Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một vài suy nghĩ về việc dạy bài đọc thêm sau phút chia ly của đoàn thị điểm trong chương trình ngữ văn 7 ở trường THCS lâm phú, huyện lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.88 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
Mục lục

Số trang
1

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.

2,3.4

1.2. Mục đích nghiên cứu.

4

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

5

1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung

5

2.1. Cơ sở lí luận.
2.2. Thực trạng vấn đề.

5,6
6,7,8


2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề.

8,9,10,11,12,13

2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm.

13,14

3. Kết luận, Kiến nghị
3.1. Kết luận

14,15

3.2. Kiến nghị

15,16
Tài liệu tham khảo

17

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.

Trong luật giáo dục năm 2005 (Điều 5) quy định: “Phương pháp giáo dục
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học;
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học
tập và ý chí vươn lên”. Đồng thời mục tiêu giáo dục phổ thông mà Bộ giáo dục

xác định là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Trong luật Giáo dục năm 2005 (Điều 28.2) xác định: “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”.
Ngày nay, khoa học phát triển như vũ bão, đặc biệt là công nghệ thông tin,
tạo nên những cuộc cách mạng lớn về thông tin khoa học, trong cách suy nghĩ,
cũng như trong cách dạy và cách học. Có một thực trạng đáng báo động là: Các
môn khoa học xã hội dường như không còn thu hút được học sinh say mê như
trước nữa. Vấn đề đặt ra đối với mỗi giáo viên dạy môn văn: phải tìm ra một
phương pháp dạy học mới phù hợp với tình hình thực tại.
Văn học là một môn khoa học đặc thù có đối tượng, mục tiêu và phương
pháp nghiên cứu riêng nhưng đồng thời nó còn là môn khoa học công cụ, bởi
qua môn học các em sẽ được rèn các kĩ năng nghe-nói-đọc-viết, khi thuần thục
các kỹ năng này giúp người học dễ dàng tiếp cận hơn các môn học khác. Làm
2


thế nào để học sinh nhận thức được môn Ngữ văn là một trong những môn học
chiếm vị trí quan trọng trong nhà trường? Học sinh phải hiểu được rằng văn
chương giúp cho tâm hồn con người phong phú, tinh tế hơn, nhạy cảm với
những biến thái tinh vi của tạo vật và lòng người. Có được tâm hồn như thế, con
người sẽ ứng xử với nhau có văn hoá hơn, bớt thô lỗ, phàm tục và độc ác. Văn
chương giúp các em hiểu mình, được sống thực sự với bản thân mình.

Trên con đường tìm hiểu văn chương bồi dưỡng các em thế giới quan tiến
bộ, nhân sinh quan lành mạnh góp phần xây dựng ở các em nhân cách con người
Việt Nam mới. Văn học sẽ trang bị cho các em biết bao kiến thức, bao tình cảm
tốt đẹp về lòng nhân ái, dũng cảm, ý chí chủ động sáng tạo trong cuộc sống, khát
vọng vươn tới cái chân - thiện - mỹ của cuộc sống.
Trước sự thay đổi, biến chuyển của xã hội và những yêu cầu mới đặt ra,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những thay đổi trong chương trình sách giáo khoa
đáp ứng một phần những yêu cầu mới. Bắt đầu từ năm học 2002 - 2003 theo chủ
trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, sách giáo khoa Ngữ văn 6 đã được đưa vào
sử dụng đại trà trong các trường Trung học cơ sở và đến năm học 2006 - 2007,
toàn bộ sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở đã được đưa vào sử dụng đại
trà trong các trường Trung học cơ sở. Cho đến nay trải qua hơn mười năm thực
hiện theo khung phân phối chương trình đã không ít lần có sự sửa đổi bổ sung,
đặc biệt là quá trình giảm tải nội dung cho phù hợp với tình hình thực tế và nhận
thức của học sinh nhưng đã cố gắng đảm bảo lượng kiến thức đầy đủ và trải
rộng nhằm cung cấp cho học sinh những thông tin cần thiết và đầy đủ của từng
khối lớp cụ thể, đó là việc chúng ta đã chuyển một số tác bài học trước đây là
dạy chính khóa nhưng bây giờ được chuyển sang bài dạy thêm và và bài tự học
có hướng dẫn nhằm giảm tải lượng kiến thức hàn lâm cho học sinh.
Đối với chương trình Ngữ văn 7 phần Văn học trữ tình trung đại Việt Nam
là phần được giảm tải tương đối nhiều và hợp lí giúp giáo viên dễ giảng dạy
đồng thời học sinh có cách tiếp cận tương đối nhẹ nhàng. Điều này đã thể hiện
kịp thời sự nhạy bén của các nhà quản lí giáo dục trong việc xác định mục tiêu,
3


