Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình phường 7, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 101 trang )

PHẠM HỒNG HẢI

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
pa

PHẠM HỒNG HẢI

XÃ HỘI HỌC

THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG SẢN XUẤT NƠNG NGHIỆP CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH
PHƯỜNG 7, THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

KHÓA VI- ĐỢT I/2015
HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM HỒNG HẢI

THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
TRONG SẢN XUẤT NƠNG NGHIỆP CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH PHƯỜNG 7,
THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG


Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60 31 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐẶNG NGUYÊN ANH

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đặng
Nguyên Anh, người thầy đáng kính đã tận tình hướng dẫn tơi từ việc gợi mở ý tưởng
nghiên cứu cho đến những nhận xét, góp ý q báu giúp tơi hồn thành tốt luận văn
của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trường Đại học Đà Lạt, Ban Chủ nhiệm
Khoa Công tác xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi tham gia khoá đào tạo cao học
năm 2015-2017 tại Học viện Khoa học Xã hội.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới các thầy giáo, cô giáo của Học viện
Khoa học Xã hội đã trang bị cho chúng tơi những kiến thức và bài học bổ ích trong q
trình tơi học tập tại đây.
Xin được cám ơn các đồng nghiệp tại Khoa Công tác xã hội, những người đã
nhiệt tình đồng hành cùng tơi phỏng vấn các hộ gia đình tại địa bàn được khảo sát để
tơi có được những tư liệu quý báu phục vụ cho nghiên cứu. Tôi cũng xin cảm ơn lãnh
đạo, cán bộ Đảng ủy – UNBD phường 7, cán bộ 17 tổ dân phố đã nhiệt tình tiếp đón và
cung cấp những thơng tin hữu ích cho đồn nghiên cứu.
Sau cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn đối với gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp - những người đã luôn ủng hộ, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình
tơi học tập và làm việc trong thời gian qua.

Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2017
Phạm Hồng Hải


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực, khách quan và chưa
từng được công bố ở các nghiên cứu khác. Các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều
được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2017
Tác giả luận văn

Phạm Hồng Hải


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ............. 23
1.1. Các khái niệm liên quan ...................................................................................... 23
1.2. Lý thuyết tiếp cận trong nghiên cứu ................................................................... 26
1.3. Miêu tả khái quát địa bàn nghiên cứu .................................................................. 29
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN SẢN XUẤT NƠNG
NGHIỆP CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH PHƯỜNG 7, THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT ......... 34
2.1. Một số đặc điểm chung về hộ gia đình tại địa bàn nghiên cứu ........................... 34
2.2. Biểu hiện của BĐKH tại phường 7, thành phố Đà Lạt ........................................ 37
2.3. Tác động của BĐKH đến hoạt động trồng trọt và chăn ni tại phường 7 ......... 46
CHƯƠNG 3: THÍCH ỨNG CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH PHƯỜNG 7 VỚI BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU TRONG SẢN XUÂT NÔNG NGHIỆP VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG THÍCH ỨNG................................................... 52

3.1. Thích ứng với BĐKH trong hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của các hộ gia
đình phường 7 ............................................................................................................. 52
3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thích ứng với BĐKH trong sản xuất
nơng nghiệp của các hộ gia đình phường 7, Đà Lạt ................................................... 61
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BĐKH

Biến đổi khí hậu

IPCC

Uỷ Ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu

SXNN

Sản xuất nơng nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

TP

Thành phố



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Một số thông tin mẫu nghiên cứu hộ gia đình phường 7............................... 34
Bảng 2.2. Các yếu tố thời tiết, khí hậu tại trạm quan trắc Đà Lạt.................................. 38
Bảng 2.3. Mức độ xảy ra các loại hình thời tiết bất thường........................................... 43
Bảng 2.4. Tác động của BĐKH đến hoạt động chăn nuôi ............................................. 50
Bảng 3.1. Biện pháp thích ứng với BĐKH trong trồng trọt ........................................... 53
Bảng 3.2. Dấu hiệu nhận biết các hiện tượng thời tiết ................................................... 59
Bảng 3.3. Mức độ sử dụng kinh nghiệm dân gian với điều kiện kinh tế hộ gia đình .... 61
Bảng 3.4. Trình độ học vấn với biện pháp “đầu tư chi phí nhiều hơn” ......................... 62
Bảng 3.5. Kiểm định sự khác biệt về trình độ học vấn trong việc sử dụng ................... 63
biện pháp “thay đổi giống vật nuôi” để thích ứng với BĐKH ....................................... 63
Bảng 3.6. Điều kiện kinh tế và các biện pháp thích ứng................................................ 64
với BĐKH trong trồng trọt ............................................................................................. 64
Bảng 3.7. Hỗ trợ của chính quyền địa phương .............................................................. 67


