MỤC LỤC
Đề mục
Nội dung
I
1
2
3
4
5
II.
1
2
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………...
Lí do chọn đề tài……………………………………………………
Mục đích nghiên cứu……………………………………………….
Đối tượng nghiên cứu………………………………………………
Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...
Những điểm mới của SKKN……………………………………….
NỘI DUNG………………………………………………………...
Cơ sở lí luận………………………………………………………..
Thực trạng của vấn đề……………………………………………...
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề…………………….
Trang
1
2
2
2
2
2
3
3
3
4
5
3.1
Tìm và lựa chọn học sinh vào đội tuyển văn……………………….
5
3.2
Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi……………………………..
5
3.3
3.3.1
3.3.2
Xây dựng nội dung chương trình bồi dường học sinh giỏi………...
Phần Tiếng Việt…………………………………………………….
3.3.3
Phần Văn…………………………………………………………...
4
III.
1
2
Phần Tập làm văn………………………………………………….
Hiệu quả của sáng kiến……………………………………………..
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………………………………………….
Kết luận…………………………………………………………….
Kiến nghị…………………………………………………………...
5
6
11
12
17
18
18
18
I. MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài.
Xã hội ngày càng phát triển, con người cũng đòi hỏi ngày càng phải tiến bộ, phát
triển toàn diện để theo kịp thời đại. Bên cạnh việc am hiểu khoa học kĩ thuật hiện đại
tiên tiến, con người phải cảm nhận được cái hay, cái đẹp của cuộc sống. Để đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nhấn mạnh đến
nhiệm vụ của giáo dục trong giai đoạn hiện nay là phải đổi mới căn bản và toàn diện
diện giáo dục. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các nhà trường là phải quan
tâm đến việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằm đào tạo được những học sinh có đủ khả
1
năng, điều kiện tiếp thu những tiến bộ khoa học kĩ thuật tiên tiến, đồng thời nắm bắt
tốt những thay đổi, biến chuyển của xã hội .
Môn Ngữ văn là một trong những môn học quan trọng trong nhà trường phổ
thông, giúp học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống xã hội con người và thế
giới khách quan, hình thành cho học sinh kĩ năng nghe, nói, đọc viết và kĩ năng giao
tiếp trong cuộc sống. Môn học mang tính nghệ thuật cao nên khi giảng dạy về văn
học đòi hỏi người dạy phải phải có vốn kiến thức, vốn sống, sự nhạy cảm và quá
trình làm việc nghiêm túc, công phu. Giảng dạy và bồi dưỡng những kiến thức văn
học vừa mang tính qui luật, vừa mang tính xã hội nhưng cũng luôn luôn phải cập nhật
thực tiễn phục vụ cuộc sống để cuộc sống kiểm nghiệm và khẳng định. [1]
Cũng như các môn học khác để đào tạo một học sinh giỏi văn không phải là vấn
đề đơn giản. Muốn bồi dưỡng được một học sinh giỏi môn Ngữ văn đòi hỏi người
học phải có một tâm hồn nhạy cảm, có năng khiếu văn học và phải có một quá trình
học tập miệt mài, kiên nhẫn, có phương pháp học tập đúng đắn dưới sự dìu dắt,
hướng dẫn nhiệt tình và phương pháp giảng dạy hiệu quả của người thầy.
Tôi thiết nghĩ muốn có được kết quả cao trong kì thi học sinh giỏi môn Ngữ
Văn cấp tỉnh thì việc bồi dưỡng học sinh giỏi ở cấp cơ sở là nền tảng. Chính vì
vậy, là một giáo viên tâm huyết với nghề, với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi,
tôi rất băn khoăn trăn trở về vấn đề này. Sau nhiều năm suy nghĩ, vận dụng và đã
đạt được kết quả bước đầu, tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số kinh nghiệm trong
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8” với mong muốn trao đổi,
đúc rút kinh nghiệm, nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi của bản thân được tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nâng cao chất lượng học
sinh giỏi trong nhà trường nói chung, nâng cao chất lượng học sinh giỏi môn Ngữ
văn nói riêng. Nghiên cứu và thực hiện đề tài còn giúp nâng cao năng lực chuyên
môn, phương pháp sư phạm cho giáo viên. Có cơ hội trao đổi với đồng nghiệp để
học hỏi kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung, bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn nói riêng.
- Đề tài hướng đến giúp học sinh có phương pháp, cách thức trong quá trình ôn
luyện đội tuyển học sinh giỏi môn Ngữ văn.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Để thực hiện đề tài tôi đã lựa chọn đối tượng học sinh lớp 8 Trường THCS Vân
Du do tôi trực tiếp giảng dạy.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề trọng tâm của
chương trình ôn luyện, cụ thể là: Hướng dẫn học sinh nắm vững các dạng bài tập
Tiếng Việt, các tác phẩm Văn học, phương pháp làm các dạng bài phần Tập làm văn.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp tôi đã sử dụng:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, vận dụng thực hành.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp hướng dẫn thực hành, luyện viết là chủ yếu.
2
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Trong năm học 2016- 2017, tôi tiếp tục nghiên cứu và phát triển đề tài: “Một số
kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn”
- Những điểm mới so với đề tài tôi đã từng vận dụng:
+ Thay đối tượng áp dụng: Đề tài cũ tôi áp dụng đối với học sinh giỏi lớp 9, đề
tài này tôi áp dụng đối với đối tượng là học sinh giỏi lớp 8.
+ Thay đổi nội dung kiến thức: Trong đề tài cũ nội dung kiến thức bồi dưỡng
thuộc chương trình Ngữ văn lớp 9, đề tài này tôi xây dựng nội dung kiến thức
trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
+ Để đáp ứng đề thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh năm nay, tôi đã bổ sung bồi
dưỡng cho học sinh dạng bài nghị luận văn học có vận dụng yếu tố lí luận văn học.
II. NỘI DUNG
1- Cơ sở lí luận
Tại đại hội Đảng toàn quốc lần VIII và IX Đảng ta đã xác định và nhấn mạnh:
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu là một trong những động lực quan trọng tạo sự
chuyển biến toàn diện trong phát triển giáo dục và đào tạo”. Xuất phát từ quan điểm
chỉ đạo của Đảng về Giáo dục - Đào tạo, thực hiện chiến lược phát triển giáo dục
trong giai đoạn hiện nay, ngành giáo dục đang tích cực từng bước mới công tác quản
lý giáo dục, đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học, nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, hoàn thành mục tiêu: “Nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước.” Như vậy một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của các nhà trường hiện nay là phải phát hiện ra nhân tố, bồi
dưỡng nhân tài để phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đất nước. [2]
Môn Ngữ văn là bộ môn khoa học cơ bản góp phần rèn luyện cho học sinh tình
cảm thẩm mĩ, giáo dục những kĩ năng sống cơ bản đồng thời mang tính giáo dục để
mỗi con người trở nên hoàn thiện cả về trí tuệ lẫn tâm hồn. Bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Ngữ văn là góp phần phát hiện, đào tạo những nhân tài văn chương cho đất
nước, tạo tiền đề để đào tạo những công dân có ích sau này.
Trong công tác giáo dục, nâng cao chất lượng là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó bao
gồm bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu và nâng cao chất lượng đại trà.
Nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ song song tồn tại với hai nhiệm vụ
trên, được thực hiện trong suốt năm học ở tất cả các khối, các cấp học.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một quá trình lâu dài, bền bỉ. Đối tượng học sinh giỏi
là học sinh có năng khiếu văn chương, khả năng tiếp thu tốt, song cần hướng dẫn cho
các em con đường hình thành cảm xúc và kĩ năng viết bài. Đây là công việc đòi hỏi
người giáo viên nhất thiết phải có sự đầu tư, suy ngẫm, xây dựng phương pháp dạy và
học thật sự phù hợp thì kết quả mới được như mong muốn. Thực tiễn dạy học môn
Ngữ văn vốn gặp nhiều khó khăn, từ xu thế của xã hội đến tâm lí của học trò; từ đặc
trưng trừu tượng của môn học đến lượng kiến thức dài hơn môn học khác…Những
tác động khách quan đó đòi hỏi người thầy phải lao động nghiêm túc thì mới gặt hái
được thành công.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
Trước hết, ta thấy bộ môn Ngữ Văn là môn học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội,
môn học này có tính đặc thù riêng biệt, nó mang tính trừu tượng, đòi hỏi phải có tư
3
duy trừu tượng và cảm xúc, không giống bất kỳ môn học nào trong hệ thống chương
trình. Hơn thế nữa học tốt môn học này sẽ bổ trợ rất nhiều cho các môn học khác như
về kĩ năng giao tiếp, giáo dục giá trị sống, đạo đức xã hội. Thế nhưng để dạy và học
tốt môn học này không phải là vấn đề đơn giản, nó đòi hỏi cả người dạy lẫn người
học phải thực sự say mê, tâm huyết mới có thể truyền thụ và lĩnh hội được.
Đối với giáo viên: Qua trao đổi với một số đồng nghiệp tôi nhận thấy đa phần
các đồng chí giáo viên đang còn đang mơ hồ về phương pháp, cách thức bồi dưỡng
học sinh. Giáo viên còn dạy theo cảm hứng thích phần nào thì tập trung đi sâu vào
phần đó. Kiến thức của một số giáo viên chưa đủ sâu, rộng. Một số giáo viên thì mới
chỉ dừng lại ở việc cung cấp kiến thức cho học sinh, chưa chú trọng rèn luyện kỹ
năng làm bài của học sinh. Hơn nữa một số giáo viên chưa thật sự tâm huyết để đầu
tư thời gian và công sức trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Chính vì thế mà việc
bồi dưỡng học sinh giỏi của một số trường vẫn chưa đạt được kết quả như mong
muốn, thậm chí còn rất thấp.
Đối với học sinh: Để đáp ứng với xu thế thi cử hiện nay, học sinh phải học đều,
dàn trải tất cả các môn học để có kiến thức nền tảng nên thời gian dành cho một môn
học còn chưa nhiều. Hơn nữa vốn kiến thức xã hội của các em còn rất hạn chế do sự
va chạm với thực tiễn cuộc sống còn ít, nên khi gặp vấn đề đặt ra từ cuộc sống hằng
ngày các em còn núng túng. Văn hóa đọc của các em còn chưa được quan tâm. Các
em rất ít đọc những tác phẩm văn học hay, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc mà thay vào
đó các em thích đọc những truyện thám tử, truyện cười, truyện tranh chính vì thể mà
vốn kiến thức viết bài của các em còn chưa nhiều, sức viết ngắn. Tâm lí một số học
sinh hiện nay còn có tư tưởng ngại học văn vì cho rằng nó dài khó thuộc và chiếm
nhiều thời gian học hơn so với các môn học khác. Chính những nguyên nhân trên
khiến cho việc chọn các em vào đội tuyển Văn con bất cập.
Kết quả của thực trạng.
- Kết quả điều tra khảo sát thực tế về số lượng học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 so
với các môn học khác vào đầu năm học 2016-2017 tại trường THCS Vân Du như sau:
Lớp
Tổng số HSG Ngữ văn
HSG Toán
HSG Vật lí
HSG Hóa
SL
TL %
SL
TL % SL TL % SL
TL %
8A
30
1
3,3
5
16,6
5
16,6
3
10,0
8B
36
6
16,6
13
36,1
12
33,3
10
27,7
Tổng số
66
7
10,6
18
27,2
17
25,7
13
19,6
Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy, HS yêu thích và học giỏi môn Ngữ văn thấp
hơn nhiều so với các môn học khác, đặc biệt là các môn Toán, Lí, Hóa. Tuy nhiên,vẫn
còn một số em yêu thích học văn. Đây chính là động lực để các thầy cô giáo dạy văn
truyền tâm huyết cho công tác đào tạo nhân tài.
3. CÁC GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
3.1 Tìm và lựa chọn học sinh vào đội tuyển Văn.
Để lựa chọn những học sinh có năng khiếu văn vào đội tuyển Văn là một việc làm
khó, đòi hỏi người giáo viên phải hết sức khéo léo và có kinh nghiệm.
Trước tiên, phải chọn học sinh có khả năng học văn tốt, yêu thích môn Văn, có
sức viết tốt, biết phát hiện vấn đề, chữ viết đẹp.
4
Thứ hai giáo viên phải khơi gợi được tâm lý cho HS yêu thích môn văn, muốn có
được điều đó đòi hỏi người giáo viên trong qua trình giảng dạy có một sức hút, một
sự lôi cuốn thực sự. Sức hút ở người giáo viên dạy Văn là : phải có giọng đọc văn
hay, nội dung bài giảng phải có sức lôi cuốn thực sự để chạm tới lòng rung cảm của
các em, từ đó các em tìm đến môn văn để học. Hơn nữa người giáo viên dạy Văn phải
khơi được niềm đam mê học văn của các em, đây là một thành công việc lựa chọn
HSG đi thi học sinh giỏi môn Ngữ văn.
Thứ ba: Giáo viên phải tiếp cận với gia đình học sinh để giúp họ nhận thức sâu sa
và hiểu sự cần thiết của việc học môn Ngữ văn trong XH hiện nay để gia đình tạo
điều kiện thuận lợi nhất để học sinh được tham gia vào đội tuyển văn.
Thứ tư: Giáo viên cần gần gòi, sẻ chia những lo ngại, khó khăn trong cuộc sống
của các em, giúp các em có tâm thế thoải mái trong việc học văn.
3.2. Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi.
Chúng ta đã biết, bồi dưỡng học sinh giỏi là việc làm thường xuyên và lâu dài,
không phải ngày một ngày hai mà các em đi thi có thể đạt giải được. Xác định rõ điều
đó, ngay từ khi học sinh vào lớp 6 tôi đã thành lập đội tuyển và có kế hoạch bồi
dưỡng năng khiếu Văn cho các em. Đối với chương trình lớp 6: Nắm được các biện
pháp tu từ Tiếng Việt, tập trung vào rèn kĩ năng làm văn kể chuyện tưởng tượng, sáng
tạo, miêu tả sáng tạo. Lớp7, tôi tiếp tục rèn luyện kĩ năng làm bài phát hiện các biện
pháp tu từ Tiếng việt, tập trung bồi dưỡng cho các em kĩ năng làm bài văn biểu cảm,
văn nghị luận. Lớp 8, tôi tập trung củng cố kiến thức cơ bản, đào sâu kiến thức nâng
cao, rèn kĩ năng làm các dạng đề văn nghị luận… Bên cạnh đó, tôi thường xuyên
cung cấp và hướng dẫn cho HS ở các khối lớp những tài liệu BDHSG, những tác
phẩm văn chương hay, đọc mẫu những bài văn hay của học sinh giỏi các khóa trước,
trong các nguồn tài liệu.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được tiến hành từ lớp 6 cho đến hết lớp 9. Mỗi
khối lớp tôi đều tập trung bồi dưỡng những kiến thức trọng tâm, kiến thức nâng cao
tương ứng với khối lớp đó. Đặc biệt ở mỗi khối lớp tôi đều chú trọng đến khâu vận
dụng kiến thức đã học để rèn luyện kĩ năng viết bài, rèn kĩ năng phát hiện và cảm thụ
văn học.