trọng tâm, trọng điểm của chương trình. Nhưng rất tiếc ngoài một số ít giáo viên
hiểu rõ bản chất vấn đề thì vẫn còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa hiểu
hết ý nghĩa của việc giảm tải này nên nảy sinh tâm lí xem nhẹ lượng kiến thức
cần cung cấp cho học sinh, hoặc còn một bộ phận hiểu được tinh thần giảm tải

thì loay hoay không biết tiến trình cụ thể của một tiết dạy bài đọc thêm cần thi
công như thế nào cho đúng phương pháp. Vì vậy đã nảy sinh những tình huống
“dở khóc dở cười” và những cuộc tranh luận nảy lửa ở những tiết dự giờ rơi vào
bài đọc thêm làm nảy sinh những quan điểm trái chiều cho cả người dự và người
dạy.
Là một giáo viên dạy văn, thời gian công tác chưa nhiều vốn hiểu biết
chưa thực sự sâu rộng, kinh nghiệm nghề nghiệp còn ít ỏi và thời gian có hạn,
xuất phát từ tình hình thực tế từ ngôi trường bản thân tôi đang giảng dạy và sự
trao đổi của các đồng nghiệp ở các trường bạn, để giải quyết thực trạng trên
trong khuôn khổ nhỏ hẹp của sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin lựa chọn đề tài:
Một vài suy nghĩ về việc dạy bài đọc thêm “Sau phút chia li” của Đoàn Thị
Điểm trong chương trình Ngữ văn 7 ở trường THCS Lâm Phú.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Để tiến hành cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của một tác
phẩm đọc thêm trong chương trình ngữ văn 7 có nhiều con đường và cách làm
khác nhau mà các đồng nghiệp đã và đang thực hiện, qua đó ít nhiều gặt hái
được những thành công nhất định. Trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này
mục đích cá nhân tôi quan tâm trong quá trình thực hiện đó là:
- Học sinh có khả năng biết tự sàng lọc những đơn vị kiến thức cơ bản của
một tác phẩm văn học khi tiếp xúc nhằm làm nổi bật lên được giá trị nội dung tư
tưởng, đặc sắc nghệ thuật và làm nổi bật được phong cách tác giả đó.
- Thông qua các hoạt động học tập trên lớp học sinh phát huy được khả năng
tự tin, chủ động sáng tạo của mình.

4


- Rèn cho học sinh phương pháp học lĩnh hội các tri thức khoa học bộ môn
bằng con đường tự học của chính cá nhân học sinh.
- Về đánh giá có sự kết hợp đánh giá của thầy và của trò với khả năng tự

đánh giá của học sinh.
- Qua tiếp thu kiến thức của bài học học sinh biết vận dụng vào thực tế
những gì đã tiếp nhận một cách linh hoạt và có hiệu quả cao nhất. Đồng thời
đem lại niềm vui hứng thú trong học tập không chỉ môn Ngữ văn mà cả các môn
học khác.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của tôi trong sáng kiến kinh nghiệm này là những
kinh nghiệm bản thân khi dạy tác phẩm đọc thêm “Sau phút chia li” của Đoàn
Thị Điểm trong chương trình Ngữ văn 7; đối tượng áp dụng là học sinh lớp 7A
tại trường THCS Lâm Phú, Lang Chánh, Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tiến hành sáng kiến kinh nghiệm này cá nhân tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như sau: tra cứu tài liệu; điều tra khảo sát thực tế, thu thập
thông tin; phương pháp thống kê, xử lý số liệu...

