Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một vài biện pháp nhằm rèn luyện kĩ năng liên tưởng và tưởng tượng cho học sinh lớp 6 trong việc học môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.22 KB, 17 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong
nhà trường đang là vấn đề rất được xã hội rất quan tâm. Mục đích của việc đổi mới
phương pháp là thay đổi lối dạy học thụ động sang phương pháp dạy học tích cực,
nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo ở người học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học Văn chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự tham
gia tích cực của giáo viên và học sinh qua từng giờ học cụ thể.Trong đó người giáo
viên với vai trò là người dẫn dắt, hướng dẫn học sinh trong giờ học, phải xác định
được những mục tiêu cơ bản, rõ ràng của giờ học. Hướng tới hình thành những
kiến thức chuẩn xác, các kĩ năng thành thục và những thái độ đúng đắn cho học
sinh.
Trong quá trình dạy học, bên cạnh việc hình thành kiến thức, thì việc rèn các kĩ
năng cho học sinh là rất quan trọng. Ở môn Ngữ văn, hình thành các kĩ năng liên
tưởng, tưởng tượng giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình hướng dẫn học
sinh tiếp nhận tác phẩm văn học và viết các bài Tập làm văn theo hướng tư duy tích
cực, chủ động và sáng tạo.
Đối với học sinh lớp 6, việc rèn luyện các kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng có
vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì bắt đầu từ cấp học này, các em sẽ dần làm quen
với việc tiếp nhận và cảm thụ vẻ đẹp của các tác phẩm văn học, đồng thời tập viết
các bài văn miêu tả và tự sự theo hướng sáng tạo.
Kĩ năng liên tưởng tưởng tượng giúp học sinh hình dung ra đối tượng được gợi
ra trong tác phẩm văn chương một cách cụ thể, sinh động. Từ đó để hiểu giá trị của
tác phẩm. Còn trong các bài văn miêu tả và tự sự, nếu liên tưởng, tưởng tượng càng
lô-gíc, tự nhiên, phong phú thì sự sáng tạo càng cao. Ở lứa tuổi của các em, sự liên
tưởng, tưởng tượng là rất tự nhiên, phong phú và đáng yêu nhưng rất cần có sự định
hướng đúng đắn của giáo viên.
Nhận thức được vai trò quan trọng của các kĩ năng liên tưởng và tưởng tượng
trong việc dạy học môn Ngữ Văn, bản thân tôi đã có những tìm tòi, thử nghiệm một
vài biện pháp để hướng tới rèn luyện các kĩ năng này cho học sinh lớp 6 ở trường
THCS Minh Khai - thành phố Thanh Hóa - Thanh Hóa.


2.2. Mục đích nghiên cứu
Việc tiến hành nghiên cứu đề tài này góp phần nâng cao chất lượng rèn kĩ năng
liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh, giúp cho việc học tập các phân môn và thực
hành viết bài tập làm văn đạt hiệu quả cao. Trên cơ sở những hiểu biết sâu sắc về
các tác phẩm văn học, các biện pháp tu từ từ vựng được học trong chương trình và
những nắm bắt cơ bản về kĩ năng làm văn miêu tả và tự sự học sinh biết cách diễn
đạt và tạo lập các văn bản tự sự và miêu tả đạt chất lượng cao hơn.
Đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học Văn theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong giờ học. Đồng thời cũng hướng dẫn học sinh
bước đầu làm quen và thích ứng với việc kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển
năng lực của học sinh.
1


Từ những kinh nghiệm thực tế của bản thân khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
này, tôi cùng chia sẻ với đồng nghiệp để tìm ra những phương pháp đổi mới giờ
dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường đạt hiệu quả cao hơn.
3.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài hướng đến nghiên cứu và tổng kết các bước tổ chức thực hiện rèn kĩ
năng liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh lớp 6 trong các giờ dạy tác phẩm văn
học, các giờ dạy Tiếng Việt và các giờ hướng dẫn học sinh viết các bài Tập làm
văn tự sự và văn miêu tả.
Từ hiệu quả đạt được sau khi đã áp dụng sáng kiến vào giờ dạy, bản thân tôi tiếp
tục học hỏi và có những điều chỉnh, bổ sung kịp thời, phù hợp hơn trong các giờ
dạy học Văn trong nhà trường.
4.4. Phương pháp nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Điều tra khảo sát thực tế.
- Thống kê, xử lí số liệu.
- Phân tích, phân loại.


2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Liên tưởng, tưởng tượng trước hết là hiện tượng tâm lí. “Liên tưởng là nghĩ tới
sự việc, hiện tượng nào đó có liên quan nhân sự việc, hiện tượng đang diễn ra.
Tưởng tượng là tạo ra trong trí những hình ảnh không có ở trước mắt hoặc
chưa hề có” (Từ điển Tiếng Việt- Hoàng Phê, năm 2009).
Như vậy cơ chế của liên tưởng là dựa vào trí nhớ, chắp nối, liên kết các sự kiện,
để tạo hình ảnh đối lập hoặc tương đồng. Còn cơ chế của tưởng tượng là dựa trên
cơ sở các liên tưởng và sức sáng tạo để xây dựng biểu tượng mới. Cũng có nghĩa
liên tưởng nằm trong trí nhớ, là phương thức để nhớ, đồng thời liên tưởng cũng là
thao tác của tưởng tượng. Vì thế giữa liên tưởng và tưởng tượng có mối quan hệ
vừa là bộ phận vừa là nhân quả của nhau trong nhận thức và phản ánh đối tượng.
Sáng tác văn học là một hoạt động giao tiếp xã hội nhằm hướng tới sự đồng
cảm, tri âm nơi người đọc. Vì lí do “sinh tồn” ấy, người sáng tác bao giờ cũng gửi
gắm ý tưởng của mình qua hình tượng nghệ thuật của tác phẩm- mã hoá trong các
dạng thức kết cấu đặc biệt của ngôn ngữ. Tác phẩm văn học khi đã hiện diện bằng
văn bản, tức là trong nó đã kết tinh một quá trình lao động nghệ thuật - từ khâu
quan sát, bộc lộ cảm xúc, huy động những liên tưởng và tưởng tượng ... để khái
quát, kết cấu thành một chỉnh thể. Như vậy quá trình sáng tác là quá trình bằng xúc
cảm cá nhân, nhà văn hút dẫn và nhào nặn chất liệu đời sống để phục vụ một nhu
cầu bộc lộ, trong đó liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò đặc biệt quan trọng.
Phương pháp dạy học tích cực xác định vai trò của học sinh là bạn đọc sáng
tạo của nhà văn. Có nghĩa là người học sinh là chủ thể trong giờ học, nhằm khơi
dậy và phát triển những năng lực tâm lí cảm thụ văn học một cách chủ động và
sáng tạo. Muốn đạt được hiệu quả trên, học sinh phải có kĩ năng liên tưởng, tưởng
tượng được những điều nhà văn thể hiện trong tác phẩm.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong
nhà trường như sau: “ Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh, lạ lùng
lắm”. Trong quá trinh tiếp nhận tác phẩm Văn học, học sinh trở thành người đồng
sáng tạo với tác giả. Qua trí liên tưởng, tưởng tượng của các em, nội dung của tác
phẩm càng trở nên phong phú hơn.
Và cũng từ những gì đã cảm nhận được trong tác phẩm văn học, vốn kiến thức
của các em thêm phong phú, giàu có, các kĩ năng nói và viết cũng trở nên thành
thục hơn. Kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cũng rất cần thiết giúp học sinh tiếp
nhận và vận dụng các đơn vị kiến thức Tiếng Việt và phần Tập làm văn trong
chương trình Ngữ văn lớp 6. Đặc biệt là đối với văn miêu tả và tự sự, các yếu tố
liên tưởng và tưởng tượng rất quan trọng trong quá trình giúp học sinh tập viết bài
văn. Bởi lẽ từ những gì các em quan sát được, các em phải liên tưởng đến những gì
có quan hệ gần gũi, giống nhau... tưởng tượng ra các hình ảnh cụ thể để diễn đạt
thành những từ ngữ, hình ảnh chính xác, gợi cảm, có giá trị nghệ thuật cao.