3.3. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi.
Theo tôi, xây dựng nội dung chương trình là khâu quan trọng nhất trong quá
trình bồi dưỡng học sinh giỏi, khâu này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức sâu, rộng,
nắm vững kiến thức từng bài, từng kiểu bài, dạng bài.
3.3.1. PhÇn Tiếng Việt: Bên cạnh việc dạy cho học sinh nắm vững kiến thức trong
chương trình, tôi trọng tâm bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng làm bài tập phát hiện và
phân tích các biện pháp tu từ Tiếng Việt. Phát hiện và phân tích giá trị biểu cảm của
từ ngữ. Phát hiện và phân tích tác dụng của các loại dấu câu trong văn bản nghệ thuật.
*Dạng bài tập phát hiện và phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ:
Để học sinh làm tốt dạng bài tập này, trước tiên tôi củng cố kiến thức phần lí
thuyết để học sinh nắm vững đặc điểm, tác dụng của từng biện pháp tu từ. sau đó
hướng dẫn học sinh cách làm bài cụ thể.
Biện pháp tu
từ
Khái niệm
5
So sánh
Nhân hóa
Ẩn dụ
Hoán dụ
Điệp ngữ
Nói quá
Nói giảm,
nói tránh
Liệt kê
Chơi chữ
Là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương
đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt. So sánh sử
dụng nhiều trong văn miêu tả. biểu cảm…
Là gọi hoặc tả con vật, cây cố, đồ vật…bằng những từ ngữ vốn dùng
để gọi hoặc tả người: làm cho thể giới loài vật, cây cối, đồ vật trở
nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm
của con người.
Là gọi tên sự vật hiện tượng này bằng tên sự vật hiện tượng khác có
nét tương đồng với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn
đạt
Là gọi tên sự vật hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật hiện
tượng, khái niệm khác có mối quan hệ gần gũi nhằm tăng sức gợi
hình gợi cảm cho sự diễn đạt.
Điệp ngữ là biện pháp tu từ lặp đi lặp lại một từ, cụm từ nhằm nhấn
mạnh ý hay gây cảm xúc mạnh.
Là biện pháp tu từ phóng đại mức độ, qui mô, tính chất của sự vật,
hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh, gây ấn tượng, tăng sức biểu
cảm.
Là biện pháp tu từ dùng cách diễn đạt tế nhị, uyển chuyển, tránh
gây cảm giác đau buồn, ghê sợ, nặng nề ; tránh thô tục, thiếu lịch sự.
Là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại nhằm diễn tả
được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực
tế hay tư tưởng
Là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí
dỏm, hài hước…làm cho câu văn hấp dẫn, thú vị.
Sau khi học sinh đã nắm vững phần lí thuyết, tôi hướng dẫn học sinh làm dạng
bài tập về biện pháp tu từ Tiếng Việt. Đối với dạng bài tập về phát hiện và phân tích
tác dụng của các biện pháp tu từ Tiếng Việt tôi hướng dẫn cho học sinh các bước làm cụ thể:
Bước 1: Giới thiệu cảm xúc chung về đoạn thơ (đoạn văn) đó.
Bước 2: Phát hiện, gọi tên đầy đủ những biện pháp tu từ có từ đoạn thơ (đoạn văn)
chỉ rõ những từ ngữ thực biện pháp tu từ đó.
Bước 3: Phân tích được giá trị của các biện pháp tu từ .
Bước 4: Trình bày những nhận xét, đánh giá chung về tác dụng của các phép tu từ đã
được sử dụng trong đoạn thơ (đoạn văn) đó .
Ví dụ 1:
Xác định và phân tích giá trị biểu cảm của biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau:
“...Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
(Quê hương -Tế Hanh) [3]
Hướng dẫn HS cách làm bài:
- Giới thiệu: Câu thơ được trích trong bài thơ “ Quê hương” của Tế Hanh, miêu tả
hình ảnh con thuyền sau chuyến ra khơi. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật
nhân hóa chiếc thuyền “im”, “nằm”; bến “mỏi”; nghệ thuật ẩn dụ “ nghe”
6
- Phân tích tác dụng của từng phép tu từ:
+ Nghệ thuật nhân hóa giúp cho hình ảnh con thuyền như một con người cụ thể có
tâm hồn và những cảm xúc sâu lắng, gần gũi với cuộc sống lao động của người dân
làng chài. Tác giả không chỉ “thấy” con thuyền đang nằm im trên bến mà còn thấy sự
mệt mỏi, say sưa, còn “cảm thấy” con thuyền ấy như đang lắng nghe chất muối thấm
dần trong từng thớ vỏ của nó.
+ Nghệ thuật ẩn dụ chuyền đổi cảm giác làm cho hình ảnh con
thuyền như đang lắng nghe “chất muối”- hương vị mặn mòi
của biển như đang “ thấm dần trong thớ vỏ” của chính mình.
Hình ảnh tĩnh nhưng thực ra vẫn đang chuyển động. Con thuyền vô tri đã trở nên có
hồn, một tâm hồn rất tinh tế. Cũng như người dân chài, con thuyền lao động ấy thấm
đẫm vị muối mặn mòi của biển khơi.
-Tiểu kết: Từ các biện pháp tu từ, hình ảnh con thuyền “nghỉ ngơi” sau chuyến ra
khơi vất vả thực sự là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Nó là một biểu tượng đẹp của
làng chài, của những cuộc đời trải qua bao phong sương thử thách, bao dạn dày sóng
gió. Không có một tâm hồn tinh tế, tài hoa và nhất là nếu không có tấm lòng gắn bó
sâu nặng với con người cùng cuộc sống lao động làng chài quê hương thì không thể
có những câu thơ xuất thần như vậy.
Ví dụ 2: Hãy phân tích giá trị thẩm mĩ của các biện pháp nghệ thuật được sử
dụng trong khổ thơ sau:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”.
(Quê hương - Tế Hanh) [3]
Hướng dẫn cách làm bài:
- Giới thiệu khổ thơ.
- Gọi tên các biện pháp tu từ trong đoạn thơ: So sánh, nhân hóa.
- Phân tích tác dụng của từng biện pháp tu từ:
+ Tác giả sử dụng dụng biện pháp so sánh hùng tráng, bất ngờ ví “chiếc thuyền” như
“con tuấn mã” và cánh buồm như “mảnh hồn làng” đã tạo nên hình ảnh độc đáo; sự
vật như được thổi thêm linh hồn trở nên đẹp đẽ.
+ Phép so sánh đã gợi ra một vẻ đẹp bay bổng, mang ý nghĩa lớn lao thiêng liêng, vừa
thơ mộng, vừa hùng tráng. Cánh buồm còn được nhân hóa như một chàng trai lực
lưỡng đang “rướn” tấm thân vạm vỡ chống chọi với sóng gió.
+ Một loạt từ : Hăng, phăng, vượt... được diễn tả đầy ấn tượng khí thế hăng hái, dũng
mãnh của con thuyền ra khơi.
- Đánh giá: Việc kết hợp linh hoạt và độc đáo các biện pháp so sánh, nhân hóa , sử
dụng các động từ mạnh đã gợi ra trước mắt người đọc một phong cảch thiên nhiên
tươi sáng, vừa là bức tranh lao động đầy hứng khởi và dạt dào sức sống của người dân
làng chài.