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Cho đến nay đã có rất nhiều đồng nghiệp đã đưa ra những cách làm hay
và khoa học trong việc giảng dạy những bài đọc thêm và đã thu được những kết
quả khá khả quan, điều này cho thấy các đồng nghiệp ấy đã có sự tìm tòi nghiên
cứu và sáng tạo nhằm đảm bảo cung cấp một lượng kiến thức vừa đủ cho học
sinh, điều này được thể hiện rõ trong việc xác định mục tiêu cụ thể cho một tiết
dạy, lượng kiến thức chuẩn, kĩ năng thái độ đúng đắn thông qua nghiên cứu
chuẩn kiến thức kĩ năng .
Riêng cá nhân tôi, trải qua quá trình giảng dạy thực tế trên lớp với những
cách làm khác nhau, áp dụng cho các đối tượng học sinh, bản thân tôi thấy rằng:
5


dù có làm cách nào đi chăng nữa giáo viên vẫn phải căn cứ vào tình hình thực tế

của lớp học, đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh, đặc thù vùng miền, đảm bảo
được các yêu cầu cơ bản của môn học nhưng không được làm mất đi tính đặc
thù riêng của môn học đó. Trong khuôn khổ đề tài này, cơ sở tôi quan tâm thực
hiện đó là bám sát vào chuẩn kiến thức kĩ năng để đảm bảo tốt các yêu cầu của
bài học, cụ thể đó là:
- Thông qua tiết dạy, lựa chọn chính xác được lượng kiến thức trọng tâm
của bài dạy, cụ thể lượng kiến thức phải đáp ứng được các tiêu chí trong việc
làm nổi bật được: nội dung tư tưởng, đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm, những
cảm xúc chủ đạo của tác phẩm, phong cách của tác giả.
- Thông qua các hoạt động học tập trên lớp học sinh phát huy được khả
năng tự tin, chủ động sáng tạo của mình.
- Rèn cho học sinh phương pháp học lĩnh hội các tri thức khoa học bộ môn
bằng con đường tự học của chính cá nhân học sinh.
- Về đánh giá có sự kết hợp đánh giá của thầy và của trò với khả năng tự
đánh giá của học sinh.
- Qua tiếp thu kiến thức của bài học học sinh biết vận dụng vào thực tế
những gì đã tiếp nhận một cách linh hoạt và có hiệu quả cao nhất. Đồng thời
đem lại niềm vui hứng thú trong học tập, khơi gợi những cảm xúc văn chương
dù rất nhỏ ở các em về môn Ngữ văn để tạo hiệu ứng lây lan cảm xúc sang các
môn học khác.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
2.2.1 Nội dung chương trình
Đối với sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành, toàn bộ phần thơ văn trung
đại Việt Nam được cấu tạo ở cả 4 lớp: 6, 7, 8, 9 và riêng phần thơ trữ tình thì
được dạy học ở lớp 7. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7 được học 5 bài chính khóa:
Nam quốc Sơn hà (Sông núi nước Nam) của Lý Thường Kiệt, Tụng giá hoàn
kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang Khải, Bánh trôi nước của Hồ Xuân
6