3


2.2. Thực trạng của vấn đề.
- Đối với giáo viên
Trong những năm gần đây, mặc dù ngành giáo dục đã quan tâm và bổ sung
thêm nhiều đồ dùng dạy học cho môn Ngữ văn, nhưng số lượng tranh ảnh, cũng
như băng đĩa hình phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu
cần thiết trong công tác giảng dạy.
Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường THCS chưa mang lại
hiệu quả cao. Truyền thụ kiến thức một chiều vẫn là phương pháp chủ đạo trong
các giờ dạy học Văn. Tỉ lệ những giờ dạy học phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều.
Hoạt động kiểm tra, đánh giá theo yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua
điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên duy trì lối dạy truyền thống là chủ yếu.

- Đối với học sinh
Ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường phổ thông, nhiều năm gần đây đã có
những đổi mới đáng kể về hoạt động kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên việc kiểm tra
đánh giá vẫn chưa đảm bảo yêu cầu khách quan, chính xác. Ra đề theo hướng mở
nhưng vẫn chấm điểm theo đáp án chứ chưa linh hoạt trong cho điểm sáng tạo.
Điều này khiến học sinh vẫn học tập thiên về ghi nhớ hơn là vận dụng kiến thức.
Nhiều học sinh vẫn học theo kiểu cũ: đọc thuộc, sao chép, nói lại ý của sách vở,
thầy cô. Các em chưa có sự sáng tạo khi tiếp xúc tác phẩm văn học.
Đối với học sinh lớp 6, vì mới bước đầu tiếp xúc và tìm hiểu các tác phẩm văn
học nên các em còn tỏ ra lúng túng. Mặt khác, trong chương trình Ngữ văn lớp 6,
học sinh lại được học các tác phẩm văn học dân gian. Thể loại này giàu yếu tố
tưởng tượng kì ảo nên đòi hỏi các em cũng phải có kĩ năng tưởng tượng tốt thì mới
hiểu sâu sắc được các tác phẩm văn học đồng thời thực hành viết bài được tốt hơn.
Bên cạnh đó thì kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng của các em cũng còn hạn chế.
Trong kì thi khảo sát chất lượng đầu năm môn Ngữ văn lớp 6 - Trường THXS
Minh Khai năm học 2014-2015, thu được kết quả như sau:
Đề bài: Em hãy tả lại khu vườn mùa xuân vào một buổi sáng .
Điểm
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL

%
Lớp
6B
40
11 27.5
14
35
14
35
1
2.5
6D
40
10
25
14
35
11
27.5
3
12.5
6C
40
12
30
15
37.5
12
30
1

2.5
Mặc dù ở bậc tiểu học, học sinh đã được làm quen với văn miêu tả nhưng yêu
cầu về dung lượng cũng như kĩ năng viết bài chưa cao.Vì vậy với đề văn trên, các
em không có khả năng mở rộng những liên tưởng, tưởng tượng để viết dài cũng
như có những cách diễn đạt hay, giàu hình ảnh.

4


Từ thực tế trên, bản thân tôi đã vận dụng một số biện pháp và cách thức tổ chức
để rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh lớp 6 trường THCS Minh Khai
- thành phố Thanh Hóa như sau.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
a. Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ dạy tác phẩm văn
học
Trong cảm nhận tác phẩm văn học, người đọc phải dùng liên tưởng, tưởng
tượng để hình dung, để hiểu được ý đồ, quan niệm nghệ thuật, tư tưởng mà nhà văn
gửi gắm vào trong tác phẩm. Quá trình tiếp thu một giờ giảng văn trên lớp, học sinh
phải nhờ vào tài năng, kĩ năng hướng dẫn tìm hiểu của người thầy. Người giáo viên
phải dẫn dắt học sinh từng bước khám phá tác phẩm một cách tự nhiên, thoải mái,
qua đó giúp các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo của tác phẩm văn chương.
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi thấy rằng, để có một giờ dạy
trọn vẹn quả là khó, vì đó là cả một nghệ thuật. Giờ giảng Văn đòi hỏi học sinh
phải liên tưởng, tưởng tượng mới có sự sáng tạo trong lĩnh hội và tìm tòi. Trong khi
thời gian rất eo hẹp, sự liên tưởng, tưởng tượng ở học sinh lại không đồng đều. Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn không có được những giờ
dạy thành công.Với những gì đã học hỏi và thử nghiệm, tôi thấy có thể rèn kĩ năng
liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh trong giờ dạy tác phẩm văn chương như sau:
Trước khi vào bài giảng, giáo viên vừa kết hợp lời dẫn với các tư liệu như tranh
ảnh, đoạn phim có liên quan đến bài dạy, để học sinh có một sự hình dung sơ bộ về

