Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH ở THÀNH PHỐ đà lạt, TỈNH lâm ĐỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.76 KB, 84 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Chính trị Quốc gia
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CTQG
CNH, HĐH
HĐND
UBND
XHCN

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU

3
10


1.1.
1.2.


LỊCH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
Quan niệm về du lịch, kinh tế du lịch
Quan niệm, nội dung, nhân tố tác động, kinh nghiệm về phát

Chương 2

triển KTDL ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH

10
23

Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
31

2.1.

THỜI GIAN QUA
Những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế du

2.2.
Chương 3

lịch ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng thời gian qua
Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ

31
51


DU LỊCH Ở THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM
54

3.1.

ĐỒNG THỜI GIAN TỚI
Quan điểm cơ bản phát triển kinh tế du lịch ở thành

54

3.2.

phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng thời gian tới
Giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế du lịch ở thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng thời gian tới

60
73
74
78

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


3

MỞ ĐẦU


1 . Lý do chọn đề tài
Hiện nay trên thế giới, du lịch là ngành kinh tế có tốc độ phát triển
nhanh với tăng trưởng hàng năm trên 4% và đóng góp không nhỏ vào GDP
của nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, những thập kỷ gần đây du lịch là
một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tăng nguồn thu ngoại tệ, tạo vốn cho phát triển kinh tế - xã hội và giải
quyết việc làm ở nhiều quốc gia. Kinh tế du lịch đã trở thành một nhân tố
quan trọng thúc đẩy kinh tế phát triển tăng cường giao lưu giữa các quốc gia,
dân tộc. Do đó, các quốc gia trên thế giới hoặc các địa phương trong mỗi quốc
gia ấy đều quan tâm phát triển kinh tế du lịch. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia hay
địa phương do điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa và chế độ chính trị khác
nhau mà cách thức, biện pháp phát triển kinh tế du lịch có sự khác nhau.
Nhận thức rõ vai trò, vị trí của kinh tế du lịch, lại là quốc gia có nhiều
tiềm năng để phát triển kinh tế du lịch. Vì vậy, Đảng ta chỉ rõ cần phải có "Có
chính sách phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn" [7, tr.288]. Quan
điểm này một lần nữa được Đảng ta nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08 –
NQ/TW ngày 16/01/2017: "Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn là
định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc
đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác" [1, tr. 2]. Đồng thời chỉ rõ:
"phát triển du lịch là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành, của toàn xã hội, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng"
[1, tr. 2]. Trong đó cần "phát huy mạnh mẽ vai trò động lực của doanh nghiệp
và cộng đồng dân cư, sự quản lý thống nhất của Nhà nước" [1, tr. 2].
Nằm ở phía nam Tây Nguyên, thành phố Đà Lạt thuộc tỉnh Lâm Đồng
là địa phương có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế du lịch bởi Đà Lạt được
thiên nhiên ban tặng cho hệ khí mậu mát mẻ, trong lành quanh năm và hệ
thống di sản thiên nhiên thơ mộng như: rừng thông, các hồ nước, thác nước...


4


cùng các di sản lịch sử, văn hóa tồn tại hàng trăm năm... đây là những điều
kiện tốt để Đà Lạt phát triển kinh tế du lịch.
Trên thực tế, việc khai thác các tiềm năng trên để phát triển kinh tế du
lịch đã được Đà Lạt quan tâm từ rất sớm và đạt được nhiều kết quả đáng
khích lệ. Nhiều loại hình du lịch mới được hình thành để khai thác thế mạnh
phát triển du lịch như: du lịch sinh thái; du lịch nghỉ dưỡng; du lịch hội nghị hội thảo; du lịch khám phá mạo hiểm; du lịch chữa bệnh... Kinh tế du lịch
phát triển đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy kinh tế Đà Lạt tăng trưởng,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động... Tuy nhiên, phát triển
kinh tế du lịch ở Đà Lạt thời gian qua chưa tương xứng với vị trí và tiềm
năng, đồng thời đã xuất hiện những vấn đề tiêu cực ảnh hưởng đến phát triển
bền vững của kinh tế du lịch thành phố. Đây là nguyên nhân khiến việc thu
hút khách du lịch đến Đà Lạt còn hạn chế, số ngày lưu trú trung bình của
khách trên địa bàn chưa cao, hiệu quả kinh doanh du lịch chưa được như kỳ
vọng. Vì vậy, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ IX, nhiệm kỳ
2010 - 2015 đã xác định: "Tập trung các nguồn lực đầu tư xây dựng, phát
triển các trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng chất lượng cao, quan tâm đào tạo
nguồn nhân lực cho hoạt động du lịch, đáp ứng yêu cầu phát triển các loại
hình du lịch, dịch vụ có lợi thế của địa phương. Xây dựng thành phố Đà Lạt
và vùng phụ cận trở thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng chất lượng cao của cả
nước và khu vực" [4, tr.27].
Xuất phát lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề:"Phát triển kinh tế du
lịch ở thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng" làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay, có nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến du lịch hoặc phát
triển kinh tế du lịch ở Việt Nam nói chung và ở các địa phương nói riêng. Vấn
đề phát triển kinh tế du lịch chủ yếu được đề cập trong các đề tài, sách tham


5


khảo, các báo cáo và bài báo khoa học trên một khía cạnh cụ thể như: du lịch
biển, du lịch tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, sông nước... Dưới đây, là các đề
tài, sách chuyên khảo và các báo cáo, bài báo khoa học có liên quan khóa luận
phát triển kinh tế du lịch của tác giả được công bố.
* Nhóm sách tham khảo có liên quan