Hương, Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, Bạn đến chơi nhà của
Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên ở đây vẫn có 3 bài đọc thêm được cho là khó đó là:
Bài ca Côn Sơn (Côn Sơn ca - trích) của Nguyễn Trãi, Sau phút chia li (trích
Chinh phụ ngâm khúc) của Đoàn Thị Điểm, Thiên Trường vãn vọng (Buổi chiều
đứng ở phủ Thiên Trường trông ra) của Trần Nhân Tông
Tuy chỉ có 3 bài thơ đọc thêm nhưng đã chứa đựng nhiều giá trị tinh thần
cao quý của dân tộc: niềm vui giao hoà trọn vẹn với thiên nhiên tạo vật (Bài ca
Côn Sơn), nỗi niềm buồn đau và khát khao hạnh phúc lứa đôi cần được thông
cảm (Sau phút chia li), tình yêu quê hương đất nước (Thiên trường vãn vọng)...
Về nghệ thuật, mỗi tác phẩm có vẻ đẹp hấp dẫn riêng, 3 tác phẩm thuộc 3 thể
thơ: lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt Đường luật.
Ở lớp 7, độ tuổi học sinh là 13 tuổi với số lượng tác phẩm như trên là vừa
sức học sinh. Đảm bảo được tính vừa sức thì sẽ phát huy được tính tích cực ở
học sinh. Hướng tới mục tiêu cần đạt: Hình thành rèn luyện những kỹ năng quan
trọng trong thu nạp thông tin (nghe - đọc) và phát mại thông tin (nói - viết) của
học sinh.
2.2.2 Giáo viên
Trên thực tế, đại bộ phận giáo viên dạy môn Ngữ văn đã được tiếp thu
tinh thần giảm tải theo phân phối chương trình mới. Tuy nhiên việc nắm vững và
thực thi được những yêu cầu để triển khai trong các giờ dạy của giáo viên là
chưa đồng bộ và có thực trạng làm không đúng tinh thần, cụ thể qua khảo sát từ
thực tế ở trường mình và khảo sát ở trường bạn tôi phát hiện có một thực tế như
sau: các tiết dạy bài đọc thêm giáo viên chưa sàng lọc kiến thức mà vẫn dạy đầy
đủ các phần và chuyển tải tất cả nội dung bài học; các đề mục và tiểu mục được
giáo viên ghi bảng giống một tiết học bình thường; giáo viên chuẩn bị nội dung
bài dạy thường sơ sài; không giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh chuẩn bị ở nhà
trước khi bắt đầu tiết học; giáo viên dạy qua loa cho hết tiết nhằm đối phó với
chuyên môn nhà trường; không dạy mà dành thời gian cho việc dạy bù các tiết
học bị chậm chương trình hoặc tiến hành ôn tập các phần nội dung bài học khác.
7



Với việc chuẩn bị các nội dung bài dạy của giáo viên như vậy, dẫn đến
hiệu quả đạt được của tiết học không cao, học sinh tiếp thu bài thụ động, dễ nảy
sinh tâm lí coi thường tiết học và làm mất dần tình yêu đối với môn học.
2.2.3 Học sinh
Xu hướng hiện nay là học sinh không thích học văn, ngại học văn nhất là
các tác phẩm văn học trung đại là hiện trạng hết sức đáng lo ngại. Hứng thú học
tập không có, kiến thức nghèo nàn, thiếu hụt, vốn từ quá ít ỏi, cảm nhận văn học
sơ sài, hời hợt, thiếu chiều sâu... đó là một trong những nguyên nhân khiến cho
việc dạy - học các tác phẩm thơ trữ tình trung đại chính khóa không đạt được
mục tiêu chứ chưa nói gì đến tác phẩm đọc thêm vốn các em đã có tâm lí lâu nay
xem nhẹ là không được đưa vào chương trình thi.
2.2.4 Gia đình học sinh
Đối tượng học sinh của tôi tất cả các em đều là người miền núi cao thuộc
dân tộc thiểu số, cha mẹ ít quan tâm, điều kiện kinh tế gia đình còn nhiều khó
khăn, quãng đường di chuyển đến trường rất xa nhà nên đi lại rất vất vả, vốn từ
vựng vừa yếu vừa thiếu, vật chất thiếu thốn nên chưa đầu tư vào việc mua sách
tham khảo cho con, vốn cổ văn của các em vì thế càng trở nên nghèo nàn.
2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề.
2.3.1Chuẩn bị
Qua quá trình giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung đại ở lớp 7 tôi đã
tiến hành những biện pháp tổ chức hoạt động dạy - học nhằm nâng cao chất
lượng học tập của học sinh. Các giải pháp này được xây dựng trên cơ sở dạy học theo hướng tích hợp và tích cực.
a. Giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt
động.
Đọc văn bản, tìm hiểu kĩ phần chú thích để qua đó giáo viên, học sinh có thể:
- Xác định rõ phần kiến thức cần giảng dạy, loại bỏ phần kiến thức không
trọng tâm để giảm tải.