những vấn đề sẽ học trong tác phẩm.
Ví dụ :
- Dạy bài “Thánh Gióng”, có thể cho học sinh xem những bức tranh về Thánh
Gióng, hoặc đoạn phim về cảnh Thánh Gióng đánh giặc Ân.
- Dạy bài “ Sự tích Hồ Gươm”, cho học sinh xem tranh hoặc một đoạn băng
hình về quần thể di tích Hồ Gươm
- Dạy bài “ Bánh chưng, bánh dày” có thể yêu cầu học sinh miêu tả lại không
khí gói bánh chưng, bánh dày ngày Tết ở địa phương…
Tuy nhiên do tranh ảnh và tư liệu không phong phú nên điều quan trọng là
phải khơi gợi được ở học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú từ những gì đã
có trong văn bản ngôn từ. Trước tiên là qua cách đọc tác phẩm sao cho “vang
nhạc, sáng hình” và sau đó là hệ thống câu hỏi có khả năng gợi mở, định hướng.
Trong giảng Văn, giọng đọc của người thầy phải có khả năng truyền được cái
hồn của tác phẩm cho học sinh. Qua giọng đọc của thầy, các em thấy mở ra trong
tâm trạng, trong cảm xúc và tư duy những gì cần lĩnh hội. Không chỉ có thế, thầy
cũng phải rèn cho trò cách đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc sáng tạo. Chính người
học sẽ tự cảm thụ được vẻ đẹp của văn chương qua giọng đọc ngân vang của mình.
Trong quá trình các em đọc là đồng thời trong tư duy của các em đã diễn ra sự
tưởng tượng những hình ảnh một cách cụ thể và sinh động.

5


Hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài cũng cần phải được chuẩn bị kĩ càng để từng
bước dẫn dắt học sinh thâm nhập vào tác phẩm. Có thể vận dụng các kiểu câu hỏi
như:
Câu hỏi tái hiện: Tái hiện là phương pháp rất phổ biến trong giờ dạy học Văn.
Đó không chỉ đơn giản là sự hình dung, tưởng tượng mà còn bao gồm cả cách hình
dung, tưởng tượng nữa. Với những tư liệu phong phú, sinh động, với những câu hỏi
chính xác và có tính thẩm mỹ cao, giáo viên phải hướng dẫn để học sinh hình dung

được nhân vật đi, đứng, khóc, cười… Cuộc sống đang chuyển động trước mắt các
em. Và từ đó có thể miêu tả lại những gì tác giả viết bằng ngôn ngữ của mình.
Ví dụ :
- Em tưởng tượng và miêu tả lại trận thuỷ chiến giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh ?
( Học bài : Sơn Tinh, Thủy Tinh)
- Bằng trí tưởng tượng, em hãy tường thuật lại cảnh Thánh Gióng đánh giặc Ân?
( Học bài : Thánh Gióng)
- Nếu được vẽ tranh minh họa cho truyền thuyết “ Con Rồng, cháu Tiên” em sẽ
lựa chọn những chi tiết nào để vẽ?
( Học bài : Con Rồng, cháu Tiên)
Câu hỏi liên hệ: Sự liên hệ là từ các chi tiết, hình ảnh trong tác phẩm, học
sinh nghĩ tới các chi tiết, hình ảnh hoặc sự việc khác có nét tương đồng hoặc gần
gũi. Liên hệ không chỉ trong tác phẩm mà còn ngoài cuộc sống. Vì vậy đòi hỏi học
sinh phải huy động những hiểu biết của mình về văn chương và xã hội để sự liên hệ
có ý nghĩa. Đôi khi học sinh có những sự liên hệ không phù hợp, giáo viên phải có
sự điều chỉnh kịp thời để giúp học sinh hiểu đúng.
Ví dụ:
- Qua hình ảnh:
“Rồi Bác đi nhém chăn
Từng người, từng người một
Sợ cháu mình giật thột
Bác nhón chân nhẹ nhàng”
(Đêm nay Bác không ngủ- Minh Huệ)
Em cảm nhận được tình cảm của Bác dành cho các chiến sĩ giống với tình
cảm của ai dành cho chúng ta?
( Học bài : Đêm nay Bác không ngủ- Minh Huệ)
- Qua lời nói của thầy Ha- men vói các học sinh trong buổi học tiếng Pháp cuối
cùng ở vùng An-dát, em có liên hệ gì đến quá trình phát triển của tiếng nói dân tộc
ta?
( Học bài: Buổi học cuối cùng – An-phông-xơ Đô-đê)

Câu hỏi khơi gợi sự sáng tạo: Những câu hỏi tái hiện và liên hệ là sự chuẩn bị
cho học sinh khám phá bằng hệ thống những câu hỏi có tính khơi gợi sự sáng tạo.
Phạm vi câu hỏi có khi rất hẹp thuộc một từ, một câu, một hình ảnh, một chi tiết
nhưng đòi hỏi ở người học sự suy nghĩ, sự hoạt động nhận thức sáng tạo, giúp các
em hiểu sâu sắc hơn giá trị nghệ thuât cũng như nội dung của tác phẩm.
6


Ví dụ:
- Đọc xong truyện “Ông lão đánh cá và con cá vàng”, em hãy hình dung tâm
trạng của mụ vợ ông lão khi đã mất tất cả? Hãy miêu tả lại tâm trạng ấy?
- Em thấy kết thúc truyện“Ông lão đánh cá và con cá vàng”có gì độc đáo so
với cách kết thúc của truyện cổ tích thông thường? Nếu được viết kết thúc cho câu
chuyện em sẽ viết như thế nào để câu chuyện có một ý nghĩa sâu sắc?
( Học bài: Ông lão đánh cá và con cá vàng)
Có thể khẳng định rằng: giờ học Văn thành công hay không là phụ thuộc phần
lớn vào hệ thống câu hỏi mà giáo viên dẫn dắt cho học sinh khám phá tác phẩm.
Việc rèn cho học sinh một số thói quen trong giờ dạy học Văn cũng rất quan
trọng. Như thói quen đọc kĩ tác phẩm, ghi nhớ các chi tiết nghệ thuật quan trọng và
thuộc tác phẩm thơ cũng như những đoạn văn, câu văn hay. Đây là công việc rất
cần thiết để tiện cho các em liên hệ, so sánh, đối chiếu. Thói quen liên tưởng, liên
hệ những vấn đề, những tác phẩm khác có liên quan đến những giá trị cơ bản trong
tác phẩm đang học là vô cùng cần thiết trong quá trình lĩnh hội văn học.
b. Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong các giờ dạy Tiếng Việt.
Đối với phân môn Tiếng Việt, các kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng rất quan
trọng trong việc giúp học sinh hiểu và vận dụng cách dùng từ, đặt câu chính xác và
sáng tạo, đem lại hiệu quả diễn đạt cao. Đặc biệt là các biện pháp tu từ so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ và hoán dụ mà các em được học trong chương trình Ngữ văn lớp 6.
Trong những giờ dạy các biện pháp nghệ thuật này, người giáo viên phải giúp
học sinh nhận biết, cách tìm hiểu giá trị nghệ thuật, cách vận dụng các phép tu từ