Trương Sỹ Vinh (2010), Du lịch Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.
Cuốn sách giới thiệu tổng quan những di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch
sử vốn là những tiềm năng lớn có ý nghĩa với sự phát triển du lịch của Hà
Nội. Bên cạnh đó, tác giả cuốn sách đã khái quát những thành tựu và hạn chế
của ngành du lịch Hà Nội qua các thời kỳ phát triển. Đồng thời phân tích các
cơ hội và thách thức mà Hà Nội gặp phải trong quá trình hội nhập và phát
triển. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất các phương hướng, giải pháp phát triển
du lịch ở Hà Nội trong thời gian tới.
Đinh Trung Kiên (2015), Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
Cuốn sách giới thiệu những thành tựu, hạn chế của du lịch Việt Nam
trong thời gian qua so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới và
tiềm năng chưa được khai thác của đất nước. Tác giả đưa ra các kinh nghiệm
của các nước trên thế giới để phát triển ngành du lịch cũng như giải pháp phát
huy tối đa tiềm năng du lịch của nước ta trong thời gian tới.
TS Nguyễn Văn Lưu (2016), Xuất khẩu tại chỗ thông qua Du lịch, Nxb
Văn hóa thông tin.
Trong cuốn sách này, tác giả đề cao vai trò của du lịch trong thúc đẩy
các ngành kinh tế khác phát triển. Một trong những vai trò quan trọng của du
lịch được tác giả phân tích sâu đó là vai trò cầu nối để thực hiện xuất khẩu tại
chỗ các loại hàng hóa do địa phương tạo ra. Thông qua du lịch, các nhà sản
xuất có thể tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu



6

sản phẩm do các đơn vị sản xuất đến du khách trong nước và quốc tế nhanh
nhất, hiệu quả và ít tốn kém nhất mà không cần thông qua kênh trung gian với
giá trị cao.
* Nhóm đề tài có liên quan
Nguyễn Đình Sơn (2007), Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch
Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh, Luận án Tiến sĩ kinh
tế, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội.
Tác giả luận án đã chỉ ra những vấn đề lý luận chung về kinh tế du
lịch và kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch kết hợp với củng cố quốc
phòng - an ninh. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc
Bộ và tác động của nó tới quốc phòng - an ninh. Phương hướng, mục tiêu
và giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch Bắc Bộ
kết hợp với tăng cường củng cố quốc quốc phòng - an ninh. Trong các
giải pháp mà tác giả đề xuất có giải pháp phát triển kinh tế du lịch theo
"chuỗi liên kết giữa các địa phương trong vùng" là tránh tình trạng
"mạnh ai người đó làm" hoặc trùng lặp nhau.
Hoàng Văn Hoàn (2010), "Xúc tiến đầu tư phát triển du lịch Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Thương mại, Hà Nội.
Xúc tiến đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng để huy
động nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế du lịch nói chung nhất
là những địa phương có tiềm năng lớn về phát triển du lịch xong lại thiếu
các nguồn lực để phát triển trong đó có Hà Nội. Trong luận án này tác giả
đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch, phát triển du
lịch, xúc tiến đầu tư du lịch... Chỉ ra những tiềm năng và lợi thế của Hà
Nội trong phát triển du lịch, đồng thời đánh giá thực trạng xúc tiến đầu
tư vào du lịch của Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải



7

pháp nhằm đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để du lịch trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn của Hà Nội.
Bùi Xuân Sơn (2017), Phát triển bền vững kinh tế du lịch ở huyện Củ
Chi, thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị.
Trong luận văn này, tác giả luận văn đã đi từ phân tích luận giải các
phạm trù du lịch, kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch. Từ đó tác giả
đưa ra quan niệm về Phát triển bền vững kinh tế du lịch ở huyện Củ Chi,
thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, căn cứ vào cơ sở lý luận, tác giả tiến
hành đánh giá thực trạng phát triển du lịch của huyện Củ Chi, thành phố Hồ
Chí Minh trong những năm vừa qua và chỉ ra những mâu thuẫn đang tồn tại,
cần phải giải quyết để đưa du lịch của huyện phát triển bền vững. Trên cơ sở
đó, tác giả đề xuất các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
bền vững kinh tế du lịch của huyện. Trong đó tác giả tập trung vào hai vấn đề:
Một là, nâng cao chất lượng nhân lực và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào kinh doanh du lịch ở huyện Củ Chi; Hai là, tăng cường quản lý,
bảo vệ tài nguyên du lịch, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trong phát
triển kinh tế du lịch.
* Nhóm bài báo có liên quan
Mai Trang, "Du lịch - ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Khánh
Hòa, Tạp chí Thương mại, số 30/2006; Nguyễn Đình Hóa (2006), "Du lịch
sinh thái - thực trạng và giải pháp để phát triển ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế
và Phát triển, Số 1/2006; Đặng Huy Huỳnh, "Bảo vệ các cảnh quan và đa
dạng sinh học để phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam", Tạp chí Du
lịch Việt Nam, số 5/2005; PGS. TS Hà Văn Hội, "Du lịch Hà Nội: Hội
nhập và hướng tới phát triển bền vững", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, số 810/2010...