8


- Phần kiến thức được lựa chọn đưa vào giảng dạy phải làm nổi bật được
kiến thức, kĩ năng, nội dung tử tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm và quan
trọng phải làm toát lên được phong cách của tác giả.
- Biết cách đọc văn bản với giọng đọc phù hợp.
- Biết cách nhận xét cách đọc của các bạn trong lớp có đạt yêu cầu hay
không, học sinh tự chỉnh sửa cách đọc cho mình, cho bạn.
- Nhớ nội dung văn bản.
- Nhận diện được thể thơ của các tác phẩm được học.
- Hiểu kĩ sâu hơn chữ nghĩa trong văn bản để có cơ sở hiểu sâu văn bản.
Đối với học sinh của tôi, học sinh ở miền núi, trình độ văn hoá, ngôn ngữ còn
hạn chế, thiếu sách tra cứu thì việc làm này là hết sức quan trọng.
- Đối với một số bài thơ các em đọc kĩ phần dịch nghĩa, phần giải nghĩa
từng chữ để hiểu thêm về nội dung của bài thơ.
b. Hệ thống câu hỏi có sự phân hoá ít nhiều về mức độ yêu cầu đối với từng
loại đối tượng học sinh: yếu, trung bình, khá, giỏi.
- Câu hỏi phải đi từ câu hỏi khái quát đến cụ thể, phải có những câu hỏi
gợi.
- Câu hỏi phải theo trình tự học sinh thực hiện các hoạt động như sau:
Quan sát → phát hiện → thống kê → hệ thống phân tích → tổng hợp → liên
tưởng → suy luận → tưởng tượng.
- Hình thức hỏi có một số hình thức mới đó là loại câu hỏi được thể hiện
bằng hình thức yêu cầu học sinh lập sơ đồ tư duy, hoặc lựa chọn một kết luận
đúng trong một bảng liệt kê gồm nhiều giả thiết.
c. Hoạt động của học sinh.
- Học sinh chuẩn bị kĩ nội dung bài học trước khi đến lớp sau khi có sự
phân công nhiệm vụ cụ thể của giáo viên.
- Học sinh hoạt động dưới hình thức hoạt động độc lập, hoạt động theo nhóm.

- Học sinh trả lời các câu hỏi của giáo viên và nhận xét về câu trả lời của
các học sinh khác.
9


- Học sinh liên hệ, vận dụng các kiến thức lịch sử để có thể hiểu được nội
dung của tác phẩm → trả lời được câu hỏi của giáo viên.
d. Giáo viên là người bình giảng những "nhãn tự" (mắt thơ) của bài thơ.
“Nhãn tự” là điểm sáng trong một bài thơ làm phát lộ tài năng của người
nghệ sĩ. Muốn tìm hiểu bài thơ không thể bỏ qua các nhãn tự. Cổ nhân đã dạy:
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, soi vào đôi mắt sẽ thấy được hồn người, cái ẩn chứa
sâu kín bên trong, cái vô thanh không thể nói được thành lời, và với “nhãn tự”,
qua đó có thể thấy được tất cả các thông điệp người viết nhắn nhủ, tâm tư kí
thác, “đọc” được cái hồn của tác phẩm. Vì thế việc phát hiện và bình giảng nhãn
tự của bài thơ là vô cùng quan trọng, đây là cách làm mà giáo viên góp phần neo
đậu tác phẩm đó trong lòng học sinh.
2.3.2Thực nghiệm trên lớp.
Hình thức: Thực hiện bài dạy trên lớp 7A trường THCS Lâm Phú, năm
học 2016 - 2017.
Bài dạy:

Đọc thêm: Sau phút chia li.
(Trích Chinh phụ ngâm khúc)
(Đoàn Thị Điểm)

Cách thức tiến hành.
Phương pháp: Giáo viên tổ chức dạy học theo phương pháp kết hợp giữa
đọc sáng tạo, gợi tìm và đặt câu hỏi.
Bước chuẩn bị:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm theo đúng yêu cầu về giọng