khi nói và viết.
Trong thực tế, học sinh thường chưa xác định được chính xác các phép tu từ,
lẫn lộn giữa các phép tu từ và khó khăn lớn nhất đối với các em là chưa hiểu hết
được giá trị nghệ thuật cũng như nội dung của các phép tu từ. Từ đó khả năng vận
dụng rất hạn chế.
Từ thực tế đó, bản thân tôi đã thực hiện các bước cơ bản trong một giờ dạy về
biện pháp nghệ thuật là:
+ Giúp học sinh nắm vững khái niệm, hiểu được cơ sở hình thành các biện
pháp nghệ thuật thông qua việc phân tích các ngữ liệu mẫu. Chẳng hạn:
Cơ sở của so sánh và ẩn dụ là dựa trên sự liên tưởng giống nhau của hai đối
tượng khác loại. So sánh luôn có hai vế ( vế A và vế B), còn ẩn dụ thì sự vật, sự
việc được so sánh (vế A), từ so sánh, phương diện so sánh bị ẩn đi, chỉ còn sự vật,
sự việc được dùng để so sánh (vế B).
Cơ sở của hoán dụ là dựa trên sự liên tưởng kề cận của hai đối tượng mà
không so sánh.
Cơ sở của nhân hóa là từ những đặc điểm, hoạt động, tính chất của sự vật mà
liên tưởng đến những đặc điểm, hoạt động, tính chất giống con người và dùng các
từ vốn để chỉ hoạt động, tính chất, trạng thái… của con người để chỉ vật.
+ Nhận biết chính xác phép tu từ trong các ngữ liệu tiếp theo.
+ Tìm hiểu giá trị nghệ thuật của biện pháp tu từ đó.
7


+ Vận dụng đặt câu hoặc viết đoạn văn có sử dụng biện pháp nghệ thuật.
Cụ thể khi dạy học phép tu từ so sánh:
- Cách nhận biết:
So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương
đồng để tạo nên những hình ảnh cụ thể, hàm súc cho sự diễn đạt. Nghĩa là qua cái
đã biết mà nhận thức, hình dung được cái chưa biết.
Khi dạy bài này, bước đầu tiên giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện phép

so sánh thông qua cấu trúc của nó.
Cấu trúc của phép so sánh bao giờ cũng có hai vế:
Vế A ( nêu tên sự vật, sự việc được so sánh).
Vế B (nêu tên sự vật, sự việc dùng để so sánh).
Giữa hai vế thường có: Từ ngữ so sánh, phương diện so sánh. Có thể vắng một
trong hai yếu tố này hoặc cả hai.
Sau khi tìm hiểu giáo viên cho học sinh rút ra mô hình cấu tạo của phép so
sánh rất đa dạng, để học nhận biết. Mỗi dạng giáo viên hoặc học sinh lấy nhanh
một ví dụ để minh họa.
+ Dạng đầy đủ: Rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận.
+ Dạng biến đổi: Trẻ em như búp trên cành.
Tấc đất, tấc vàng.
Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất.
Trường Sơn, chí lớn ông cha.
- Cách tìm giá trị nghệ thuật:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân tích nội dung ý nghĩa của về B thì nội
dung của vế A và nội dung của toàn câu sẽ được làm rõ. Muốn hiểu được vế B một
cách chuẩn xác chúng ta phải sử dụng vốn hiểu biết từ thực tế, vốn kiến thức văn
học đã có. Khi các em làm tốt khâu này, các em sẽ tìm được giá trị đích thực của
phép tu từ này.
Cụ thể khi phân tích ví dụ:
Học sinh xác định cấu trúc:
Cái chàng Dế Choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện
VA
PDSS
TSS
VB
thuốc phiện.
+ Em hình dung gã nghiện thuốc phiện là người như thế nào?
- > Dáng người gầy gò, ốm yếu, da vàng tái, đi liêu xiêu…

+ Thông qua hình ảnh so sánh, tac giả muốn người đọc hình dung điều gì về
Dế Choắt?
-> Dế Choắt gầy ốm, quoặt quẹo, nhìn yểu tướng…
- Lời bình phép tu từ so sánh :
Phần lớn học sinh chỉ nêu ra phép tu từ và tác dụng của vế A và vế B mà thôi,
các em chưa biết dùng lời bình để làm rõ ý nghĩa của phép tu từ trong một đoạn
thơ, đoạn văn. Để giúp các em có kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng và dùng lời bình
trong phép tu từ so sánh, tôi đưa ra ví dụ sau:
8


