và
mỗi nhánh phụ lại đi sâu vào những kiến thức mới và cụ thể hơn. Qua BĐTD
này, HS vừa nhìn thấy bức tranh tổng thể về kiến thức, vừa học dễ dàng.
Ví dụ: Với văn bản: Thầy bói xem voi ( tiết 40)
Đầu tiên, GV đưa ra từ khóa Thầy bói xem voi ở giữa bảng, sau đó GV
vẽ các nhánh tiếp theo với các từ khóa nhánh 1, rồi nhánh 2….GV sử dụng hệ
thống câu hỏi để HS chủ động tìm tòi kiến thức, tư duy logic, phân tích, khái
quát để trả lời và sau đó điền thông tin kiến thức vào từng nhánh. Ví dụ, với từ
khóa Hoàn cảnh xem voi, GV đặt câu hỏi: năm ông thầy bói xem voi trong hoàn
11


cảnh như thế nào, điều gì đáng lưu ý về năm ông thầy bói này? ( đều bị mù, vậy
sẽ xem voi bằng cách nào?)…Hay với nhánh Cách xem, GV đặt câu hỏi, năm
ông thầy bói xem voi bằng cách nào? Cách xem này có gì đặc biệt?...Tương tự
với các nhánh từ khóa tiếp theo, để có thể hoàn thiện được mô hình BĐTD của
bài học, GV sử dụng hệ thống câu hỏi định hướng để khai thác kiến thức của bài


Lưu ý khi đặt câu hỏi cho HS trả lời : GV nên hỏi những câu liên quan
đến sự thông hiểu để HS vận dụng khi làm bài bài kiểm tra. Khi HS trả lời, GV
nên động viên khuyến khích và có thể hỏi tiếp những câu có liên quan đến kiến
thức của bài học cũ để HS vừa học kiến thức mới, vừa ôn tập kiến thức đã học.
3.3.3. Lập BĐTD trong việc củng cố kiến thức:
Có thể sử dụng BĐTD để củng cố một nội dung của bài học hoặc củng cố
cả bài. Sau mỗi bài học, GV hướng dẫn, gợi ý để HS tự hệ thống kiến thức trọng
tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ
kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các
em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Ví dụ: Tiết 73,74: Bài học đường đời đầu tiên, GV có thể yêu cầu HS vẽ
BĐTD về nhân vật Dế Mèn để hệ thống kiến thức về nhân vật này.

12


3.3.4. Lập BĐTD trong bài ôn tập:
Trước đây, các tiết ôn tập một số GV cũng đã lập bảng hệ thống, vẽ sơ đồ…và
cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ
không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu
đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét.
Với thế mạnh của BĐTD là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ,
các đường nối, là sự diễn tả mạch logic kiến thức hoặc các mối quan hệ, cộng
thêm màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp HS
nhìn thấy bức tranh tổng thể cả một phần kiến thức đã học.
Vì thế, với các tiết ôn tập, để hệ thống hóa kiến thức một cách dễ dàng,
khoa học, GV có thể sử dụng BĐTD. Có nhiều cách để xây dựng BĐTD:
+ Thông thường, GV cho một số câu hỏi và bài tập để HS chuẩn bị ở nhà.
Tiết ôn tập, GV hướng dẫn HS tự lập BĐTD, sau đó cho HS trao đổi kết quả với

nhau và sau cùng đối chiếu với BĐTD do GV lập ra. Từng em có thể bổ sung
hay sửa lại BĐTD của mình và coi đó là tài liệu của chính mình.
+ GV có thể cho HS tự lập BĐTD bài ôn tập, coi đó là một bài tập cần
thực hiện, sau đó, GV thu lại, phân loại, nhận xét, đánh giá và giới thiệu một số
BĐTD tương đối hợp lí và đẹp, đúng, khoa học để lớp tham khảo.
Ví dụ bài: Ôn tập Tiếng Việt ( tiết 66)
13