đọc: Giọng chậm chậm, đều đều, buồn buồn. Đọc kĩ các chú thích để biết về tác
giả Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn; về tác phẩm: thể thơ song thất lục bát và
hiểu được nghĩa của các từ ngữ khó.
Giáo viên yêu cầu học sinh soạn bài theo hệ thống câu hỏi trong sách giáo
khoa tiến hành theo các nhóm có sự chuẩn bị từ trước. Hiểu thêm hoàn cảnh lịch
sử ra đời của tác phẩm, tìm hiểu vấn đề cơ bản và những vấn đề xung quanh vấn
đề cơ bản của tác phẩm.
10


Bước lên lớp:
GV hướng dẫn học sinh hoạt động bằng hệ thống câu hỏi. Cụ thể là:
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh I. Hướng dẫn tìm hiểu chung
dựa vào chú thích (*) tìm hiểu về tác 1. Tác giả:
giả và thể thơ song thất lục bát.

- Đặng Trần Côn, người làng Nhân

Giáo viên:

Mục nay là Thanh Xuân, Hà Nội –

- Qua việc đọc khi chuẩn bị bài, em sống nửa đầu thế kỉ XVIII.
hãy cho biết những nét khái quát về - Dịch giả: Đoàn Thị Điểm (1705 –
tác giả Đặng Trần Côn và Đoàn Thị 1784), người Văn Giang nay là Yên
Điểm.

Mĩ, Bắc Ninh.


- Nêu hiểu biết của em về thể thơ 2. Tác phẩm:
song thất lục bát?

- Được viết bằng chữ Hán nhưng

- Học sinh làm việc độc lập.

được diễn Nôm bằng thể thơ song

- Học sinh phát biểu - học sinh khác thất lục bát.
nhận xét - giáo viên nhận xét bổ sung.

- Thể thơ song thất lục bát là thể thơ

- Giáo viên chiếu lên máy những nét do người VN sáng tạo gồm hai câu 7
khái quát về các tác giả và đặc điểm chữ (song thất) tiếp đến hai câu 6 - 8
của thể thơ song thất lục bát.

(lục bát).

- GV nêu yêu cầu cách đọc .
- GV đọc mẫu một lần.
- 2 HS đọc theo hướng dẫn của GV HS khác nhận xét cách đọc.

3. Đọc, từ ngữ khó.

→ GV nhận xét cách đọc của HS.

Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh II. Hướng dẫn tìm hiểu chi tiết.

tìm hiểu chi tiết.

1. Bốn câu thơ đầu.

- GV yêu cầu HS đọc diễn cảm 4 câu
11


đầu của đoạn.

- Nghệ thuật đối: chàng đi – thiếp về:

- Trên cơ sở sự chuẩn bị ở nhà của hs gợi cảnh chia li chàng vất vả, thiếp
gv yêu cầu các nhóm trình bày bài cô đơn.
chuẩn bị của mình theo nội dung câu - Sự ngăn cách khắc nghiệt, nỗi sầu
hỏi (sgk). Các nhóm nhận xét, bổ nặng nề phủ lên cảnh vật.
sung, gv kết luận.
- GV đưa ra lời bình.
→ Phản ánh hiện thực chia li phũ
phàng, nỗi xót xa cho hạnh phúc lứa
đôi bị chia cắt.
2. Bốn câu thơ giữa.
- GV yêu cầu HS đọc diễn cảm 4 câu
giữa của đoạn.

- Nghệ thuật đối: chàng còn ngảnh lại

- Trên cơ sở sự chuẩn bị ở nhà, gv – thiếp hãy trông sang, điệp ngữ:
yêu cầu hs trình bày độc lập bài Tiêu Tương – Hàm Dương gợi lên:
chuẩn bị của mình theo nội dung câu + Nỗi sầu chia li trong sự tăng

hỏi (sgk). Hs nhận xét, gv kết luận.

trưởng.
+ Sự chia li về thể xác, cuộc sống
nhưng tâm hồn vẫn gắn bó tới tha
thiết.
→ Sự oái oăm, nghịch chướng: gắn

- GV tiểu kết .

bó mà không được gắn bó, gắn bó
mà phải chia li.
3. Bốn câu thơ cuối:

- GV yêu cầu HS đọc diễn cảm 4 câu
cuối của đoạn.