Các bài viết đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về du


8

lịch, phát triển kinh tế du lịch; đánh giá thực trạng phát triển du lịch và kinh tế
du lịch ở từ địa phương và khu vực. Từ đó đề xuất các giải pháp để phát triển
du lịch và kinh tế du lịch bền vững ở các địa phương và khu vực đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế du lịch,
trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch
của thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
* Nhiệm vụ
Luận giải những vấn đề lý luận về du lịch, kinh tế du lịch, phát triển
kinh tế du lịch nói chung; nội dung và sự cần thiết phát triển kinh tế du lịch ở
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Phân tích thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở thành phố Đà Lạt giai
đoạn 2010 - 2016, từ đó phát hiện những mâu thuẫn đang tồn tại trong quá
trình phát triển kinh tế du lịch của Đà Lạt.
Đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển bền vững kinh tế du lịch ở
thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế du lịch
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
Về thời gian: từ năm 2010 đến năm 2016
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam;


9

Nghị quyết Đại hội đại biểu tỉnh Lâm Đồng Lần thứ IX nhiệm kỳ 2010 2015, Lần thứ X nhiệm kỳ 2015-2020; Nghị quyết Đại hội đại biểu thành phố
Đà Lạt Lần thứ X nhiệm kỳ 2010 - 2015, Lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020;
các Quy hoạch, Kế hoạch, Quyết định liên quan đến phát triển du lịch và kinh
tế du lịch của UBND tỉnh Lâm Đồng, UBND thành phố Đà Lạt.
* Cơ sở thực tiễn
Hệ thống báo cáo, số liệu thống kê của thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng liên quan đến du lịch và kinh tế du lịch.
* Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng kết hợp với duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu của môn Kinh tế chính trị như: trừu tượng hoá khoa
học, thống kê, so sánh, phân tích số liệu, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và
chuyên gia để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, học tập và giảng dạy môn kinh tế chính trị Mác - Lênin;
làm cơ sở cho hoạt động hoạch định chủ trương, chính sách, biện pháp phát
triển kinh tế du lịch ở thành phố Đà Lạt và các địa phương khác có đặc điểm
tương đồng với Đà Lạt.
7. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết); Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo và Phụ lục.



10


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH

1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch và sự cần thiết phải
phát triển kinh tế du lịch ở Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch
* Quan niệm du lịch
Du lịch là hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người, sự phát triển của
du lịch do trình độ của lực lượng sản xuất, điều kiện kinh tế - xã hội quy định.
Thực tiễn cho thấy, từ khi xuất hiện xã hội loài người cho tới thời kỳ đầu của
Chủ nghĩa tư bản, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, cơ
sở hạ tầng, giao thông, phương tiện đi và liên lạc rất khó khăn nên hoạt động
du lịch chưa phổ biến. Du lịch thời bấy giờ chủ yếu là hoạt động của tầng lớp
quý tộc giàu có và mang tính chất tự túc. Vì vậy, mối liên hệ giữa du lịch và
kinh tế chưa xuất hiện. Khi lực lượng sản xuất phát triển, với sự ra đời của các
phương tiện giao thông chạy bằng hơi nước như tàu thủy, tàu hỏa, điện thoại...
đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động du lịch diễn ra ngày càng phổ
biến. Kinh tế phát triển, thu nhập của con người được nâng lên đã làm cho du
lịch ngày càng trở thành một nhu cầu thiết yếu của con người, giúp cho người
lao động có điều kiện vui chơi, giải trí, khám phá các di sản thiên nhiên, các
công trình văn hóa, lịch sử và quan trọng hơn, các hoạt động du lịch giúp con
người tái sản xuất sức lao động và cân bằng cuộc sống.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch. Đúng
như Giáo sư, Tiến sĩ Berneker - một chuyên gia hàng đầu thế giới về du lịch
đã nhận định: Đối với "du lịch" có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy

nhiêu định nghĩa". Có sự khác nhau đó là do, các học giả nghiên cứu "du lịch"
trong những thời điểm, điều kiện hoàn cảnh khác nhau và dưới những góc độ
khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi của đề tài khóa luận cử nhận, tác giả


12

không đi sâu phân tích các quan niệm khác nhau về du lịch mà chỉ tổng quan
để đưa ra quan niệm chung nhất về du lịch để đảm bảo tính logic của đề tài.
Hiện nay, có một số học giả cho rằng thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ
nhiều nước bắt nguồn từ gốc tiếng Pháp "le tourisme". Bản thân từ "le
tourisme" lại bắt nguồn từ từ "le tour", có nghĩa là một cuộc hành trình đến
một nơi nào đó và quay trở lại nơi xuất phát. Thuật ngữ đó dịch sang tiếng
anh thành "tourism, tiếng Nga là "TYИЗM" v.v... Như vậy, khái niệm "du
lịch" ở các nước như Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha... có ý nghĩa gần giống
nhau là khởi hành, đi lại, chinh phục không gian.
Người Đức lại không sử dụng từ gốc tiếng Pháp mà sử dụng từ "der
fremdenverkehrs" là tổ hợp của 3 từ có nghĩa là ngoại (lạ); giao thông (đi lại)
và mối quan hệ. Vì vậy, các học giả Đức nhìn nhận du lịch như là mối quan
hệ, sự đi lại hay vận chuyển của những người đi du lịch. Một cách cụ thể hơn,
đằng sau hiện tượng du lịch người Đức hiểu rằng có các mối quan hệ được
hình thành trong thời gian khởi hành và lưu trú tạm thời, giữa khách du lịch
và các nhân viên phục vụ.
Một số học giả khác lại cho rằng, thuật ngữ "du lịch" trong ngôn ngữ
nhiều nước được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "tonos" với nghĩa đi một vòng.
Thuật ngữ này được Latin hóa thành "tonus" và sau đó thành "tourisme"
(tiếng Pháp), "tourism" (tiếng Anh)...
Tuy chưa có sự thống nhất về nguồn gốc của thuật ngữ "du lịch", song
điều quan trọng chúng ta thấy nghĩa đầu tiên của thuật ngữ du lịch có nghĩa là
cuộc hành trình đi một vòng từ nơi này đến nơi khác và sau đó quay trở về.