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ

TT

Trang

2.1

Nguồn cảnh báo thời tiết/khí hậu

45

2.2


Tác động của BĐKH đến trồng trọt

47

3.1

Biện pháp thích ứng với BĐKH trong chăn nuôi

57

3.2

Điều kiện kinh tế và hoạt động chăn ni của hộ gia đình

65

3.3

Đánh giá của hộ gia đình với các hình thức hỗ trợ của chính
quyền

68

DANH MỤC HỘP
TT

Tên hộp

Trang


2.1

Tác động của BĐKH đến hoạt động sản xuất nơng nghiệp

49

3.1

Hỗ trợ của chính quyền địa phương

70


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang là một trong những thách thức lớn nhất
đối với nhân loại. Đây là chủ đề quan trọng hàng đầu thu hút sự quan tâm khơng chỉ
của các nhà khoa học mà cả các chính trị gia trong các chương trình nghị sự quốc tế.
Ở Việt Nam, BĐKH cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức khoa học và đông đảo tầng lớp nhân dân [1, tr. 247]. Theo báo
cáo của Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC, 2007), Việt Nam là một trong các
quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ BĐKH [40, tr. 12]. Biến đổi khí hậu tác
động tiêu cực đến hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam từ nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy hải sản đến sản xuất dầu khí, thủy điện và vận tải biển...
Nơng nghiệp là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng
nề nhất do BĐKH vì đối tượng của sản xuất nông nghiệp (SXNN) là cây trồng, vật
nuôi rất nhạy cảm với sự thay đổi về khí hậu và mơi trường. BĐKH đã dẫn đến
những đợt hạn hán nghiêm trọng, thay đổi về lượng mưa và thời vụ mưa, rét hại, rét
đậm bất thường, bão lũ, gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển

của ngành nông nghiệp. Hơn thế nữa, khi bị tác động bởi các hiện tượng thời tiết
cực đoan, hoạt động SXNN sẽ chậm phục hồi hơn do tính chất mùa vụ và phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên. Theo thống kê, hoạt động SXNN nước ta trung bình mất đi
800 tỷ đồng/năm trong giai đoạn 1995-2007 do hậu quả của thời tiết cực đoan và
thiên tai [34, tr. 6].
Đà Lạt là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, với hai ngành kinh tế mũi
nhọn là du lịch – dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao đang phát triển mạnh với
diện tích chiếm gần 50% tổng diện tích đất SXNN. Bắt đầu từ năm 2007 đã có một
số ghi nhận về BĐKH tại Đà Lạt: nhiệt độ ở Đà Lạt đang nóng dần lên, sự khắc
nghiệt gia tăng với biên độ nhiệt dãn cách đột biến chưa từng thấy, chênh nhau giữa
nhiệt độ cao nhất và thấp nhất bình quân từ 8-10oC trong những năm trước đây, nay
tăng lên 12-15oC, có ngày nhiệt độ cao nhất lên đến 30oC, thấp nhất là 6,5oC. Mùa
mưa bắt đầu sớm và kết thúc muộn hơn so với qui luật nhiều năm, mưa tập trung
làm xuất hiện nhiều dịng chảy xói mịn lớn. Ngược lại vào mùa khô lượng nước tại
các suối, hồ tự nhiên, hồ thủy lợi giảm đáng kể dẫn đến hiện tượng khô hạn cục bộ,
không đảm bảo việc tưới tiêu, sinh hoạt ở một số địa bàn. Các hiện tượng thời tiết
cực đoan xảy ra với mật độ ngày càng cao như lũ, lũ quét, mưa đá, lốc xoáy, trượt