Ví dụ 3: Xác định và nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được tác giả sử
dụng trong khổ thơ sau:
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
7
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm ;
Mực đọng trong nghiên sầu...
(Trích Ông đồ - Vũ Đình Liên) [4]
Hướng dẫn cách làm bài:
- Giới thiệu chung về đọan thơ: Đoạn thơ trên trích trong bài thơ Ông đồ của nhà thơ
Vũ Đình Liên đoạn thơ diễn tả tâm trạng của ông đồ khi bị mọi người xa lánh, lãng quên.
- Trong đoạn thơ tác giả sử dụng thành công các biện pháp tu từ: nhân hoá, câu hỏi tu từ.
- Phân tích tác dụng:
+ Câu hỏi tu từ: Người thuê viết nay đâu? Câu hỏi như một lời tự vấn lòng mình
nhằm diễn tả nỗi buồn trĩu nặng, nỗi xót xa trước sự lãng quên của người đời với ông đồ.
+ Phép nhân hóa: Giấy đỏ “buồn”, Mực đọng thành “nghiên sầu”
- Nêu được tác dụng:
Gợi không gian cảnh buồn vắng, tình cảnh ông đồ dần dần trở nên buồn chán. Người
buồn nên những vật dụng đã từng gắn bó thân thiết với cuộc đời ông đồ cũng sầu thảm
theo: giấy đỏ buồn, bẽ bàng không thắm, mực đọng lại bao sầu tủi trở thành nghiên sầu...
- Đánh giá: Nhờ sử dụng thành công các biện pháp tu từ nhân hóa, câu hỏi tu từ tác
giả đã làm nổi bật tình cảnh và nỗi buồn của ông đồ khi nền nho học bị bãi bỏ đồng
thời thể hiện niềm xót thương của tác giả trước tình cảnh của ông đồ.
*Dạng bài phát hiện và phân tích giá trị biểu cảm của từ ngữ.
Đối với dạng bài tập phát hiện và phân tích giá trị biểu cảm của từ ngữ đòi hỏi
học sinh phải hiểu và biết cách phân tích giá trị của từ ngữ trong văn cảnh cụ thể. Để
học sinh làm tốt loại bài tập này tôi đã cung cấp cho học sinh vốn kiến thức về từ,
cách cảm thụ vẻ đẹp của đoạn văn, đoạn thơ và các bước tiến hành viết bài. Cụ thể
học sinh cẫn nắm vững các bước sau:
Bước 1: Phải hiểu và giải thích đúng nghĩa của từ trong đoạn văn đoạn thơ đó.
Bước 2: Phải đặt từ ngữ đó vào trong văn cảnh, để thấy được giá trị của nó.
Bước 3: Phân tích, nêu rõ giá trị của từ đó trong văn cảnh.
Ví dụ1: Phân tích giá trị biểu đạt của các từ : già, xưa,
cũ trong những câu thơ sau:
- Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
- Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Trích Ông đồ- Vũ Đình
Liên)
Hướng dẫn cách làm bài:
Các từ già, xưa, cũ trong các câu thơ đã cho đều hướng tới một đối tượng : ông đồ.
+ Già- cao tuổi, vẫn sống- đang tồn tại.
+ Xưa – đã khuất – thời quá khứ trái nghĩa với nay.
+ Cũ – gần nghĩa với xưa, đối lập với mới - hiện tại.
8
- Ý nghĩa của các cách biểu đạt đó : Qua những từ này gợi cho người đọc cảm nhận
được sự biến đổi, vô thường, nỗi ngậm ngùi đầy thương cảm trước một lớp người
đang tàn tạ, lãng quên : ông đồ
Ví dụ 2: Phát hiện và phân tích giá trị của từ láy và các biện pháp tu từ trong đoạn thơ
sau:
Mẹ gom lại từng trái chín trong vườn
Rồi rong ruổi trên nẻo đường lặng lẽ
Ôi, những trái, na, hồng, ổi, thị….
Có ngọt ngào năm tháng mẹ chắt chiu!
(Lương Đình Khoa)
Hướng dẫn cách làm bài:
- Viết thành đoạn văn: Giới thiệu chung về đoạn thơ, đoạn thơ đã sử dụng thành công
biện pháp tu từ: Liệt kê và từ láy.Trước hết về từ láy “rong ruổi”: từ láy gợi hình ảnh
mẹ với gánh hàng trên vai trên chặng đường dài, gợi cuộc đời mẹ nhiều bươn trải, lo
toan. “Nẻo đường lặng lẽ”: liên tưởng đến hình ảnh con đường vắng lặng một mình mẹ
cô đơn với gánh hàng để kiếm sống nuôi con.“Ôi”, từ cảm thán : bộc lộ một cảm xúc
vừa ngỡ ngàng ,vừa thán phục. Nghệ thuật liệt kê: na, hồng, ổi, thị… những món quà
quê hương được chắt chiu từ bàn tay mẹ qua bao tháng năm.Vị ngọt từ những loài quả
được kết tinh từ những giọt mồ hôi rơi, từ bàn tay khéo léo, từ đức tảo tần hi sinh của
mẹ. Đoạn thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp thầm lặng của một bà mẹ chắt chiu, lam lũ. Đồng
thời nói lên sự cảm thông sẻ chia của đứa con với nỗi vất vả, nhọc nhằn của mẹ. [5]
* Dạng bài phát hiện và phân tích tác dụng của các loại dấu câu trong văn bản nghệ
thuật.
Dạng bài tập phát hiện và phân tích tác dụng của các loại dấu câu trong đoạn thơ, bài
thơ giúp giáo viên phát hiện năng khiếu cảm thụ thơ văn, đặc biệt là khả năng phát
hiện được những nét đặc sắc trong nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ của học sinh. Đối
với dạng bài tập này tương đối khó nếu các em không biết cách làm bài thì khi bắt
gặp dạng bài tập này trong đề thi thì hầu như các em không làm được, hoặc làm rất
lan man không đúng. Cho nên những dạng bài tập này bản thân tôi hay chú trọng và
rèn luyện nhiều cho các em.
Khi hướng dẫn học sinh làm dạng bài tập này tôi hướng dẫn học sinh viết dưới
dạng 1 đoạn văn và lần lượt đi theo các bước cụ thể như sau:
Bước 1: Giới thiệu câu thơ, cảm xúc chung trong câu thơ, đoạn thơ đó.
Bước 2: Phát hiện dấu câu dùng với dụng ý nghệ thuật.
Bước 3: Phân tích giá trị của việc sử dụng dấu câu đó trong việc diễn tả nội dung tư
tưởng của bài thơ, đoạn thơ.
Ví dụ 1: Phân tích vẻ đẹp của các yếu tố nghệ thuật trong khổ thơ sau:
" Con là lửa ấm quanh đời mẹ mãi
Con là trái xanh mùa gieo vãi
Mẹ nâng niu. Những giặc Mĩ đến nhà
Nắng đã chiều ...Vẫn muốn hắt tia xa ! "
( Trích :" Mẹ '' của Phạm Ngọc Cảnh )
9
Hướng dẫn học sinh cách làm bài: HS viết dưới dạng đoạn văn như sau.