Ví dụ: Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn
cuồn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa nghì trên ngọn
sào giống như một hiệp sĩ của trường Sơn oai linh hùng vĩ.
+ Thông qua các hình ảnh so sánh, em thấy dượng Hương Thư hiện lên như
thế nào?
Học sinh chỉ ra được tác dụng của các hình ảnh so sánh trong việc miêu tả
dượng Hương Thư trong cảnh vượt thác.
Giáo viên chốt ý và bình : Hình ảnh so sánh này gợi cho người đọc liên
tưởng đến vẻ đẹp thể chất và sự dũng mãnh của dượng Hương Thư như một người
anh hùng khi vượt thác. Đồng thời giúp ta hiểu được dụng ý của nhà văn: Trong
đời sống thường ngày, dượng Hương Thư nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì nhưng
khi vược thác , dượng trở thành con người hoàn toàn khác. Phải chăng khi đứng
trước khó khăn thử thách, con người Việt Nam vốn bình thường bỗng trở nên phi
thường.
Từ những lời bình của giáo viên, học sinh sẽ tập sử dụng những lời bình khi
tìm hiểu giá trị của các biện pháp tu từ. Và các em dễ dàng vận dụng vào tìm hiểu,
tạo lập văn bản đặc biệt là văn bản miêu tả.
- Vận dụng phép tu từ so sánh trong đặt câu:
Giáo viên nên chọn những hình ảnh gần gũi và cho học sinh tập đặt câu có sử

dụng hình ảnh so sánh. Ví dụ: Hình ảnh cây phượng nở hoa đỏ rực vào mùa hè;
hình ảnh cây bàng đang nhú những búp nõn vào mùa xuân; hay cánh đồng ngô
xanh mơn mởn…
Học sinh tự nhận xét giá trị của các hình ảnh so sánh đã sử dụng và giáo viên
chốt ý, rút kinh nghiệm cho các em trong diễn đạt.
c. Rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng trong các giờ dạy Tập làm văn
- Quan sát mẫu:
Một thao tác không thể thiếu trong giờ dạy các bài Tập làm văn miêu tả và tự sự
là cho học sinh quan sát mẫu. Bên cạnh các mẫu có sẵn trong sách giáo khoa, giáo
viên phải tìm tòi đưa thêm một số các đoạn văn mẫu tiêu biểu có trong chương
trình hoặc ngoài chương trình. Nên chọn những ngữ liệu hay đã được khẳng định.
Chẳng hạn khi dạy văn miêu tả nên đưa thêm đoạn tuỳ bút của Nguyễn Tuân :
“Sau trận bão, chân trời ngấn bể sạch như một tấm kính lau hết mây, hết bụi.
Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh và phúc hậu như lòng đỏ
một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ
đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc
trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để
mừng cho sự trường thọ của tất cả những người dân chài lưới trên muôn thuở biển
đông.”
( Trích: “Cô Tô” - Nguyễn Tuân)
Qua việc phân tích các mẫu, học sinh vừa cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong
cách diễn đạt của nhà văn, vừa học tập được cách nhà văn liên tưởng, tưởng tượng
qua những biện pháp như so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ...
9


- Hướng dẫn học sinh cách làm bài:
Trong những giờ hướng dẫn học sinh làm các đề văn kể chuyện và miêu tả, giáo
viên cần hướng dẫn chi tiết các bước. Sau khi đã xây dựng được dàn ý, phần quan
trọng để rèn kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh là tập viết các đoạn văn.

Trong bước này, giáo viên cho học sinh tập diễn đạt bằng cách: từ một hình ảnh,
một sự việc, có thể liên tưởng, tưởng tượng đến nhiều sự việc, hình ảnh khác nhau
và lựa chọn lấy những hình ảnh hợp lí, đặc sắc hơn cả.
Sau khi hoàn chỉnh bài văn, giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại để sửa chữa bài
viết. Ở phần này, đòi hỏi giáo viên phải rất chú ý đến những hình ảnh liên tưởng,
tưởng tượng chưa hợp lí, chưa hay để có những điều chỉnh kịp thời.
- Đổi mới phương pháp ra đề theo hướng mở.
Đối với văn tự sự: Bên cạnh những đề văn kể chuyện đời thường, giáo viên
nên tích cực tìm hiểu và ra những đề văn kể chuyện tưởng tượng sáng tạo, nhằm
kích thích khả năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú ở học sinh, kích thích tư
duy sáng tạo ở các em.
Ví dụ:
- Tưởng tượng kết thúc khác cho một truyện cổ tích.
- Đặt ra những tình huống giả định khác với tình huống có sẵn trong truyện và
viết tiếp theo trí tưởng tượng của mình.
- Hình dung gặp gỡ các nhân vật trong truyện cổ dân gian
- Tưởng tượng gặp gỡ những người thân trong giấc mơ
- Tưởng tượng cuộc trò chuyện giữa các nhân vật là đồ vật, hay con vật...
- Cách làm:
+ Xác định được đối tượng cần kể là gì? ( Sự việc hay con người)
+ Xây dựng tình huống xuất hiện sự việc hay nhân vật đó
+ Tưởng tượng các sự việc, hoạt động của nhân vật có thể xảy ra trong không
gian cụ thể như thế nào?
Và giáo viên đặc biệt lưu ý học sinh là dù tưởng tượng theo hướng nào thì câu
chuyện cũng phải mang lại một ý nghĩa cho cuộc sống.
Đối với văn miêu tả: Những năng lực cần có khi làm văn miêu tả:
- Quan sát: nhìn nhận, xem xét sự vật.
- Nhận xét liên tưởng, hình dung về sự vật đặt trong tương quan các sự vật xung
quanh
- Ví von so sánh: Thể hiện sự liên tưởng độc đáo riêng của người viết hình dung,

cảm nhận về sự vật, hiện tượng miêu tả.
Từ những người đã gặp, những cảnh đã biết, giáo viên yêu cầu học sinh tả lại
bằng ngôn ngữ của mình. Nhưng ở mức độ cao hơn là yêu cầu học sinh miêu tả lại
những cảnh, người mà các em chưa được trực tiếp nhìn, gặp mà chỉ được nghe qua
hoặc xem qua, đây là kiểu bài miêu tả sáng tạo.
10