+ Cách khác: GV lập BĐTD mở. Trong giờ ôn tập, GV chỉ vẽ một số
nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu ( hoặc thừa) thông tin…GV
yêu cầu HS tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin, để cuối cùng toàn lớp lập được
một BĐTD ôn tập.
Ví dụ: Bài Ôn tập truyện dân gian ( tiết 54, 55), bài này 2 tiết: Tiết 1,
GV cho HS thực hiện hoạt động cá nhân với nhánh thứ nhất về các thể loại
truyện dân gian đã học. Sau đó cho các nhóm hoạt động nhánh 2: đặc điểm nổi
bật của các thể loại truyện dân gian đã học, đại diện các nhóm trình bày.
Tiết 2: GV cho HS hoạt động nhóm nhánh 3: so sánh giữa các thể loại. Sau đó
cho HS hoạt động cá nhân nhánh 4: hoạt động ngoại khóa kể hoặc sáng tác kết
truyện cho một số truyện dân gian đã học.

Cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của HS ( suy nghĩ nhiều hơn, tranh
luận nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn) và giờ ôn tập sẽ chất lượng hơn, sôi nổi hơn
và hào hứng hơn.
+ Cách khác: Chia nhóm và từng nhóm lập BĐTD. Sau đó các nhóm lên
trình bày, các nhóm khác nhận xét về các mặt: nội dung cơ bản kiến thức trong
bài đã đủ chưa, còn sót kiến thức không? Cách trình bày đã hợp lí chưa, vị trí
các thông tin như thế nào? Cấu trúc, màu sắc, nhìn tổng thể có hợp lí và hấp dẫn
không…. Ví dụ như bài: Ôn tập truyện và kí ( tiết 117)
Có thể thấy, sử dụng BĐTD trong dạy các tiết ôn tập, tiết học sẽ nhẹ nhàng

hơn, HS dễ tiếp thu kiến thức và khắc sâu hơn.
3.3.5. Lập BĐTD để tổng hợp kiến thức nhiều bài học.
Dùng BĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin nhỏ đến lớn và rất lớn. Vì
thế, GV và HS có thể thể hiện một phần nội dung bài học hoặc kiến thức của
nhiều bài học khác nhau. Ở đây, yêu cầu là các nội dung kiến thức này có điểm
chung với nhau, có mối quan hệ với nhau thông qua từ khóa.
14


Ví dụ: sau khi học xong về cụm tính từ ( tiết 63, Tính từ và cụm tính từ)
HS có thể vẽ BĐTD về các loại cụm từ tiếng Việt để hệ thống kiến thức, có sự
so sánh, nhận diện dễ dàng các cụm từ, giúp việc vận dụng tốt hơn:

3.3.6. Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà:
Vì làm bài tập ở nhà sẽ có nhiều thời gian hơn và điều kiện để tham khảo
các tài liệu có liên quan hơn nên bài tập mà GV giao cho HS ( hoặc nhóm HS)
trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép, phù hợp
với đối tượng HS. Yêu cầu bài tập về nhà cũng cần khó và phức tạp hơn, đòi hỏi
sự đầu tư hơn, tính sáng tạo, tích cực của HS.
15


Ví dụ: Sau khi học xong một thể loại văn học dân gian, GV có thể yêu cầu
HS vẽ lại bản đồ về thể loại văn học dân gian đó, như: truyền thuyết, cổ tích,
truyện ngụ ngôn, truyện cười về khái niệm, ý nghĩa các truyện đã học…Hay sau
khi học xong một tác phẩm văn học, GV giao bài tập về nhà yêu cầu HS vẽ lại
BĐTD bài học đó theo cách trình bày, cách hiểu của mình. GV có thể cung cấp
cho HS các từ khóa, HS về nhà điền thông tin. Sau đó, GV thu, có thể yêu cầu
HS thuyết trình trước lớp, lớp nhận xét, bổ sung, sửa chữa và hoàn thiện nội
dung kiến thức.