Mẹ là bài thơ hay của nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, đoạn thơ ca ngợi vẻ đẹp của
ngươi mẹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong đoạn thơ tác giả sử dụng
thành công các biện pháp tu từ : so sáng, ẩn dụ, điệp từ và dấu chấm câu với dụng ý
nghệ thuật. Biện pháp so sánh : Con là lửa ấm quanh đời mẹ mãi đã nói lên rằng con
là nguồn sống ấm nóng xua đi những giá lạnh, tối tăm trong cuộc đời của mẹ, luôn
gần gũi, chở che bên mẹ. Tác giả so sánh: Con là trái xanh mùa gieo vãi, con là niềm
tin, hi vong trong cuộc đời mẹ. Tác giả so sánh “Con là lửa ấm, trái xanh” đã làm nổi
bật tình yêu của mẹ đối với con và ý nghĩa của con đối với cuộc sống của mẹ. Con
là cuộc sống, là tình yêu mà mẹ nâng niu giữ gìn. Điệp ngữ con là nhấn mạnh ý
nghĩa lớn lao của con với cuộc đời mẹ. Trong câu thơ thứ 3 tác giả sử dụng dấu chấm
ngắt câu thơ thành hai câu nó như bản lề khép lại hai thế giới. Một thế giới đầy tình
yêu thương của con và mẹ, một thế giới bình yên hạnh phúc. Giờ thế giới ấy đang bị
xáo trộn bởi “Giặc Mĩ đến nhà”. Dấu chấm ấy còn là phút lặng ngừng đau đớn trước
cảnh quê hương đang bị tàn phá nặng nề. Ngoài ra tác giả còn sử dụng phép ẩn dụ:
Nắng đã chiều, chỉ hình ảnh mẹ đã già, mong manh, yếu ớt. Hắt tia xa, vẫn muốn
đóng góp công sức của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hai hình
ảnh ẩn dụ thể hiện ước vọng, sự hi sinh lớn lao của mẹ. Vì đất nước mẹ sẵn sàng dâng
hiến cả cuộc sống, niềm tin, hi vọng, vật báu thiêng liêng nhất của cuộc đời là con
trai của mình cho đất nước. Bằng việc sử dụng các biện pháp tu từ, dấu chấm câu giữa
dòng thơ tác giả đã làm nổi bật hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng. [6]
Ví dụ 2: Phân tích ý nghĩa tu từ các dấu chấm nằm giữa các câu thơ trong câu thơ.
-“ Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi.”
- “ Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác rơi trên hai chữ Lên Nin ”
- “ Giặc nước đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát ”.
(Trích: “Người đi tìm hình của nước” - Chế Lan Viên) [4]
Hướng dẫn cách làm.
- Đây là những câu thơ hay trích trong văn bản "Người đi tìm hình của nước” của tác
giả Chế Lan Viên, những câu thơ này đều tập trung diễn tả cảm xúc dồn nén, nghẹn
nghèo của nhân vật trữ tình.Trong các câu thơ trên đều sử dụng dấu chấm câu đặc
biệt, dấu chấm đặt giữa dòng thơ, chia câu thơ thành 2 ý. Trường hợp thứ nhất dấu (.)
kết thúc 1 câu, ngắn gọn, mở đầu 1 câu có liên từ "nhưng" ở phía sau: Biểu hiện 1
tình cảm sâu lắng, thiết tha, 1 tâm trạng quyến luyến, 1 niềm nuối tiếc đến xót xa của
Bác khi đứng trên boong tàu rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước, đồng thời diễn
tả xúc động sâu xa của tác giả lúc thời khắc quan trọng này. Dấu (.) câu thứ 2 thể hiện
sự xúc động, niềm vui sướng của Bác khi bắt gặp, đọc luận cương của Lê Nin. Dấu
(.) câu 3 tạo ra dòng thơ có 2 câu liên tiếp như " tiếng reo dồn dập khi đất nước được
tự do, độc lập". Như vậy việc sử dụng dấu chấm đặt giữa 3 câu thơ trên là dạy ý như
trên của tác giả, tác giả muốn người đọc khi đọc đến đó có 1 nốt nhấn, thể hiện sự
nghẹn ngào khi bắt gặp cảm xúc dồn nén trong câu thơ.
3.3.2. Phần Văn
10
Khi bồi dưỡng cho học sinh kiến thức phần văn bản, tôi thường tập trung hướng
dẫn học sinh ôn tập theo giai đoạn văn học, chia theo chủ đề. Ôn luyện theo giai
đoạn, chủ đề học sinh dễ nhớ, dễ khắc sâu kiến thức. Đặc biệt khi gặp đề thi yêu cầu
viết về chủ đề gì học sinh nhận diện nhanh, định hướng cách làm bài không bị nhầm lẫn.
Phầnvăn bản lớp 8 tôi chia thành các giai đoạn, chủ đề lớn như sau:
Thứ nhất: Ôn luyện các tác phẩm truyện kí Việt Nam trước cách mạng. Phần này tập
trung làm nổi bật chủ đề người nông dân trước cách mạng tháng Tám 1945. Tôi hướng
dẫn học sinh khai thác về cuộc đời số phận của người nông dân và vẻ đẹp trong tâm
hồn họ. Vẻ đẹp của tình cảm gia đình, tình mẫu tử thiêng liêng cao đẹp, tình cảm vợ
chồng đằm thắm, tình cha con sâu nặng, tình cảm làng xóm láng giềng.
Ví dụ1: Phân tích vẻ đẹp của người nông dân qua tác phẩm Lão Hạc của nhà văn
Nam Cao. Tôi hướng dẫn học sinh cần làm nổi bật được cuộc đời, số phận của người
nông dân qua nhân vật Lão Hạc. Học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của người nông dân
giàu tình yêu thương, sống lương thiện, thủy chung, tình nghĩa, giàu lòng tự trọng.
Ví dụ 2: Qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ trong tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất
Tố em có suy nghĩ gì về vẻ đẹp của người phụ nữ nông dân qua nhân vật Chị Dậu. Để
làm tốt bài tập này tôi hướng dẫn học sinh nắm rõ về tình cảnh khốn cùng của chị
Dậu, chính trong hoàn cảnh khốn cùng đó vẻ đẹp của người phụ nữ nông dân được
bộc lộ rõ nét nhất.
Thứ hai: Ôn luyện các tác phẩm trong phong trào Thơ Mới. Phần này tôi giải thích
cho học sinh nắm được sự ra đời, đặc điểm của phong trào Thơ Mới. Các tác phẩm
giai đoạn này: Ông đồ của Vũ Đình Liên, Nhớ rừng của Thế Lữ, Quê Hương của tế
Hanh. Đến với các tác phẩm này tôi đã hướng dẫn học sinh nắm được nội dung chủ
yếu làm nổi bật được nỗi chán ghét thực tại tù túng, tình yêu quê hương tha thiết,
niềm khát khao tự do cháy bỏng của người dân yêu nước lúc bấy giờ.
Ví dụ: Qua bài thơ Quê hương của Tế Hanh học sinh cần cảm nhận được tình yêu
quê hương tha thiết của tác giả. Tình yêu quê hương được thể hiện qua cách nhà thơ
giới thiệu về quê hương mình, miêu tả cảnh lao động và sinh hoạt của người dân
làng chài, bộc bộ trực tiếp nỗi nhớ quê hương sâu nặng.
Thứ ba: Ôn luyện các tác phẩm thơ ca cách mạng Việt Nam. Các tác phẩm tiêu biểu
là Khi con tu hú của Tố Hữu, Tức cảnh Pác Bó, Ngắm Trăng, Đi Đường của Hồ
Chí Minh. Nội dung của các tác phẩm này tập trung thể hiện lòng yêu nước sâu sắc,
phong thái ung dung lạc quan cách mạng của người chiến sĩ trong hoàn cảnh tù đày.