Trong bài miêu tả sáng tạo, đối tượng miêu tả thường xuất hiện trong hình
dung, tưởng tượng bắt nguồn từ một cơ sở thực tế nào đó.
- Đối tượng : Người hay cảnh vật.
- Yêu cầu khi miêu tả :
+ Tả cảnh phải bám vào một số nét thực trong đời sống. Ví dụ khi tả cảnh một
phiên chợ trong tưởng tượng của em cần dựa trên những đặc điểm thường xảy ra
của cảnh đó làm cơ sở để tưởng tượng như : Không khí của cảnh, số lượng người
với độ tuổi và các tầng lớp. Chợ diễn ra ở địa điểm nào ? thời thiết, khí hậu lúc này
ra sao ?... Những cơ sở đó là thực tế để tưởng tượng theo ý định của mình.
- Tả người trong tưởng tượng : Nhân vật thường là những người có đặc điểm
khác biệt với người thường như các nhân vật ông Tiên, ông Bụt trong cổ tích hay
một người anh hùng trong truyền thuyết... cần dựa vào đặc điểm có tính bản chất để
tưởng tượng những nét ngoại hình cho phù hợp, tạo sự hấp dẫn.
- Lưu ý : Dù miêu tả theo cách nào và đối tượng nào thì cũng cần phải chú ý
vận dụng ví von, so sánh để bài văn miêu tả có nét độc đáo mang tính cá nhân rõ.
Để có được những đề văn theo hướng mở, thực sự phát huy được trí liên tưởng,
tưởng tượng của học sinh, người giáo viên phải nghiên cứu, tập ra đề, trao đổi tập
thể. Xây dựng thử các khả năng thực hiện đề mở, cùng với nhóm chuyên môn tìm
ra biện pháp dạy học sinh làm quen, làm thử thì học sinh mới làm được.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn theo nhóm, nhóm Văn trường THCS
Minh Khai dành nhiều thời gian để trao đổi về hướng ra đề mở và các dạng đề mở.
Ở Lớp 6, trong phần hướng dẫn học sinh làm văn tự sự và miêu tả theo hướng mở,

chúng tôi đã tìm tòi và xây dựng bộ đề bài văn theo hướng mở và thống nhất các
định hướng xây dựng đáp án. Bộ đề này được sử dụng trong các tiết viết bài văn tự
sự và miêu tả. Đây cũng là tài liệu lưu hành nội bộ, đồng thời bộ đề sẽ được bổ
sung trong các năm học tiếp theo. Làm như vậy, cách thức kiểm tra đánh giá học
sinh được hệ thống và nhất quán. Đáp ứng được yêu cầu đổi mới hình thức kiểm
tra, đánh giá học sinh trong bộ môn Ngữ văn ở nhà trường THCS.
Sau đây là ví dụ về một giáo án tích hợp giữa ba phân môn Văn học- Tiếng
Việt và Tập làm văn mà tôi đã thực hiện.
4.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với những gì đã làm, bản thân tôi nhận đã thấy được những hiệu quả khả quan
trong các giờ dạy. Học sinh tỏ ra rất hứng thú học bài, có những phát hiện mới mẻ
về giá trị của tác phẩm văn học. Chẳng hạn trong bài “Ông lão đánh cá và con cá
vàng” các em có nhận xét : “Những yêu cầu ban đầu của bà vợ ông lão là không
hề đáng trách. Vì cuộc sống của vợ chồng ông lão đã quá nghèo khổ, bây giờ có
điều kiện thì bà có quyền mong muốn một cuộc sống đủ đầy hơn. Đáng trách
chăng là thái độ cư xử của bà ta với chồng và tham vọng cuối cùng của bà ta”.
( Ý kiến của em Cao Hà Ngọc –Lớp 6B).
11


Sự lí giải của các em phải chăng cũng là có lí? Tuy nhiên giáo viên vẫn phải
định hướng cho các em rằng con người có quyền mơ ước một cuộc sống tốt đẹp .
Nhưng tất cả những giá trị vật chất phải do mình làm ra thì mới có giá trị bền vững.
Với những đề văn kể chuyện tưởng tượng, một số em đã thể hiện được năng
lực tưởng tượng khá phong phú và độc đáo của mình. Một số em thật sự hứng thú
với các kiểu đề văn như tưởng tượng mình trò chuyện với nhân vật văn học hoặc
tưởng tương cuộc trò chuyện giữa các đồ vật gần gũi quanh mình. Các em không
còn cảm thấy ngại viết bài nữa mà ngược lại rất háo hức đến giờ viết bài. Vì đây là
giờ để các em được thoải mái sáng tạo, được tập làm những “nhà văn nhí”. Đã xuất
hiện những đoạn văn hay, những bài văn mang cá tính sáng tạo.

Sau đây là một số bài văn của học sinh lớp 6 Trường THCS Minh Khai khi thực
hành viết bài tập làm văn văn miêu tả và tự sự:
Đề bài: Em hãy tả dòng sông mùa lũ.
Bài viết
Quê tôi nằm ven dòng sông Mã. Buổi chiều, vào những ngày hè oi ả, cả lũ nhóc
chúng tôi lại rủ nhau ra sông tắm mát. Hàng chục đứa hò reo lặn ngụp, trêu đùa
nhau náo loạn cả một khoảng sông. Những ngày đó dòng sông hiền hòa lắm, cứ
lặng lờ trôi. Trên mặt sông những con sóng nhỏ nối tiếp nhau xô nhẹ vào bờ, và
tiếng sóng vỗ ì oạp vào bờ nghe rất vui tai. Trong những ngày đó thôn xóm hai bên
bờ sông rất vui, ngày ngày, họ ra sông gánh nước, giặt giũ và ở trong những bãi
bồi ngô xanh biêng biếc, trông mát cả tầm mắt. Trên bến đò người và xe qua lại
tấp nập. Cuộc sống thật thanh bình và nên thơ.
Thế nhưng con sông không phải lúc nào cũng hiền hòa như những ngày đó.
Vào ngày mưa lũ, sông như trở mình sau những ngày lim dim ngủ.
Sau một thời gian mưa lớn, không biết nước ở đâu bỗng đổ đầy ắp dòng sông,
nước dâng cao, lúc đầu mấp mé bờ, sau có khi còn dâng lên phủ kín cả ngô, khoai.
Cả dòng sông lúc này là một dải nước lớn, mênh mông đục ngầu. Những con sóng
như hàng trăm con rồng lớn quằn mình quẫy đạp như muốn nuốt chửng tất cả làng
xóm. Ngô khoai may mắn vừa mới thu hoạch xong nếu không khi nước lũ rút thì
còn trơ ra cát và bùn. Và đêm nằm nghe như tiếng thở mạnh, lúc phì phò lúc réo
gào. Làng mạc ven sông như xơ xác hơn sau những trận gió mưa lớn và đứng bên
con sông đang trở mình thì làng xóm càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn. Cây
cối ngả nghiêng theo những trận gió, mới chỉ hôm qua thôi chúng thật tươi xanh,
mơn mởn sức sống thế mà chỉ qua một trận bão lũ, tất cả đều trở nên tiêu điều xơ
xác. Dân trong làng ngày ngày ngóng ra sông mong nước nhanh rút. Những con
sóng réo gào quanh những chiếc thuyền đánh cá đang neo đậu ven bờ. Những
chiếc thuyền đánh cá dường như trở nên nhỏ bé và yếu ớt trước những con sóng
đang uốn lượn, gồng mình lên như tức giận.
Nhìn từ xa dòng sông như đang được nấu sôi, màu đỏ quạch khác hẳn với màu
nước trong veo thường ngày, những cột sóng oằn mình dâng lên rồi hạ xuống, có