Trong tiếng Việt du lịch là một từ Hán - Việt, nó là kết quả của hai từ
ghép "du" là đi chơi với "lịch" là ngắm nhìn, xem xét. Từ điển Bách Khoa
Việt Nam định nghĩa "Du lịch là một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích
cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hoá nghệ thuật" [23, tr.284].


13

Khi nghiên cứu về du lịch, tác giả nhận thấy rằng, du lịch có một số đặc
điểm căn bản sau đây:
Một là, du lịch nảy sinh từ sự di chuyển và lưu trú của con người ở các
nơi đến khác nhau bên ngoài nơi cư trú thường xuyên.
Hai là, khi đi du lịch, du khách thực hiện các hoạt động tham quan,
khám phá, vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng ở nơi đến du lịch.
Ba là, khi đi du lịch thì sự di chuyển tới nơi đi du lịch chỉ mang tính
chất tạm thời, và sau đó quay trở về nơi cư trú thường xuyên chứ không vì
mục đích định cư hoặc tìm kiếm việc làm tại nơi viếng thăm.
Từ những đặc điểm nói trên, tác giả cho rằng: "Du lịch là những hoạt
động tham quan, vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi… bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên của con người trong một thời gian nhất định nhằm đáp ứng các nhu
cầu vật chất là tinh thần và tái sản xuất sức lao động."
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các hoạt động "du lịch", du khách
không chỉ có nhu cầu tham quan, nghỉ ngơi mà họ còn tham gia vào các hoạt
động kinh tế như mua sắm hàng hóa, dịch vụ, thanh toán phí tham quan, vui
chơi giải trí và lưu trú... và do đó, sẽ làm xuất hiện các hoạt động nhằm đáp
ứng ngày một tốt hơn các nhu cầu trên của du khách. Từ đó, làm nảy sinh một
ngành kinh tế mới: Kinh tế du lịch.
* Quan niệm về kinh tế du lịch
Như trên đã phân tích, kinh tế du lịch hình thành gắn liền với hoạt động

du lịch của du khách và do sự phát triển của kinh tế - xã hội quyết định. Kinh
tế du lịch được hình thành bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX, khi mà các cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ nhất đem lại những thành tựu to lớn về mặt giao
thông, đi lại với sự ra đời của các phương tiện đi lại bằng động cơ hơi nước
như tàu thủy, tàu hỏa và sau này là ô tô, máy bay... và đến kinh tế du lịch đã
trở thành một ngành kinh tế độc lập chiếm một vị trí quan trọng, có những


14

đóng góp to với vào sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Kinh tế du lịch ban đầu hình thành cùng với hoạt động du lịch nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, ăn, ở, đi lại của du khách. Ngày nay, kinh tế du
lịch có bước phát triển mới, đó không còn là hoạt động phụ thuộc hay đi cùng
hoạt động du lịch mà còn là hoạt động đi trước nhằm tạo ra nguồn cung các
dịch vụ du lịch để đón trước nhu cầu của du khách. Đồng thời các tổ chức, cá
nhân tham gia sản xuất - kinh doanh dịch vụ du lịch cũng hướng tới mục tiêu
thu được lợi nhuận từ lĩnh vực kinh tế này.
Hiện nay cũng có nhiều quan niệm về kinh tế du lịch.
Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: "Kinh tế du lịch là một loại hình
kinh tế có đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem như ngành công
nghiệp không khói, gồm du lịch quốc tế và du lịch trong nước, có chức năng
nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất nước
(tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử....) nhằm thu
hút khách du lịch trong nước và ngoài nước tổ chức mua bán xuất nhập khẩu
tại chỗ hàng hóa dịch vụ cho khách du lịch." [23, tr. 586]
Khái niệm đã cho chúng ta thấy chức năng cơ bản của kinh tế du lịch là
"tổ chức việc khai thác tài nguyên và cảnh quan của đất nước" nhằm thu hút
khách du lịch trong và ngoài nước sử dụng các loại hàng hóa, dịch vụ được

tạo ra từ việc "khai thác" các loại tài nguyên, cảnh quan trên.
Mặt khác, kinh tế du lịch được coi như một lĩnh vực trung gian, là cây
cầu kết nối các hoạt động kinh tế khác nhất là cầu nối để "tổ chức buôn bán,
xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa dịch vụ cho khách du lịch." Từ đó, quảng bá
sản phẩm, khuếch chương thương hiệu, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, chúng thấy rằng, quan niệm này có hạn chế nhất định.


15

Thứ nhất, quan niệm mới chỉ thấy được du lịch gồm có hai loại là du
lịch trong nước và du lịch quốc tế. Trong khi du lịch có thể được phân thành
nhiều loại khác nhau.
Thứ hai, chức năng kinh tế du lịch bị bó hẹp trong phạm vi "tổ chức
khai thác các tài nguyên và cảnh quan" của đất nước như tài nguyên thiên
nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử... mà chưa thấy được kinh tế du
lịch còn bao hàm cả những hoạt động sản xuất, xây dựng các công trình văn
hóa, lịch sử, các khu vui chơi, giải trí và các loại dịch vụ ăn nghỉ cho du
khách và kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ khác thông qua du lịch.
Cũng nói về kinh tế du lịch, tác giả Bùi Xuân Sơn lại cho rằng "Kinh tế du
lịch là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, nó phản ánh mối quan hệ giữa con
người với con người; giữa con người với tự nhiên và được hình thành trên cơ sở
phát triển sản xuất, trao đổi sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu về đời sống vật
chất, tinh thần ngày càng cao của con người trong quá trình tái sản xuất sức lao
động và tái sản xuất xuất, kinh doanh du lịch." [10, tr. 17]
So với quan niệm trước, quan niệm này đã xem xét kinh tế du lịch toàn
diện hơn.
Thứ nhất, quan niệm cho thấy kinh tế du lịch là một bộ phận của nền
kinh tế quốc dân và là một loại hình sản xuất - dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu
cầu về vật chất và tinh thần cho du khách, giúp du khách có điều kiện vui