Ví dụ: Đến với bài thơ Ngắm trăng của Bác, tôi hướng dẫn học sinh nắm được tình
yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác và phong thái ung dung lạc quan cách mạng của
người chiến sĩ trong hoàn cảnh tù đày.
Ngoài những định hướng trên, tôi lồng ghép và triển khai kiến thức từng văn bản cụ
thể ở phần Tập làm văn.
3.3.3. PhầnTập làm văn.
Phần Tập làm văn có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong cấu trúc của đề thi
học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Chính vì vậy trong quá trình bồi dưỡng học sinh
giỏi tôi dành nhiều thời lượng để hướng dẫn học sinh nắm vững cách thức làm bài ở
từng dạng bài cụ thể.
* Dạng bài nghị luận xã hội: Đối với dạng bài nghị luận xã hội, tôi đã hướng dẫn
cho các em nắm chắc kiến thức, bản chất của kiểu bài, cách thức làm bài. Dạng bài
11
nghị luận xã hội có nhiều kiểu bài, để học sinh không bị núng túng trong quá trình
làm bài tôi đã hướng dẫn học sinh nhận diện, định hướng cách làm bài cụ thể.
- Kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng, đời sống:
Sau đây là dàn ý chung và dàn ý minh họa cho đề văn: Suy nghĩ về hiện tượng vi
phạm an toàn giao thông hiện nay.
Phần
Dàn ý chung
Dàn ý cụ thể
MB
Giới thiệu chung về sự việc Giới thiệu chung về hiện tượng vi phạm an
hiện tượng
toàn giao thông hiện nay.
TB
Phân tích mặt đúng, mặt sai, -Nêu thực trạng của vấn đề: những biểu
mặt lợi, mặt hại của sự việc hiện vi phạm an toàn giao thông.
hiện tượng. Giải pháp.
-Phân tích nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng vi phạm an toàn giao thông.
- Chỉ rõ hậu quả của việc vi phạm an
toàn giao thông.
- Đưa ra những giải pháp để hạn chế
vi phạm an toàn giao thông.
KB
Suy nghĩ về sự việc, hiện - Suy nghĩ của người viết trước hiện tương
tượng đó. Liên hệ bản thân. vi phạm an toàn giao thông.
- Liên hệ bản thân.
- Kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
Trong một số năm gần đây, đề thi học sinh giỏi cấp huyện và cấp tỉnh chú trọng
nhiều vào dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, cho nên tôi tập trung dành nhiều
thời gian hướng dẫn học sinh nắm vững kiến thức, rèn kĩ năng làm bài nghị luận về tư
tưởng đạo lí. Đối với kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí có nhiều dạng đề, tôi
chú trọng hướng dẫn học sinh 4 dạng đề cơ bản như sau: Dạng đề thứ nhất là đi từ
một vấn đề văn học rút ra vấn đề xã hội, dạng đề thứ 2 là đi từ một câu chuyện rút ra
vấn đề xã hội, dạng đề thứ 3 là đi từ một câu thơ, câu châm ngôn, một ý kiến đi đến
vấn đề xã hội cần bàn luận, dạng đề thứ 4 là từ 2 ý kiến rút ra vấn đề xã hội cần nghị
luận. Mỗi một dạng đề tôi phải định hướng cụ thể cho học sinh nắm vững được cách
làm. Sau khi học sinh nắm vững cách làm của từng kiểu đề bài, tôi hướng học sinh
tập trung rèn luyện làm thành thạo từng kiểu đề.
Sau đây tôi sẽ minh họa dàn ý chung của kiểu bài và dàn ý một số dạng đề cụ thể.
Ví dụ1: Đối với dạng đề thứ nhất đi từ vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học rút ra vấn đề xã hội
Trong truyện ngắn : “Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn O.Hen-ri, bệnh tật và nghèo
túng khiến Giôn-xi tuyệt vọng không muốn sống nữa. Cô đếm từng chiếc lá còn lại
trên cây thường xuân bám vào bức tường gạch đối diện với cửa sổ, chờ khi nào chiếc
lá cuối cùng rụng nốt thì cô cũng buông xuôi lìa đời…Nhưng “chiếc lá cuối cùng”
vẫn còn đó làm cho Giôn-xi tự thấy mình “thật là một con bé hư… Muốn chết là một
tội”. Cô lại hi vọng một ngày nào đó sẽ được vẽ vịnh Na-plơ và như lời bác sĩ nói
cô đã thoát “khỏi nguy hiểm”của bệnh tật.
Qua những thay đổi của Giôn-xi em hãy viết một bài văn nghị luận thể hiện suy
nghĩ về nghị lực sống của con người.
Hướng dẫn cách làm:
12
Phần
Dàn ý chung
Dàn ý cụ thể
MB
- Giới thiệu chung - Dẫn dắt vấn đề : Vai trò của ý chí, nghị lực, niềm tin
về vấn đề cần nghị trong cuộc sống
luận
- Trích dẫn đoạn truyện, rút ra vấn đề nghị luận: Nghị
lực sống của con người.
TB
- Giải thích vấn đề - Giải thích vấn đề: Tóm tắt nội dung đoạn truyện, nêu
- Bàn luận vấn đề
ý nghĩa của đoạn truyện hướng đến vấn đề nghị luận.
- Bài học nhận thức - Bàn luận, mở rộng: Khẳng định, phân tích chứng
và hành động
minh vai trò của nghị lực sống của con người. Phê phán
những người có biểu hiện tiêu cực, bi quan.
- Bài học về nhận thức và hành động: Ý thức vai trò
quan trọng của nghị lực sống, biết cách rèn luyện và
duy trì ý chí, tinh thần mạnh mẽ. Biết yêu thương, cảm
thông và tiếp thêm niềm tin yêu cuộc đời, nghị lực
sống cho những người xung quanh
KB
-Khẳng định vấn đề - Khẳng định vấn đề .
-Liện hệ bản thân
Liên hệ bản thân.
Ví dụ 2: Dạng đề nghị luận từ một ý kiến rút ra vấn đề xã hội. Từ dàn ý chung của
dạng đề này tôi cụ thể hóa thành dàn bài vào một đề cụ thể như sau:
Đề bài: R.Ta-go, nhà thơ Ấn Độ, cho rằng: “Thà làm một bông hoa sen nở khi thấy
mặt trời rồi mất hết tinh nhụy, còn hơn giữ nguyên hình nụ búp trong sương lạnh
vĩnh cửu của mùa đông”. Suy nghĩ của em về nhận định trên.
Phần
Dàn ý chung
Dàn ý cụ thể
MB
- Giới thiệu chung về - Dẫn dắt vấn đề .
vấn đề cần nghị luận
- Trích dẫn ý kiến
TB
- Giải thích vấn đề
- Giải thích ý kiến ( Giải thích những từ ngữ quan
trọng: Hoa sen, mặt trời, nụ búp, sương lạnh vĩnh
cửu là gì ? Ý nghĩa của câu nói đó là gì?)
- Bàn luận, mở rộng vấn - Bàn luận, mở rộng:
đề
+Tại sao nên chọn cách sống như “bông hoa sen”?
+Tại sao không nên chọn cách sống như “nụ búp” ?
+ Mở rộng: Liệu có phải lúc nào ta cũng sống hết mình?
- Bài học nhận thức và hành động
- Bài học nhận thức và + Cuộc sống của mỗi người được quyết định bởi sự
hành động
tự nhận thức, bản lĩnh và nghị lực vươn lên không
ngừng. Cuộc sống quá ngắn ngủi, hãy cứ cháy hết
mình đến tận cùng của khát vọng, ước mơ
KB
-Khẳng định vấn đề
-Liện hệ bản thân
- Khẳng định vấn đề .