12


lúc tung cao, bọt trắng xóa. Những ngày ấy dòng sông không bao giờ ngủ, nó luôn
nhăm nhe, dọa nạt con người. Nó khiến con người luôn sống trong lo sợ. Con đê có
sứ mệnh phải ngăn chặn những cơn tức giận của dòng sông, vậy mà có chỗ đã
không thể kháng cự được, mình nó đã bị sóng ăn nham nhở, có nguy cơ vỡ. Ai ai
cũng hoảng sợ. Trước nguy cơ đó Ban chỉ huy phòng chống lụt bão đã huy động
rất nhiều người mang theo những bao tải đổ đất và giúp sức cho đê bảo vệ được
cuộc sống của dân lành.
Đối với lũ trẻ chúng tôi, dòng sông lúc này không còn đáng yêu như trước.
Chiều chiều chúng tôi chẳng còn đắm mình trong vòng tay êm ả của dòng sông.
Chúng tôi cũng như bao người khác lo lắng cho ngôi nhà, cho ngôi làng thân yêu
của mình.
Những ngày mưa lũ mẹ tôi không ra đồng được, mẹ ngồi trước cửa nhà, mắt
dõi ra xa đầy lo âu. Tôi ngồi bên mẹ lặng im. Mẹ ôm tôi vào lòng an ủi và cũng
chính là tự nhủ với mình:
- Rồi sẽ qua thôi con ạ. Chắc chỉ chiều nay nước sẽ rút.
Và thật bất ngờ cứ như có phép lạ. Đến trưa mưa bắt đầu ngừng rơi, nước
sông cũng không dâng lên cao nữa. Và chẳng mấy chốc nước sông đã rút hẳn cảnh
vật lại trở về như cũ nhưng xơ xác như sau một trận đánh. Hôm sau nắng đã trải
dài trên sông.
Dòng sông lại trở về bản chất hiền lành. Người dân quê tôi lại vui vẻ trở về với
công việc thường ngày. Sau lũ, người ta thi nhau vớt củi, vớt gỗ trôi từ thượng
nguồn về, và cá tôm cũng như nhiều hơn. Đất đai cũng màu mỡ hơn báo hiệu một
mùa bội thu sắp tới. Tàu thuyền lại tấp nập trên bến bãi. Bọn trẻ chúng tôi lại đưa
nhau ra bãi bồi đá bóng, tắm sông. Dòng sông quê tôi dẫu có lúc nổi giận và khó
hiểu song với chúng tôi đó là một nơi vô cùng lí tưởng, mai này dù có xa quê bao
lâu chắc tôi vẫn không thể quên được con sông này và sẽ nhớ nhất là dòng sông
những ngày mưa lũ.

(Bài của em Trương Khánh Linh – Lớp 6D, Trường THCS Minh Khai)
Đề bài:Tưởng tượng một kết thúc khác của truyện Ông lão đánh cá và con cá
vàng.
Bài viết
Đợi mãi không thấy cá vàng bơi lên, ông lão chèo thuyền ngược trở về. Sóng
gió bão bùng đã qua đi. Biển xanh trở lại hiền hòa. Ông lão chèo thuyền mà lòng
chất chứa bao nỗi ưu tư. Không biết có nên trở lại ngôi nhà ấy nữa không? Nó giờ
đây đâu còn là ngôi nhà của mình nữa. Và người ở trong ngôi nhà ấy cũng đâu
phải là người vợ đói khổ của mình. Nhưng không biết quỷ thần xui khiến thế nào
mà đôi chân lão vẫn đưa lão về mảnh đất ngày xưa.
Nhưng! Chuyện gì đang xảy ra thế này? Tất cả đã biến đi đâu? Tại sao không
còn ai nữa? Mụ vợ của ta đâu? Trước mắt ông lão không phải là một cung điện
13


nguy nga có Long Vương đang ngự giữa hàng trăm lính canh như lão nghĩ. Kì lạ
thay! Trước mặt ông là khung cảnh cũ. Mái lều lụp xụp, rách nát và xiêu vẹo đứng
bên cạnh chiếc máng lợn đã sứt mẻ cả hai đầu. Xa xa ngoài kia vẫn còn cây sào
nơi lão vắt chiếc lưới đã vá chằng vá đụp. Chưa hiểu chuyện gì, lão gọi to:
- Bẩm Long Vương! Lão già khốn khổ đã trở về!
Không thấy có tiếng trả lời, lão lại tiếp:
- Thưa nữ hoàng!
- Thưa nhất phẩm phu nhân!
- Bà lão ơi! Tôi đã trở về rồi!
Vẫn không có tiếng trả lời. Lão già vội bước vào trong. Không thấy có ai. Nhìn
quanh lão thấy trên bàn có một mảnh giấy với những nét chữ nguệch ngoạc được
viết vội vàng. Lão mang ra soi dưới nắng và bắt đầu đánh vần từng nét chữ:
“Ông lão ơi! Tôi có lỗi với ông nhiều lắm! Không ngờ bao năm sống khổ sở với
nhau tôi còn chịu được mà giờ đây tôi lại thế này! Lòng tham của tôi quá lớn đến
biển sâu cũng phải kinh hoàng. Tôi không còn mặt mũi nào nhìn ông nữa. Chào