- Nghệ thuật: phép đối, điệp ngữ,

- Trên cơ sở sự chuẩn bị ở nhà của hs điệp ý (cùng, thấy, ngàn dâu, xanh
12


gv yêu cầu các nhóm trình bày bài xanh, xanh ngắt, cùng trông...): Nỗi
chuẩn bị của mình theo nội dung câu sầu chia li oái oăm, nghịch chướng
hỏi (sgk). Các nhóm nhận xét, bổ đến cực độ.
sung,

- Nỗi buồn lan tỏa vào trời xanh
mênh mông, vô tận.


Gv kết luận.

→ Chữ “sầu”: có vai trò đúc kết, trở
thành khối sầu, nỗi sầu cho cả đoạn
thơ. Đây là “nhãn tự” của đoạn thơ
góp phần tạo nên âm hưởng trầm
buồn cho bài thơ.
III. Hướng dẫn tổng kết

Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh 1. Nội dung:
tổng kết.

- Nỗi sầu chia li sau phút chia tay,

- GV: Khái quát nội dung và nghệ tiếng nói tố cáo chiến tranh phi
thuật đặc sắc của đoạn trích. Hs làm nghĩa, niềm khao khát hạnh phúc lứa
việc độc lập.

đôi của con người trong xã hội cũ.
2. Nghệ thuật:
- Cách sử dụng các biện pháp tu từ
điêu luyện, hiệu quả; thể thơ sáng tạo
của cha ông trong diễn tả tâm trạng
con người.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Với việc dạy học theo hướng giảm tải trên tinh thần tích cực đối với tác
phẩm trữ tình trung đại ở lớp 7A như trên, bản thân tôi thấy đã phát huy được
tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh, học sinh biết phân tích khái quát

sâu sắc, biết tự bộc lộ cảm xúc của mình, biết đánh giá về tác phẩm. Học sinh có
điều kiện gợi nhắc kiến thức của các môn học khác như Lịch sử trong giờ học
Văn, học sinh sẽ biết được về phép điệp ngữ trước khi học giờ Tiếng Việt, học
13


sinh sẽ có thói quen soạn bài, chuẩn bị bài có ý thức tìm vấn đề chính, vấn đề cơ
bản, cách khai thác vấn đề có hiệu quả. Để rồi trước các vấn đề trong cuộc sống
các em có cảm hứng, cách giải quyết hợp lí. Điều này được kiểm nghiệm qua
bài kiểm tra 15 phút (cảm nhận của em về nỗi sầu của người chinh phụ qua
đoạn trích) với kết quả mà trong đó tỉ lệ đạt điểm khá giỏi là tương đối cao.
Bảng thống kê kết quả khảo sát của học sinh sau khi học xong bài học lớp 7A:
TSHS
40

Giỏi
SL
TL %
4
10

Khá
SL
TL %
8
20

Trung bình
SL
TL %

20
50

Yếu
SL
TL %
8
20

Không những bài dạy của tôi tác động trực tiếp đến việc bồi dưỡng hứng
thú, nâng cao chất lượng học sinh mà với cách giảng dạy theo hướng như vậy,
tôi đã góp phần làm thay đổi cách nhìn nhận của giáo viên trong nhà trường về
cách thực thi một bài dạy đọc thêm và điều quan trọng, tôi đã tiên phong mở một
lối mòn để đồng nghiệp trong tổ, trong trường tham khảo và suy ngẫm.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua quá trình giảng dạy tác phẩm đọc thêm trữ tình trung đại Việt Nam, tôi
rút ra kết luận như sau:
Thứ nhất tôi thấy để đạt được những kết quả trên đòi hỏi người giáo viên
phải thật sự tâm huyết vì "chỉ có hiểu biết mới gợi được hiểu biết, chỉ có tình
yêu mới gợi được tình yêu". Giáo viên phải nắm vững kiến thức đặc trưng thể
loại, chuẩn bị kỹ bài dạy, có hệ thống câu hỏi phù hợp, phải có kiến thức về các
môn học khác. Giáo viên phải có câu hỏi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một
cách chu đáo, cặn kẽ. Cần xác định các tác phẩm thơ trữ tình trung đại vấn đề
mà tác phẩm đặt ra ngoài là tâm trạng, cảm xúc của chủ thể trữ tình còn mang
tính cộng đồng, xã hội. Cần xác định được trọng tâm đơn vị kiến thức nhằm làm
nổi bật được nội dung tư tưởng, đặc sắc nghệ thuật cũng như phong cách tác giả.