Ví dụ: GV ra bài tập: em hãy lập dàn ý chi tiết cho đề bài sau: hãy tả lại
một tiết viết bài kiểm tra văn trên lớp. GV cung cấp từ khóa và một số thông
tin, yêu cầu HS về bổ sung, hoàn thiện…

3.3.7. Sử dụng BĐTD trong kiểm tra, đánh giá HS.
Ngoài việc sử dụng BĐTD trong các tiết dạy, GV cũng có thể sử dụng
BĐTD trong các bài kiểm tra, có thể là kiểm tra 15 phút hay kiểm tra 1 tiết, 2
tiết, ở dạng 2 đến 3 điểm, yêu cầu HS hệ thống một nội dung kiến thức, trong đó
chú trọng đến cả tái hiện, thông hiểu và vận dụng.
Ví dụ: đề kiểm tra 15 phút, 2 điểm: Em hãy vẽ BĐTD cụm danh từ, điền
cụm danh từ sau: Tất cả những bạn HS giỏi ấy vào mô hình câu tạo cụm
danh từ.
Đề kiểm tra 2 tiết, kiểm tra văn, tiết 27, 28: (2 điểm) Em hãy vẽ BĐTD về
khái niệm truyền thuyết, các truyện đã học, nêu ý nghĩa của truyền thuyết
Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Có thể thấy, sử dụng BĐTD trong dạy học môn Văn lớp 6 bước đầu tạo một
không khí sôi nổi, hào hứng của cả GV và HS trong các hoạt động dạy học của
nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực”.
3.4. Tiết dạy thực nghiệm:
Ngày dạy: Lớp 6A: 7 / 11 /2016
Lớp 6B: 9 / 11 /2016
16


Tiết 43:

CỤM DANH TỪ

I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU

1. Kiến thức:
- Nghĩa của cụm danh từ.
- Chức năng ngữ pháp của cụm danh từ.
- Cấu tạo đầy đủ của cụm danh từ.
- Ý nghĩa của phụ ngữ trước và phụ ngữ sau trong cụm danh từ.
2.Kĩ năng:
- Nhận biết cụm danh từ.
- Sử dụng bản đồ tư duy trong nhận biết và ghi nhớ đặc điểm cụm danh từ.
3.Thái độ: Giáo dục HS ý thức tôn trọng và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt
II. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN:
- Phương Pháp: Vấn đáp, thảo luận nhóm…
- Phương tiện: Lap top, Máy chiếu, bảng phụ, phiếu học tập…
III. CHUẨN BỊ:
1.Giáo viên: Soạn bài, chuẩn bị tài liệu có liên quan
2. Học sinh: soạn bài trước ở nhà
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1.Ổn định lớp:
2.Kiểm tra bài cũ:
Câu 1 : Thế nào là danh từ chung, danh từ riêng ? Cho ví dụ cụ thể ?
Câu 2 : Nêu cách viết danh từ riêng ? Cho ví dụ ?
3. Bài mới : Hoạt động 1: Khởi động:Trong câu, danh từ thường kết hợp với từ
chỉ số lượng phía trước và một số từ ngữ khác ở phía sau để tạo thành cụm danh
từ . Vậy cụm danh từ có những đặc điểm gì ? Bài học hôm nay sẽ giúp các em
hiểu về cụm danh từ .
Hoạt động của Gv-Hs
Hoạt động 2:Hình thành kiến thức.
GọI HS đọc ví dụ/sgk
a. Hai vợ chồng ông lão đánh cá .
- Một túp lều nát trên bờ biển => cụm
danh từ

? Các từ in đậm trong câu đó bổ sung
nghĩa cho những từ nào?
? Những từ bổ sung nghĩa ấy cùng vớI
từ in đậm tạo thành gì?
? Trong cụm danh từ đó, những từ in
đậm đóng vai trò gì trong cụm từ? Còn
những từ bổ nghĩa cho những từ trung
tâm đó được gọi là phần gì?
- GV đưa ví dụ 2 lên bảng phụ
túp lều / một túp lều
một túp lều / một túp lều nát