chơi, giải trí, nghỉ ngơi, thư giãn và tái sản xuất sức lao động.
Thứ hai, quan niệm chỉ ra nội dung căn bản của kinh tế du lịch là mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên trong việc
khai thác, tiêu dùng các loại hàng hóa, dịch vụ du lịch. Đồng thời quan niệm
cho thấy sự phát triển của kinh tế du lịch gắn liền với sự phát triển của kinh tế
- xã hội, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.


16

Thứ ba, quan niệm chỉ ra chức năng chính của kinh tế du lịch chính là
hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn phục vụ du
khách và sản xuất ra các sản phẩm du lịch mới nhằm thu hút, lôi kéo du khách
sử dụng.
Tuy quan niệm trên của tác giả Bùi Xuân Sơn vẫn có mặt hạn chế đó là
quan niệm chưa chỉ ra được mục đích chủ yếu của kinh tế du lịch mà ở tầm vĩ
mô là đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
Ở tầm vi mô đó là doanh thu, lợi nhuận của các đơn vị tham gia trong lĩnh
vực này. Bên cạnh đó, tác giả cũng chưa thấy được kinh tế du lịch còn chịu
ảnh hưởng của quan hệ sản xuất ở nơi mà nó nảy sinh và phát triển.
Trên cơ sở đó, tác giả cho rằng: "Kinh tế du lịch là một loại hình sản
xuất - kinh doanh mang tính dịch vụ là chủ yếu nhằm khai thác giá trị của
các công trình kinh tế, văn hóa, lịch sử, các danh lam thắng cảnh do thiên
nhiên ban tặng... đồng thời tạo ra các loại hàng hóa, dịch vụ vui chơi, giải
trí, ăn nghỉ... nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của du khách,
góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển, nâng cao đời sống
nhân dân và thu được lợi nhuận cao".
Nội hàm của khái niệm gồm những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, quan niệm đã chỉ rõ chỉ ra tương đối đầy đủ các chức năng
của kinh tế du lịch. Đó không đơn giản là khai thác giá trị của các công trình

văn hóa, lịch sử, các danh lam thắng cảnh và còn là tạo ra các dịch vụ vui
chơi, giải trí, ăn nghỉ, trao đổi mua bán hàng hóa...
Thứ hai, quan niệm đã chỉ ra được mục đích của kinh tế du lịch đó là:
một mặt nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của du khách, giúp du
khách có điều kiện nghỉ ngơi, thư giản, tái xuất sức lao động. Mặt khác góp
phần quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân
dân, đồng thời, giúp cho những người sản xuất, kinh doanh dịch vụ du lịch
tăng doanh thu và lợi nhuận.


17

Thứ ba, quan niệm coi kinh tế du lịch là cầu nối trung gian là điều kiện
và cơ hội để quảng bá sản phẩm thúc đẩy trao đổi, mua bán và gián tiếp kích
thích các ngành sản xuất khác phát triển.
Thứ tư, kinh tế du lịch chịu sự quy định của điều kiện kinh tế xã hội, bị
chi phối bởi quan hệ sản xuất thống trị, điều này được thể hiện ở mục đích
của kinh tế du lịch. Ở mỗi quốc gia khác nhau, quan hệ sản xuất thống trị
khác nhau thì mục đích của kinh tế du lịch là khác nhau. Đối với Việt Nam,
mục đích của kinh tế du lịch không chỉ phục vụ lợi ích của du khách và lợi ích
(lợi nhuận) của cá nhân và doanh nghiệp kinh doanh du lịch mà còn hướng tới
tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn, bảo toàn các di
sản thiên nhiên, di sản văn hóa, lịch sử của đất nước.
* Quan niệm Phát triển kinh tế du lịch
Từ những luận giải về du lịch và kinh tế du lịch tác giả cho rằng: "Phát
triển kinh tế du lịch là quá trình khai thác, sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả
bền vững các danh lam thắng cảnh, các công trình văn hóa lịch sử... của mỗi
địa phương, đồng thời là quá trình tạo ra các loại hàng hóa, dịch vụ vui chơi,
giải trí, ăn nghỉ... ở địa phương đó để phục vụ ngày một tốt hơn các nhu cầu
của du khách, góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất của địa phương phát

triển, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời nâng cao
doanh thu, lợi nhuận cho các tổ chức và cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch"
Như vậy, nội hàm của quan niệm “Phát triển kinh tế du lịch” bao gồm
những dung sau:
Chủ thể phát triển kinh tế du lịch:
Chủ thể của quá trình này là toàn bộ hệ thống chính trị và các tổ chức,
cá nhân thuộc cách thành phần kinh tế và người dân địa phương nơi có các
hoạt động kinh tế du lịch.