14



Thứ hai khi tiến hành tiết dạy giáo viên cần linh hoạt trong các phần, các
khâu, trong vai trò là người tổ chức các hoạt động cho học sinh qua đó tập trung
sự thu hút và hứng thú của các em trong môn dạy của mình.
Thứ ba thông qua tiết dạy giúp giáo viên hiểu thêm các mặt tâm lí, sở trường
sở đoản của từng học sinh trong lớp học, rồi từ đó có phương pháp giáo dục
thích hợp cho từng đối tượng nhằm khơi gợi tiềm năng vốn có của mỗi em mà
định hướng, góp ý kịp thời về sự lựa chọn nghề nghiệp cho các em sau này.
Thứ tư để thực hiện một tiết dạy văn bản văn học trung đại phần đọc thêm
được triển khai theo đúng hướng và đạt hiệu quả như mong muốn giáo viên phải
không ngừng cập nhật thông tin về tác phẩm, nắm bắt kịp thời những điều chỉnh
về chuyên môn của cấp trên như phương pháp, dung lượng kiến thức toàn bài
dạy, hàm lượng kiến thức cho từng phần, từng mục...
Thứ năm với việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm tại lớp 7A trường THCS
Lâm Phú, tôi đã góp một luồng gió mới vào công tác giảng dạy môn học, giúp
tiết học bớt nhàm chán mà trở nên nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn học sinh hơn. Vì thế
đã được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía học sinh, đồng nghiệp, được chuyên môn
nhà trường đánh giá cao và thấy tính ứng dụng rất lớn nên đã cho ứng dụng ngay
tại nhà trường và đã phần nào mang đến hiệu quả.
3.2. Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng dạy và học, đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai
đoạn hiện nay và đặc biệt là thói quen ngại học văn của học sinh. Tôi nhận thấy
các giáo viên cần có sự hợp tác trao đổi, bày tỏ những thắc mắc khó khăn trong
giảng dạy để tìm cách tháo gỡ. Bởi hiệu quả những giải pháp đưa ra cần có sự
kiểm chứng trong thời gian nhất định, không phải một sớm một chiều mà có thể
có được. Để thường xuyên trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên đặc biệt là
khó khăn của giáo viên vùng cao nên việc tổ chức giao lưu, trao đổi thông qua
mạng để giáo viên có thể thuận lợi hơn trong trao đổi chuyên môn là rất cần
thiết.


15


Ban giám hiệu nhà trường cần phải khuyến khích các bộ môn chia sẻ các
sáng kiến kinh nghiệm hay, đồng thời cần thực hiện thường xuyên và nghiêm
túc. Tạo cơ hội, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên học tập cũng như giao lưu
qua các cuộc hội thảo.
Phụ huynh cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con em mình, đầu tư
nhiều hơn về thời gian, tài liệu cho con cái học tập. Địa phương cần quan tâm
sát sao đến chất lượng học tập của con em, tạo điều kiện đầu tư cơ sở vật chất
cho nhà trường, quan tâm hơn nữa đến đời sống của anh em giáo viên nhà
trường.
Cuối cùng, tôi rất mong được sự góp ý chỉ bảo của các bạn đồng nghiệp để
việc dạy - học các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam (phần đọc thêm)
theo hướng tích hợp, tích cực được sử dụng thường xuyên và đạt hiệu quả trong
quá trình giảng dạy của chúng ta...
XÁC NHẬN CỦA THỦ

Lang Chánh, ngày 10 tháng 4 năm 2017

TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Mai Quốc Thắng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các phương pháp dạy học hiệu quả (Nhà xuất bản Giáo dục).
16



2. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn Ngữ văn
( Nhà xuất bản Giáo dục).
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 – Tập 1(Nhà xuất bản Giáo dục).
4. Sách giáo viên Ngữ văn 7 – Tập 1(Nhà xuất bản Giáo dục).

17



×