Nội dung kiến thức
I – Cụm Danh từ là gì?
1- Ví dụ: sgk/116
2- Nhận xét:
Ngày xưa, có hai vợ chồng ông lão
đánh Cá ở với nhau trong một túp lều
nát trên bờ
(Ông lão…cá vàng)
a. – Từ trung tâm: ngày, vợ chồng, túp
lều
- Phụ ngữ: xưa, hai, ông lão đánh cá,
một, nát, bờ biển.
=>Cụm danh từ là tổ hợp từ do danh từ
và một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo
thành.
17



một túp lều nát / một túp lều nát trên
bờ biển.
Thảo luận nhanh:1p
Tích hợp kĩ năng sống
? Cho DT trung tâm “Học sinh”.
Tìm thêm những từ ngữ bổ nghĩa tạo
thành cụm DT?
. Học sinh / học giỏi
- Học sinh lớp sáu/ học rất giỏi
? So sánh nghĩa của cụm danh từ với
nghĩa của một danh từ?
?Nghĩa của phần nào rõ hơn?
? Nó có cấu tạo như thế nào?
? Khi số lượng của phụ ngữ càng tăng,
càng phức tạp thì nghĩa của cụm từ
như thế nào?
Hs đọc ghi nhớ:
- GọI HS đọc ví dụ 1 phần 2.
? Tìm các cụm danh từ?
? Trong các cụm danh từ đó, từ nào là
danh từ trung tâm? Liệt kê các từ ngữ
phụ thuộc đứng trước và sau danh từ
trong cụm đó?
? Vậy, Cấu tạo của cụm danh từ gồm
mấy phần? Đó là những phần nào?
? Điền chúng vào mô hình cụm danh
từ?
Hs lên bảng điền vào mô hình cụm
danh từ:


b. So sánh:
- Nghĩa của cụm DT đầy đủ hơn nghĩa
của một DT.
- Số lượng phụ ngữ càng tăng thì nghĩa
cụm DT càng đầy đủ.
* Ghi nhớ: sgk/117
II - Cấu tạo của cụm DT
1- Ví dụ: sgk/117
2- Nhận xét:
a. Các Cụm DT: Làng ấy, ba tháng gạo
nếp, ba con Trâu đực, ba con Trâu ấy,
chín con, năm sau, cả làng.
b. - Phụ trước: Ba, chín, cả
- phụ sau: Ấy, nếp, đực , sau

Mô hình cụm Danh từ
Phần trước
Phần trung tâm
Phần sau
T1
T2
T1
T2
s1
s2
làng
ấy
ba
thúng
gạo

nếp
ba
con
trâu
đực
ba
con
trâu
ấy
chín
con
năm
sau
Tất cả
những
em
học
chăm
ấy
sinh
ngoan
*Ghi nhớ (tr.118)
Hs đọc ghi nhớ.
=> Gv lưu ý cấu tạo của cụm danh từ có
thể đầy đủ ba phần,có thể vắng mặt phần
18


trước hoặc phần sau,nhưng phần trung
tâm bao giờ cũng phải có.

Vẽ sơ đồ tư duy khái quát nội dung
bài cụm danh từ?

Hoạt động 3: Thực hành
Tổ chức thảo luận nhóm
- Đại diện trình bày kết quả
- Nhóm khác nhận xét, bổ xung

Phần trước
T1
T2
Một
Một
Một
ba

III - Luyện tập:
Bài tập 1: Các cụm danh từ
a) Một người chồng thật
xứng đáng
b) Một lưỡi Búa của cha để
lại
c) Một con yêu tinh ở trên
núi, có nhiều phép lạ
Bài 2: Chép các cụm danh từ
vào mô hình cụm danh từ