Liên hệ bản thân.
13
* Dạng bài Nghị luận văn học:
Khi hướng dẫn học sinh làm dạng bài nghị luận văn học, tôi tập trung hướng dẫn
học sinh vào hai nhóm bài. Nghị luận về tác phẩm truyện (hay đoạn trích) và nghị
luận về đoạn thơ, bài thơ. Ở mỗi dạng bài tôi hướng dẫn để học sinh nắm vững lí
thuyết, rèn luyện làm bài thành thạo từng dạng đề. Mỗi dạng đề tôi minh họa dàn ý
chung và dàn ý được cụ thể hóa vào đề bài cụ thể như sau:
Phần
Nghị luận về tác phẩm truyện
MB -Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
-Nêu ý kiến đánh giá sơ bộ về tác
phẩm.
TB
-Trình bày các luận điểm chính về nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm.
(Có phân tích, chứng minh bằng các
luận cứ tiêu biểu và xác thực
KB
-Khẳng định vấn đề
- Liên hệ bản thân
Nghị luận về tác phẩm thơ
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Cảm xúc chung về bài
- Lần lượt trình bày những suy nghĩ,
đánh giá về nội dung, nghệ thuật của
bài thơ đó.
- Khẳng định vấn đề
- Liên hệ bản thân
Từ dàn bài chung tôi minh họa một ví dụ bằng một đề cụ thể như sau:
Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “ Bài thơ Khi con tú hú của nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện
sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khao khát tự do cháy bỏng của người chiến sĩ
cách mạng trong hoàn cảnh tù đày”. Em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. [6]
Phần
Dàn ý cụ thể.
MB
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Trích dẫn ý kiến.
TB
HS lần lượt triển khai được các ý sau:
- Luận điểm 1: Bài thơ khi con tu hú của nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện sâu sắc
niềm yêu cuộc sống.( Phân tích 6 câu thơ đầu: Bức tranh mùa hè tưng bừng
rộn rã)
- Luận điểm 2: Đến với bốn câu thơ cuối của bài thơ ta thấy tác giả đã làm
nỗi bật niềm khao khát tự do cháy bổng của người chiến sĩ cách mạng trong
hoàn cảnh tù đày.
- Luận điểm 3: Đánh giá về nghệ thuật của bài thơ
+ Thể thơ, giọng điệu, ngôn từ, cách sử dụng hình ảnh thơ độc đáo.
KB
- Khẳng định vấn đề.
- Liên hệ bản thân.
- Đối với dạng bài Nghị luận văn học gắn với lí luận.
Đây là vấn đề mới và khó đối với học sinh lớp 8 vì khả năng tư duy, suy luận
và nhận diện vấn đề lí luận của các em đang còn non nớt nên khi dạy dạng bài này
tôi phải tìm tòi, định hướng đi cụ thể để học sinh có thể tiếp cận được vấn đề. Bước
đầu tôi hướng dẫn học sinh xây dựng dàn bài để học sinh hình dung được hướng làm bài.
Dàn ý chung cho kiểu bài này như sau:
MB: - Dẫn dắt từ vấn đề lí luận văn học
14
- Trích dẫn ý kiến
- Giới thiệu tác phẩm cần chứng minh và phạm vi bài làm
TB: Ý 1. Giải thích ý kiến
Ý 2. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Ý 3. Chứng minh, làm rõ vấn đề lí luận thông qua việc phân tích tác phẩm
Ý 4. Đánh giá, nâng cao.
KB: - Khẳng định lại vấn đề
- Suy nghĩ bản thân.
Sau khi xây dựng dàn ý cho kiểu bài này cần hướng dẫn các em từng bước một.
Đối với phần Mở bài, không nên áp dụng máy móc như các dạng đề khác là
giới thiệu tác giả, tác phẩm mà phải dẫn dắt từ một vấn đề lí luận liên quan. Bởi lẽ,
nhận định về một vấn đề lí luận thường có tính đánh giá một đặc tính, một bản chất
của văn học cho nên nó có thể áp dụng cho mọi tác phẩm cùng thể loại. Nếu dẫn dắt
về tác giả, tác phẩm (phạm vi hẹp) sang vấn đề lí luận cần bàn (phạm vi rộng hơn) thì
bài làm sẽ khập khiễng, khó thuyết phục người đọc. Sau khi dẫn dắt từ vấn đề nghị
luận liên quan, cần trích dẫn nguyên văn ý kiến và giới thiệu tên tác phẩm cần chứng minh.
Ở phần Thân bài:
Ý 1: Giải thích ý kiến: Giải thích một vấn đề lí luận đối với học sinh THCS là
một thao tác khó, nhất là học sinh không được học bất kì một bài lí luận văn học nào
ở trong chương trình. Tuy nhiên, việc giải quyết được vấn đề nêu ở đề bài vẫn là
nhiệm vụ của người làm bài (nhất là học sinh đội tuyển học sinh giỏi). Nhiệm vụ của
người giáo viên đứng đội tuyển là dạy cho các em những kiến thức lí luận cơ bản
nhất về đặc điểm thơ trữ tình như: Tính trữ tình; nội dung phản ánh trong thơ trữ
tình; đặc điểm của ngôn ngữ thơ trữ tình...
Ý 2: Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Thông thường với đề bài lí luận văn học,
phần tác giả, tác phẩm được giới thiệu sau phần giải thích để kết nối với phần chứng
minh tính đúng đắn của vấn đề thông qua bài thơ. Đây là điểm khác với các dạng đề
còn lại.
Ý 3: Chứng minh, làm rõ vấn đề lí luận thông qua việc phân tích tác phẩm thơ.
Trên cơ sở bố cục, mạch cảm xúc của bài thơ, học sinh xây dựng hệ thống luận điểm
gắn chặt với vấn đề lí luận nêu ở đề bài. Tránh trường hợp, sau khi giải thích, học
sinh tập trung phân tích bài thơ mà xa rời luận điểm (vấn đề lí luận). Vấn đề nghị luận
phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài văn. Nội dung, nghệ thuật bài thơ chỉ đóng vài trò là
dẫn chứng làm sáng rõ vấn đề đó. Nói cách khác, người viết không nhất thiết phân
tích toàn bộ mọi vấn đề có ở tác phẩm thơ mà cần lựa chọn những nội dung tiêu biểu
phục vụ làm sáng tỏ vấn đề nghị luận.
Ý 4: Việc đánh giá, nâng cao cũng bám sát vấn đề lí luận và giá trị của bài thơ.
Ví dụ: Nhà thơ Pháp Andre Chanien từng nói: “Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ,
trái tim mới làm nên thi sĩ.” Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên qua bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh ( Ngữ văn 8 , Tập hai). [7]
Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề, trích dẫn ý kiến.
- Giới thiệu bài thơ Quê hương của Tế Hanh.
Thân bài
Ý 1: Giải thích ý kiến
15
- "Nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ": Nghệ thuật ở đây có thể hiểu là các yếu tố như:
Thể thơ, giọng điệu của bài thơ, biện pháp tu từ, hình thức ngôn ngữ, các phương
tiện biểu đạt...làm nên cái võ bên ngoài của câu thơ.
-"trái tim mới làm nên thi sĩ": Trái tim có thể hiểu là thế giới tâm hồn, tình cảm, tâm
tư của người sáng tác đã gửi gắm trong tác phẩm nghệ thuật nói chung, trong thơ ca
nói riêng. Chính tâm hồn, tình cảm, xúc cảm của thi sĩ mới làm nên cáinội dung bên
trong của câu thơ, bài thơ.