ông! Tôi đi!”
Tờ giấy trên tay ông lão từ từ rơi xuống. Nơi góc mắt lão hình như ươn ướt.
Lão ngồi thụp xuống, đôi mắt xa xăm nhìn sâu vào biển cả. Đầu lão tê dại, miên
man. Lão ngồi đó suốt một ngày đêm. Nhưng rồi lão bật dậy, quay mũi thuyền lão
lại ra khơi.
- Cá vàng ơi! Cá vàng ơi! Đời này ta không dám quên ơn cá. Mụ vợ nhà ta đã
biết lỗi rồi. Ta xin cá hãy đưa mụ trở về với ta. Ta hứa từ nay sẽ không bao giờ làm
phiền cá nữa.
Cá vàng nhìn lão rồi lặng lẽ lặn xuống biển sâu. Lão buồn bã, thất vọng trở về.
Nhưng vừa đặt chân lên bờ cát, thì...
Ai đang đứng trước mặt lão thé này? Vẫn bộ quần áo rách tươm, đầu không
quấn khăn chân đi đất. Khuôn mặt nhăn nhúm, gầy sọp đi. Dù tóc đã bạc hơn, lão
vẫn nhận ra, đó chính là vợ lão.
Vợ chồng gặp nhau trong lặng im và nước mắt. Rồi họ cùng đi về căn lều rách
nát nhưng đã gắn bó với họ suốt mấy chục năm qua.
Và ngoài kia gió đại dương thổi vào mát rượi và biển xanh vỗ sóng êm đềm.
(Bài của Phạm Khánh Ngân lớp 6D- Trường THCS Minh Khai - thành phố
Thanh Hóa)
Quả thật trí tưởng tượng của các em khá phong phú, ngộ nghĩnh nhưng rất có ý
nghĩa. Đọc những đoạn văn như vậy, tôi bỗng thấy lòng thật vui vì công việc mình
làm đã cho quả ngọt.
Kết quả bài viết số 6 năm học 2014-2015.
Tiết 121-122: Viết bài Tập làm văn miêu tả sáng tạo.
14


Đề bài: Hình dung những đổi mới của trường em sau mười năm em có dịp quay
về thăm trường.
Đề bài: Em hãy tả lại khu vườn mùa xuân vào một buổi sáng .
Điểm

Giỏi
Khá
TB
Yếu
Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Lớp
6B
40
18
45
16
40
6
15
0
0
6D
40
16
40
18
45

6
15
0
0
6C
40
18
45
16
40
6
15
0
0
Có thể thấy, chất lượng bài làm của học sinh đã được nâng lên đáng kể. Các
em đã có những câu văn diễn đạt có hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng độc đáo.
Từ những bài học tác phẩm văn học với các bài học Tập làm văn, học sinh thực
sự thấy hứng thú với việc học văn, bản thân giáo viên cũng nhận thấy mỗi giờ học
là một giờ sáng tạo. Và giáo viên cũng cần luôn trao đổi với đồng nghiệp về chuyên
môn, nhất là phương pháp ra đề theo hướng mở. Kết hợp với trau dồi kiến thức
thực tế để giúp học sinh thấy rằng môn Ngữ văn là một môn học gắn với thực tế và
phát triển tư duy sáng tạo. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
- Kết luận:
Bất cứ môn học nào, việc nắm vững các tri thức mới đòi hỏi sự nỗ lực cố
gắng của học sinh. Trong sự nỗ lực đó, các kĩ năng được rèn luyện sẽ phát triển
những đức tính sáng tạo, kiên trì, tỉ mỉ, thận trọng... Học tập môn Ngữ văn là để
học sinh có vốn sống, vốn hiểu biết, hình thành nhân cách của người lao động có
văn hoá.

Việc rèn các kĩ năng cho học sinh trong giờ dạy học môn Ngữ văn không kém
phần quan trọng so với việc cung cấp kiến thức và giáo dục những thái độ đúng đắn
cho các em. Thiết nghĩ các kĩ năng liên tưởng, tưởng tượng là vô cùng cần thiết đối
với học sinh. Bởi đây là bước đầu để khơi dậy khả năng sáng tạo ở học sinh. Sự
sáng tạo trong văn chương không hề giống nhau, bởi sự liên tưởng, tưởng tượng
của mỗi người là khác nhau. Để giờ dạy học Văn thật sự trở nên hứng thú với học
sinh, khắc phục tình trạng học sinh thờ ơ, ngại học môn Ngữ văn, đòi hỏi người
giáo viên phải luôn có những tìm tòi đổi mới trong cách dạy học. Phải dạy học sinh
biết tự tìm lấy kiến thức và biết diễn đạt những suy nghĩ theo cách riêng của mình.
Bởi vì chỉ khi nào kiến thức thu nhận bằng con đường tự khám phá mới là kiến
thức vững chắc và đáng tin cậy nhất.
Bản thân tôi cũng đã từng bước áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào trong các
giờ dạy Ngữ văn một cách linh hoạt, đồng thời cùng các đồng nghiệp trong tổ
chuyên môn tiếp tục tìm tòi thêm những giải pháp thực hiện, nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng những giờ dạy của mình.
- Đề xuất:
15


* Về phía nhà trường:
- Thư viện nhà trường cần phải bổ sung đầy đủ về số lượng, phong phú về chủng
loại tranh ảnh, băng đĩa, sách tham khảo để phục vụ tốt cho quá trình giảng dạy.
- Cần phải có phòng đọc rộng rãi, thoáng đãng cho học sinh và giáo viên tiện
học tập và nghiên cứu.
* Về phía các cấp quản lí:
- Cần có sự đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện đại đáp
ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục.
- Tài liệu tham khảo.
1. Lý luận đổi mới mục tiêu, phương pháp dạy học – Nguyễn Văn Cường - Nhà
xuất bản ĐH Sư phạm TP Hồ Chí Minh.

2. Chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông – Bộ giáo dục và đào tạo
( 2014)
3. Kiểm tra, đánh giá trong giáo dục- Nguyễn Công Khanh, Đào Thị Oanh- Nhà
xuất bản Đại học Sư phạm ( 2014)
4. Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi – Sở GD & ĐT Thanh Hóa (2015).
5. SGK Ngữ văn lớp 6 Tập 1, Tập 2- NXB Giáo dục (2014)
6. Dạy học làm văn theo hướng mở - Trần Đình Sử, Văn học và tuổi trẻ, số tháng 1
năm 2012.
7.Tài liệu tập huấn chuyên môn do phòng giáo dục đào tạo tổ chức
Trên đây là kinh nghiệm của bản thân tôi, rất mong được sự đóng sự đóng góp ý
kiến của các bạn đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để việc dạy - học môn
Ngữ văn đạt hiệu quả cao hơn. Do kiến thức và kinh nghiệm bản thân còn có hạn,
Tôi rất mong các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp góp ý xây dựng , chỉ ra
những sai sót còn tồn tại đề tài được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin cam đoan SKKN là do tôi
viết, không sao chép.
Thành phố Thanh Hóa, ngày 26 tháng 03 năm 2017
Người thực hiện:

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trịnh Thị Phương

16


17




×