Phần trung tâm
T1
T2

người
chồng
lưỡi
con
con

búa
yêu
tinh
trâu

Phần sau
s1
s2
thật xứng
đáng
của cha
ở trên núi
đực
19


Ba
Cả

thúng

gạo
làng
làng


nếp
ấy

Bài tập 3/118: Điền các từ theo thứ tự: Ấy, vừa rồi, cũ
4.Củng cố:
- Thế nào là cụm danh từ ? Cho ví dụ ? Cấu tạo của cụm danh từ như thế
nào ?
- Nhớ các đơn vị kiến thức về danh từ và cụm danh từ .
5.Hướng dẫn học bài:
- Tìm cụm danh từ trong một truyện ngụ ngôn đã học.
- Vẽ lại BĐTD về cụm danh từ.
- Đặt câu có sử dụng cụm danh từ , xác định cấu tạo cụm danh từ .
- Chuẩn bị bài ''Chân, tay, tai, mắt, miệng''
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Qua quá trình giảng dạy, áp dụng kỹ thuật dạy học tích cực bằng BĐTD
vào trong dạy học, tôi nhận thấy đây là một lựa chọn đúng đắn, phù hợp với HS,
nó thực sự đã giúp HS có phương pháp học phù hợp, có tính hiệu quả cao.
Các em đã biết cách ghi chép vấn đề một cách nhanh nhất, dễ nhớ nhất,
nhớ lâu nhất, biết hệ thống kiến thức theo cách riêng của mình, các em yêu
thích bộ môn Ngữ Văn hơn, hào hứng hơn trong các tiết học. Các em đã chủ
động, tích cực xây dựng bài trên lớp cũng như chuẩn bị bài cũ ở nhà bằng các
BĐTD theo ý thích, khả năng sáng tạo của mình. Các em hay có sự so sánh,
trao đổi, góp ý với nhau về các BĐTD kiến thức của mình, nhờ đó các em cũng
biết đoàn kết, yêu thương nhau hơn, đồng thời giúp bổ sung, hoàn thiện kiến
thức cho nhau. Từ chỗ biết cách học có hiệu quả môn Ngữ Văn, các em đã áp
dụng cách học này cho các môn học khác, nhờ đó không chỉ chất lượng môn
Văn, mà chất lượng giáo dục cũng được nâng cao, giảm dần tỉ lệ HS yếu kém,
tăng dần tỉ lệ HS khá giỏi.
Sau khi áp dụng, tôi thu được kết quả đáng mừng so với kết quả năm học

trước chưa áp dụng dạy học bằng BĐTD như sau:
Năm học 2015 – 2016: chưa áp dụng dạy học bằng BĐTD với lớp 6.
Tổng số
HS khối
6
6A: 35
HS
6B: 34
HS
Tổng :64

HS thích
học Văn
SL
%
16

45,7

17

50

33

51,5

Năm học 2015-2016
Giỏi
Khá

TB
Yếu
Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
25,
2 5,7 9
14 40 6 17,1 2 2,7
7
20,
52,
3 8,8 7
18
5 14,7 1 2,9
5
9
5 7,8 16 25 32 50 11 17 3 4,6
20


HS
Học kì I năm học 2016 – 2017: kết quả sau khi áp dụng dạy học bằng BĐTD
đối với lớp 6:
Tổng
số HS
khối 6
6A: 30
HS
6B: 30
HS
Tổng

60 HS

HS thích học
Văn
Giỏi
SL
%
SL %

Học kì I năm học 2016-2017
Khá
TB
Yếu
SL % SL % SL %

24

80

5

16,6 15

26

86,6

6

50


83,3

11 18,3 31

20

16

50
53,
3
51,
6

Kém
SL %

8

26,6

1

3,3

0

0


7

23,3

1

3,3

0

0

15

25

2

3,3

0

0

PHẦN BA: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm.
Vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng BĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác
như vấn đáp, gợi mở, thảo luận nhóm… có tính khả thi cao góp phần đổi mới

phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với lớp 6 ở cấp THCS, để từ đó các em có
cách học phù hợp, hiệu quả ở môn Ngữ Văn hay các môn học khác ở lớp 6 cũng
như ở các năm học tiếp theo.
Qua việc áp dụng thành công sáng kiến “Một số kinh nghiệm sử dụng
bản đồ tư duy để nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ Văn 6 ở Trường trung
học cơ sở Ái Thượng” tôi nhận thầy hiệu quả đạt được rất khả quan, tuy nhiên
trong quá trình thực nghiệm tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
+ Muốn áp dụng tốt kỹ thuật dạy học bằng BĐTD để giúp HS có phương
pháp học hiệu quả đối với môn Văn, trước hết người GV phải thực sự tâm huyết,
yêu thương, gần gũi và thân thiện với HS, giúp các em loại bỏ tâm lí ngỡ ngàng,
lo lắng, sợ hãi của HS đầu cấp, để các em thực sự thoải mái khi học, có thể vừa
học vừa chơi, vừa sáng tạo.
+ Phải xác định áp dụng BĐTD trong dạy học môn Ngữ văn lớp 6 là rất
hiệu quả, cần thiết, nhưng GV không nên quá lạm dụng, chỉ áp dụng được với
từng phần môn, từng bài, không nên áp dụng tràn lan, mà vẫn cần áp dụng các
kỹ thuật dạy học tích cực khác.
+ Ngoài ra, GV cũng cần giúp HS có kỹ năng trình bày tốt một vấn đề
dưới dạng một văn bản, các em là HS miền núi, vốn từ hạn chế, sách tài liệu
tham khảo ít, nhiều em không có vốn từ, không có khả năng diễn đạt, vì thế
ngoài trang bị giúp các em khả năng ghi nhớ, hiểu sâu vấn đề thì cũng cần giúp
các em biết cách trình bày vấn đề.
21


+ Khi áp dụng, ngoài việc yêu cầu HS vẽ BĐTD theo cách riêng của
mình, GV cũng cần hướng dẫn, gợi ý để đảm bảo sự hài hòa giữa hình thức với
nội dung. Với những BĐTD đẹp, đúng, khoa học, GV cần khuyến khích hoặc tổ
chức thi giữa các cá nhân, các nhóm, chấm, cho điểm để tạo hứng thú với các
em. Với những BĐTD được điểm cao, GV có thể chọn và treo ở góc học tập của
lớp, để các em có thể xem bất cứ lúc nào, nhờ đó các em có thể ôn tập kiến thức

dễ dàng dưới dạng vừa học vừa chơi.
+ Khi áp dụng, giáo viên cần phải dựa vào nội dung bài học, cơ sở vật
chất của nhà trường, HS, thời gian trong từng tiết học mà lựa chọn hoặc thiết kế
các BĐTD cho phù hợp.
+ BĐTD thực sự hiệu quả đối với phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn,
đối với phân môn Văn học, đối với các văn bản nghệ thuật, tư duy được thể hiện
trong các văn bản này là tư duy hình tượng, nên GV cần có sự cân nhắc, lựa
chọn áp dụng làm sao cho phù hợp, tránh sự suy diễn khô khan.
+ BĐTD chỉ là một trong số các kỹ thuật dạy học tích cực đem lại hiệu
quả cao trong dạy và học, nhưng nó không phải là tuyệt đối, vì thế cần áp dụng
linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực khác.
2. Đề xuất kiến nghị:
GV nên thường xuyên cho HS vẽ BĐTD để hình thành cách học hiệu quả
ở các em. Đây là một phương pháp học rất hiệu quả, nên áp dụng với các môn
học khác, vì thế tổ chuyên môn, nhà trường nên có những tiết dạy áp dụng kỹ
thuật này để GV trao đổi, học hỏi, rút kinh nghiệm, từ đó áp dụng làm sao đạt
hiệu quả cao nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã áp dụng thành công trong
thời gian dạy học môn Ngữ Văn lớp 6 ở trường THCS Ái Thượng vừa qua, tôi
xin được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất mong rằng sáng kiến kinh nghiệm
này sẽ được áp dụng và phổ biến rộng rãi để chất lượng giáo dục ngày càng
được nâng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài, chắc chắn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót và những ý kiến chủ quan, rất mong nhận được sự góp ý,
xây dựng của các cấp quản lý, các đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Ái Thượng, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Hằng

22



×