18

Trong đó, Đảng bộ, cấp ủy đảng các cấp là cơ quan lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch thông qua việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết. Chính quyền
các cấp căn cứ vào chỉ thị, nghị quyết của các cấp ủy, đảng và những tiềm
năng du lịch của địa phương mình để xây dựng kế hoạch và trực tiếp chỉ đạo
thực hiện nhiệm vụ này.
Đối với người dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đây
là chủ thể quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của kinh tế du lịch. Bởi họ
với tiềm lực kinh tế của mình, trực tiếp đầu tư khai thác các di sản thiên
nhiên, các công trình văn hóa lịch sử, xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch như nhà
hàng, khách sạn, các công trình vui chơi, giải trí… Sự phát triển của kinh tế
du lịch phụ thuộc rất lớn vào bộ phận này.
Về nội dung của phát triển kinh tế du lịch:
Phát triển kinh tế du lịch hiện nay có nhiều nội dung, song tựu chung
lại có hai nội dung căn bản đó là: Một mặt, khai thác, sử dụng các di sản thiên
nhiên, các công trình văn hóa, lịch sử… để phục vụ du khách. Mặt khác, tạo
ra các loại hàng hóa, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần cho
du khách như các công trình văn hóa, lịch sử mới, các công trình trình vui
chơi, giải trí, nhà hàng, khách sạn phục vụ ăn, nghỉ và hoạt động đi lại của du

khách. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện cụ thể, mỗi địa phương có nội dung phát
triển kinh tế du lịch phù hợp với điều kiện của địa phương mình.
Mục đích phát triển kinh tế du lịch:
Phát triển kinh tế du lịch nhằm phục vụ ngày một tốt hơn các nhu cầu
vật chất, tinh thần của du khách. Giúp du khách có quãng thời gian nghỉ ngơi
thực sự bổ ích. Cùng với đó là tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân
dân, tăng doanh thu, lợi nhuận cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh dịch vụ
du lịch và nguồn thu cho địa phương đồng thời tạo nguồn kinh phí để duy tu,
bảo dưỡng, bảo tồn, bảo toàn các di sản thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, các
công trình văn hóa, lịch sử… để có thể phục vụ du khách lâu dài.


19

Yêu cầu phát triển kinh tế du lịch:
Phát triển kinh tế du lịch là hoạt động chủ quan của các chủ thể sản
xuất, kinh doanh dịch vụ du lịch. Hoạt động này dù tự nguyện, hay thông qua
bất kỳ biện pháp nào đều phải tuân thủ theo các quy luật kinh tế khách quan
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất;…và quy định của pháp luật hiện
hành. Ở Việt Nam hiện nay các hoạt động kinh tế du lịch chịu sự điều chỉnh
trực tiếp của Luật Du lịch và một số luật khác có liên quan như Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế…
Biện pháp phát triển kinh tế du lịch:
Để phát triển kinh tế du lịch, hiện nay có nhiều biện pháp, song tựu
chung lại có hai nhóm biện pháp là: các biện pháp kinh tế và các biện pháp
phi kinh tế. Trong đó, cụ thể như sau:
Các biện pháp kinh tế gồm: khai thác, trao đổi, mua - bán các dịch vụ
du lịch; các biện pháp đầu tư sản xuất, kinh doanh của các nhà đầu tư thuộc
cách thành phần kinh tế; các cơ chế, chính sách của Nhà nước như: thuế, lãi

suất, vốn vay, xuất nhập khẩu, bảo hiểm…
Các biện pháp phi kinh tế gồm: Biện pháp hành chính (sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp về phát triển kinh tế du lịch của
địa phương; các phương án, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế du lịch của
chính quyền các cấp hoặc các cơ quan chức năng có liên quan… Bên cạnh đó
là các biện pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục nâng cao nhận thức cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức kinh tế và nhân dân về kinh tế du lịch và
vai trò của phát triển kinh tế du lịch.
1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế du lịch ở thành phố Đà
Lạt, tỉnh Lâm Đồng
Một là, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là địa phương có tiềm năng
to lớn trong phát triển kinh tế du lịch.


20

Đà Lạt ngày nay là một thành phố 211 ngàn dân, là đô thị loại I trực
thuộc tỉnh, giữ vai trò trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của tỉnh Lâm
Đồng. Thành phố Đà Lạt có độ cao 1.500 mét so với mực nước biển và được
các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng bao quanh. Đà Lạt được thiên nhiên
ban tặng cho đới khí hậu ôn hòa và dịu mát quanh năm. Lịch sử hơn 120
năm cũng để lại cho thành phố một di sản kiến trúc giá trị do người Pháp xây
dựng khi xâm lược Việt Nam còn tồn tại cho đến ngày nay. Quần thể kiến trúc
đó được ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ 20 ở Đà Lạt. Bên cạnh
đó, Đà Lạt lại là địa phương có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống với những nét
văn hóa phong phú, đa dạng đã giúp Đà Lạt trở thành một trong những điểm
du lịch nổi tiếng của Việt Nam, mỗi năm thu hút hàng triệu du khách tới tham
quan và nghỉ dưỡng.
Song Đà Lạt còn là một trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học,
một thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hàng trăm ngôi chùa,

nhà thờ, tu viện... là một vùng nông nghiệp trù phú đặc biệt với những sản
phẩm rau, củ, quả và hoa. Nhờ khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp
và di sản kiến trúc phong phú, Đà Lạt còn được biết đến với nhiều tên gọi
khác như "Thành phố mù sương", "Thành phố ngàn thông", "Thành phố ngàn
hoa", "Xứ hoa Anh Đào" hay "Tiểu Paris".
Đây là những tiềm năng to lớn, là điều kiện, tiền đề cần thiết để Đà Lạt
phát triển kinh tế du lịch mà không phải địa phương nào cũng có.
Hai là, xuất phát từ vai trò và tác dụng nhiều mặt của phát triển kinh
tế du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Lạt
Kinh tế du lịch có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, từ rất sớm kinh tế du lịch đã được Đảng, Nhà nước xác định là "Ngành
kinh tế mũi nhọn" [5, tr.273]. Cho tới nay, vai trò "mũi nhọn" đó của du lịch