- Ý nghĩa của câu nói: Có đủ 2 yếu tố "nghệ thuật" và "trái tim" thì câu thơ (Tác
phẩm văn học) mới tồn tại. Chỉ có hình thức nghệ thuật mà không có trái tim của thi
sĩ thì không thể thành thơ. Chỉ có trái tim mà không có nghệ thuật thì không thể có
thơ hay được. Hai yếu tố này kết hợp hài hòa với nhau. Để có những bài thơ
hay đòi hỏi người nghệ sĩ vừa phải có tài, vừa phải có tâm..
=> Đánh giá ý kiến: Đây là ý kiến nhằm khẳng định, đề cao thiên
chức của nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Ý 2: Chứng minh ý kiến trên qua bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh
- Giới thiệu vài nét về tác giả Tế Hanh và bài thơ “ Quê Hương”
- Bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Tế Hanh là một bài thơ hay, bài thơ được viết
bằng trái tim của người nghệ sĩ.( Phân tích nội dung bài thơ Quê hương để làm nổi
bật tình yêu que hương tha thiết của tác giả)
- Bài thơ Quê hương là một bài thơ không chỉ được viết nên từ trái tim của người
nghệ sĩ mà nó con được xây dựng nên bằng sự sáng tạo qua hình thức nghệ thuật của
bài thơ.( Phân tích, chứng minh)
Ý 3: Đánh giá nâng cao.
- Quê hương của Tế Hanh là một bài thơ vừa đặc sắc về nghệ thuật,
vừa tiêu biểu cho “trái tim”của nhà thơ.
-Ý kiến của Andre Chenien giúp ta cảm nhận sâu sắc và trân trọng
tài năng, trái tim của người nghệ sĩ trong việc sáng tạo nghệ thuật.
Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề.
- Suy nghĩ của người viết.
3.4. Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi.
Khi bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn, tôi thưởng chia thành từng giai đoạn
để thực hiện.
+ Giai đoạn 1: Củng cố, nắm chắc kiến thức cơ bản trong từng bài, dạng bài, nhóm
bài.(Phần này quan trọng nhất tôi luôn dành thời gian nhiều để học sinh nắm chắc nội
dung của từng bài, từng dạng bài)
+ Giai đoạn 2: Hướng dẫn học sinh làm các bài tập mở rộng và nâng cao, tập trung
rèn luyện các kĩ năng làm từng dạng bài.
+ Giai đoạn 3: Thi thử để căn thời gian, chấm chữa bài, khắc phục lỗi. Rèn kĩ năng
làm bài rất quan trọng, qua làm bài học sinh sẽ nhận ra những hạn chế cần khắc phục
trong các bài sau.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong những năm gần đây, bản thân luôn được phân công giảng dạy môn Ngữ
văn luân phiên từ lớp 6 đến lớp 9 và nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi ở hầu hết các
khối lớp. Từ khi tôi áp dụng đề tài “Một số kinh nghiệm trên trong việc bồi dưỡng
16
học sinh giỏi” vào từng khối lớp đến nay tôi thấy có những chuyển biến đáng kể, số
học sinh yêu thích và học giỏi môn văn cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh tăng lên rõ
rệt. Nhiều em học sinh từ chỗ không thích học văn giờ đây các em có hứng thú, đam
mê học văn. Nhiều em từ chỗ không biết viết bài giờ đây đã thành thạo cách viết, sức
viết bài tốt. Giờ đây môn Ngữ văn do tôi phụ trách số lượng HSG cấp trường, cấp
huyện, cấp tỉnh cao hơn các môn học khác.
Qua bài khảo sát chất lượng học sinh giỏi một số môn lớp 8 trường THCS Vân
Du thời điểm cuối học kì II năm học 2016-2017 với kết quả như sau:
Lớp
Tổng số HSG Ngữ văn
HSG Toán
HSG Vật lí
HSG Hóa
SL
TL %
SL
TL % SL TL % SL
TL %
8A
30
4
13,3
5
16,6
6
20,0
4
13,3
8B
36
16
44,4
14
38,8
13
38,8
12
33,3
Tổng số
66
20
30,3
19
28,7
19
28,7
16
24,2
Đối chiếu với bảng số liệu khảo sát đầu năm, tôi thấy số lượng học sinh giỏi
môn Ngữ cấp trường tăng lên đáng kể. (Đầu năm số học sinh giỏi cấp trường đối với
môn Ngữ văn là 7 HS đạt tỉ lệ 10, 6%, cuối năm là 20 HS đạt tỉ lệ 30,3% tăng so với
đầu năm là 19,7 %, so với các môn Toán, Lí, Hóa số lượng HS giỏi vượt cao hơn )
- Số học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh tăng qua các năm:
Năm học
HSG cấp HSG cấp
Ghi chú.
2010-2011
2011- 2012
2012- 2013
2014-2015
2015-2016
2016-2017
huyện
3
3
3
9
9
11
tỉnh
1
1
3
Em Lam giải 3 cấp tỉnh
Em Lâm giải KK cấp tinh
Em Thủy giải nhì, em Hằng giải ba, em
2
Hồng giải KK cấp tỉnh
Em Thảo , em Hiếu giải nhì cấp huyện
Em Thảo giải nhất cấp huyện, em Hiếu
1
giải ba, em Mai Anh giải kk cấp tỉnh.
Em Nguyên giải nhì cấp tỉnh.
III- KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1- Kết luận:
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh
giỏi là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này,
bản thân đã rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Người giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, phải thu hút được đối tượng học
sinh giỏi đến và yêu thích môn Ngữ văn.
- Người giáo viên phải không ngừng học hỏi, trau dồi để có vốn kiến thức sâu rộng.
- Giáo viên phải thường xuyên đặt mình vào cương vị học sinh để thấu hiểu tâm tư,
nguyện vọng của các em để cùng chia sẻ, cùng học với các em.
- Giáo viên phải thực sự coi trọng công việc bồi dưỡng học sinh giỏi để đầu tư thời
gian và công sức.
17
- Giáo viên ngoài việc cung cấp kiến thức, cần chấm chữa bài cho học sinh tỉ mỉ, chu
đáo để nắm bắt tình hình học tập của học sinh để điều chỉnh phương pháp dạy cho
phù hợp, phải động viên khích lệ các em kịp thời.
- Giáo viên phải lên kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi cụ thể.
- Giáo viên cần tạo cho học sinh có một không khí học tập thoải mái.
2- Kiến nghị.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhà trường phổ thông là một công việc đòi
hỏi rất nhiều thời gian, công sức của người giáo viên. Để công việc này thực sự có
hiệu quả, khích lệ được nhiều giáo viên say mê, tâm huyết, tôi mong muốn được sự
quan tâm hơn nữa của các cấp lãnh đạo, được sự đầu tư về cơ sở vật chất, thời gian
cho giáo viên trực tiếp bồi dưỡng học sinh giỏi. Mong muốn được tham gia nhiều hơn
nữa các lớp chuyên đề về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
Vì thời gian có hạn, kiến thức là vô hạn, bản thân nhận thấy những thành tích
mình đạt được cũng đang là nhỏ bé, tôi muốn trình bày những kinh nghiệm của mình
mong được đồng nghiệp góp ý để tôi làm tốt hơn nữa công việc này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân,
không sao chép nội dung của người khác.
Thạch Thành, ngày 14/04/2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Người viết
ĐƠN VỊ
Đỗ Thị Thu Phương
18
19