21

vẫn không thay thay đổi. Hiện nay, kinh tế du lịch còn được coi là một động
lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết số 08 –NQ/TW ngày
16/01/2017 khẳng định: "Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn là
định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc
đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác ".[1, tr. 2].
Đối với Đà Lạt, là địa phương có tiềm năng lớn về du lịch. Vì vậy,
Đảng bộ thành phố Đà Lạt cũng coi phát triển kinh tế du lịch "là nhiệm vụ
trọng tâm và là ngành kinh tế mũi nhọn". Vai trò "mũi nhọn" của kinh tế du
lịch được thể hiện rõ nét thông qua tác dụng nhiều mặt của nó.
Thứ nhất, phát triển kinh tế du lịch cũng tạo ra doanh thu, lợi nhuận
như các ngành kinh tế khác. Nhưng kinh tế du lịch có nhiều lợi ích được nằm
lại với cộng đồng địa phương về cả mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
Thứ hai, phát triển kinh tế du lịch ở Đà Lạt góp phần quan trọng vào
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời bảo

tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của địa phương.
Thứ ba, kinh tế du lịch phát triển sẽ giúp thu ngân sách của Thành phố
Đà Lạt tăng, đây lại là nguồn kinh phí để Thành phố đầu tư quay trở lại để
chăm sóc, bảo tồn, bảo toàn các di sản thiên nhiên, các công trình văn hóa,
lịch sử, và những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của người dân bản địa.
Đồng thời, có kinh phí để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, kết
nối với các địa phương lân cận, từ đó, tạo điều kiện cho các ngành khác nhất
là nông có ứng dụng công nghệ cao phát triển và để thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, văn hóa, xã hội khác.
Những vai trò và tác dụng nhiều mặt đó của kinh tế du lịch đối với sự
phát triển của Đà Lạt sẽ được tác giả đánh giá cụ thể trong Chương 2 của
Khóa luận


22

Ba là, xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế du lịch của Thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Đà Lạt lần thứ XI, nhiệm
kỳ 2015 - 2020 xác định rõ mục tiêu "phát triển thành phố Đà Lạt thành trung
tâm du lịch chất lượng cao của quốc gia, khu vực và quốc tế; xây dựng ngành
du lịch phải thực sự trở thành ngành kinh tế động lực của thành phố Đà Lạt và
tỉnh Lâm Đồng" [3, tr. 13]. Để hiện thực hóa được mục tiêu đó, đòi hỏi Đảng
bộ, chính quyền, người dân và các doanh nghiệp của thành phố cần phải tăng
cường đầu tư phát triển kinh tế du lịch trên mọi phương diện, trong đó đặc
biệt quan tâm nâng cao chất lượng của các sản loại sản phẩm du lịch và dịch
vụ đi cùng.
Bốn là, xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua còn nhiều hạn chế.
Trong những năm vừa qua, kinh tế du lịch của Đà Lạt đã được các cấp

ủy Đảng, chính quyền từ Trung ương, đến Thành phố quan tâm lãnh đạo chỉ
đạo và tạo nhiều cơ chế chính sách để kinh tế du lịch của Đà Lạt phát triển.
Bên cạnh đó người dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng
tích cực đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch để phục vụ ngày càng tốt
hơn nhu cầu của du khách, nhờ đó số lượng du khách, cũng như doanh thu,
lợi nhuận từ kinh doanh du lịch và đóng góp của kinh tế du lịch vào ngân sách
thành phố tăng lên hàng năm.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế du lịch còn nhiều hạn chế như: Quy hoạch,
kế hoạch phát triển thiếu tính chiến lược dài hạn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo
còn nhiều lúng túng, nhất là những khi kinh tế xã hội của đất nước và thế giới
gặp những khó khăn nhất định; cơ chế chính sách khuyến khích phát triển
kinh tế du lịch chưa đồng bộ, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế


23

du lịch của Đà Lạt phát triển đột phá. Cách làm kinh tế du lịch của người dân
và doanh nghiệp ở Đà lạt vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp.
Sản phẩm du lịch còn đơn điệu và nặng tính thời vụ. Chất lượng các loại dịch
vụ còn nhiều hạn chế; nhiều hộ gia đình, doanh nghiệp làm ăn còn mang tính
chộp giật, chạy theo lợi nhuận mà chưa quan tâm nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch để phục vụ du khách ngày một tốt hơn.
Năm là, xuất phát từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng. Du khách quốc tế biết đến các địa điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam
trong đó có Đà Lạt ngày càng nhiều. Điều này được thể hiện ở số lượng du
khách quốc tế đến với Đà Lạt tăng lên hàng năm. Tuy nhiên, trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, du lịch Việt Nam nói chung, Đà Lạt nói riêng phải
cạnh tranh khốc liệt với du lịch của các nước trên thế giới, nhất là các nước

trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á như Thái Lan, Singarpo, Malaysia,
Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc... Đây là những nước có bề dày
kinh nghiệm về kinh doanh dịch vụ du lịch cùng với ưu thế về vốn và công
nghệ nên các sản phẩm du lịch của các nước này thường xuyên được quan
tâm đầu tư nâng cao chất lượng nhằm thu hút du khách. Thực tiễn cũng cho
thấy, số lượng khách trong nước đi du lịch nước ngoài nhất là các nước trong
khu vực tăng nhanh chóng, trong khi du khách du lịch đến các địa điểm du
lịch trong nước có tăng song tăng chậm. Điều đó cho thấy, chất lượng các sản
phẩm du lịch và dịch vụ đi cùng trong nước nói chung, Đà Lạt nói riêng còn
nhiều hạn chế. Mặt khác, số lượng khách nội địa và quốc tế quay trở lại Đà
Lạt chưa nhiều. Điều này Do đó, để thuyết phục khách du lịch quay trở lại
đồng thời nâng cao số lượng khách du lịch mới đòi hỏi Việt Nam nói chung,
Đà Lạt nói riêng điều quan trọng nhất là Đà Lạt phải nâng cao chất lượng các


24

sản phẩm du lịch và dịch vụ du lịch để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của du khách.
1.2. Nội dung, nhân tố tác động phát triển kinh tế du lịch ở thành
phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
1.2.1. Nội dung phát triển kinh tế du lịch ở Đà Lạt
Căn cứ vào quan niệm phát triển kinh tế du lịch; căn cứ vào đặc điểm
điều kiện tự nhiên và nguồn tài nguyên du lịch của thành phố Đà Lạt; Căn cứ
vào tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của Thành phố Đà Lạt và thực
trạng phát triển kinh tế du lịch ở Thành phố Đà Lạt trong thời gian vừa qua và
yêu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch trong bối cảnh Việt Nam hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tác giả xác định phát triển kinh tế du
lịch ở Thành phố Đà Lạt tập trung vào các nội dung cơ bản sau đây.
Một là, đầu tư khai thác, trùng tu, tôn tạo, bảo vệ, bảo tồn các di sản
thiên nhiên, các công trình văn hóa, lịch sử và các di sản văn hóa phi vật thể

trên địa bàn thành phố Đà Lạt và vùng lân cận.
Di sản thiên nhiên, điều kiện tự nhiên nhất là thời tiết, khí hậu; các
công trình văn hóa lịch sử và các di sản văn hóa phi vật thể là nhân tố chính,
cốt lõi để phát triển kinh tế du lịch. Tuy nhiên, để giúp du khách tiếp cận, tận
hưởng giá trị của các yếu tố đó cần phải có sự đầu tư khai thác của Nhà nước,
của người dân và doanh nghiệp. Mặt khác, theo thời gian, các yếu tố nói trên
cũng có thể bị hư hỏng, mai một bởi những tác động xấu từ thiên nhiên và từ
các hoạt động của con người. Do đó, cần phải có các giải pháp để trùng tu,
tôn tạo, bảo vệ, bảo tồn các di sản thiên nhiên, cảnh quan, môi trường, các
công trình văn hóa, lịch sử và di sản văn hóa phi vật thể để của Đà Lạt để có
thể sử dụng được lâu dài.
Hai là, đầu tư xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa mới, các khu
vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng nhằm thu hút ngày càng nhiều du khách.


25

Ngày nay, khi đi du lịch, du khách không chỉ có nhu cầu tận hưởng giá
trị của các di sản thiên nhiên, các công trình văn hóa lịch sử mà còn tham gia
các hoạt động vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng để phục hồi sức khỏe, tránh tình
trạng các sản phẩm du lịch đơn điệu, buồn tẻ. Thực tiễn cho thấy, nhiều nơi
trên thế giới dù có ít tiềm năng phát triển kinh tế du lịch nhưng kinh tế du lịch
vẫn phát triển nhờ vào việc đầu tư, xây dựng các công trình kiến trúc hiện đại,
các trung tâm mua sắm nổi tiếng và các công trình văn hóa, các khu vui chơi,
giải trí, nghỉ dưỡng hấp dẫn... mà Dubai một thành phố thuộc Các Tiểu vương
quốc Ả rập Thống nhất là một ví dụ điển hình. Do đó, trong thời gian tới
chính quyền thành phố Đà Lạt nói riêng, tỉnh Lâm Đồng nói chung cần phải
có các cơ chế chính sách để thu hút các nguồn lực trong và ngoài địa phương
tập trung để xây dựng thêm các công trình kiến trúc kiến trúc hiện đại, các
trung tâm văn hóa, các khu vui chơi giải trí nhằm thu hút thêm và kéo dài thời

gian lưu trú của du khách tại thành phố.
Ba là, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng dịch vụ đi lại, các
cơ sở lưu trú, nhà hàng của Thành phố Đà Lạt.
Trước đây, khi kinh tế hàng hóa chưa phát triển, hoạt động du lịch
chủ yếu mang tính chất tự cấp, tự túc. Tức là, du khách thường tự lo liệu,
tự đảm bảo việc đi lại, ăn ở.
Ngày nay, dưới sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của
kinh tế hàng hóa thì việc ăn ở, đi lại của du khách đã được các tổ chức và
các cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch lo liệu, đáp ứng nhu cầu của du
khách. Đây là một xu thế khách quan. Chất lượng các loại dịch vụ nói
trên càng tốt thì số lượng du khách cũng như thời gian lưu trú của họ sẽ
tăng, khả năng quay trở lại của du khách càng lớn. Tuy nhiên, phải thừa
nhận một cách khách quan rằng, chất lượng của các dịch dụ ăn nghỉ, đi
lại của Đà Lạt còn nhiều hạn chế. Do đó, muốn thu hút được số lượng du


×