1


sạt lở đất; sâu bệnh lạ xuất hiện nhiều hơn trong những vụ mùa gần đây gây thiệt
hại lớn về người, tài sản, năng suất và chất lượng cây trồng. [6, tr. 4]. Gần đây nhất,
lễ hội Hoa Mai Anh Đào lần thứ nhất năm 2017 tại Đà Lạt đã phải hủy bỏ mà
nguyên nhân có liên quan đến BĐKH ở Đà Lạt. BĐKH gây nên mưa nhiều, mùa
mưa kéo dài và khơng khí lạnh thất thường đã tác động trực tiếp đến quá trình sinh
trưởng của Mai Anh Đào, làm cho cây không nở hoa hoặc nở với tỷ lệ thấp, những
cây nở hoa khi gặp mưa lớn thì cánh hoa bị rụng hết và bung lá. Điều này đã ảnh
hưởng rất lớn đến ngành du lịch của tỉnh.
Phường 7 là một trong 12 phường của Đà Lạt, nằm ở phía tây thành phố.

Phường có diện tích tự nhiên 3421,95ha, là địa bàn thường xuyên phải hứng chịu
các hiện tượng thời tiết cực đoan đặt biệt là lốc xoáy và mưa đá gây thiệt hại cho
việc sản xuất nông nghiệp của người dân. Vào bốn tháng đầu năm 2016, địa bàn
phường 7 đã hứng chịu 4 trận gió lốc và mưa đá gây thiệt hại về hoa màu, nhà cửa,
ước tính thiệt hại gần 20 tỷ đồng [6, tr. 5]. Với đặc thù kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp, phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên (đất đai, nguồn nước) những biến đổi
thất thường của khí hậu nơi đây đã gây rất nhiều khó khăn cho người dân trong q
trình sản xuất nơng nghiệp, phát triển sinh kế để duy trì đời sống, sức khỏe, thu
nhập và an sinh xã hội. Chính vì vậy những nghiên cứu về khả năng thích ứng và đề
xuất ra các giải pháp với BĐKH có ý nghĩa lớn đối với người dân nơi đây. Xuất
phát từ những lý do trên tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Thích ứng với biến
đổi khí hậu trong sản xuất nơng nghiệp của các hộ gia đình phường 7, thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phần này, tác giả trình bày sơ lược về thực trạng BĐKH trên thế giới và ở
Việt Nam; những nghiên cứu về tác động của BĐKH đến sản xuất nơng nghiệp và
khả năng thích ứng đối với BĐKH trong lĩnh vực này.
2.1. Biến đổi khí hậu trên thế giới
Vấn đề BĐKH đã được Savante Arrhenius, một nhà khoa học người Thụy
Điển đề cập đến lần đầu tiên năm 1896, ông cho rằng sự đốt cháy nhiên liệu hóa
thạch sẽ dẫn đến khả năng cao hiện tượng nóng lên tồn cầu. Nghiên cứu về vấn đề
này bị gián đoạn do vào thời điểm đó ảnh hưởng của con người là không đáng kể so
với yếu tố thiên nhiên.
2


Đến khoảng giữa thế kỷ 19, nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật, việc đo đạc
các trị số về khí hậu trở nên chính xác và có được số liệu định lượng chi tiết về
BĐKH trong hơn một thế kỷ qua. Sự nóng lên của hệ thống khí hậu trái đất hiện
nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc về sự tăng lên của nhiệt độ

khơng khí và đại dương trung bình tồn cầu, sự tan chảy của băng và tuyết trên
phạm vi rộng lớn và sự dâng lên của mực nước biển trung bình tồn cầu (IPCC,
2007) [22, tr. 1].
Xu thế tăng nhiệt độ trong chuỗi số liệu 100 năm (1906-2005) là 0.74oC,
trong đó riêng ở Bắc Cực nhiệt độ đã tăng 1,5oC gấp đơi tỷ lệ tăng trung bình tồn
cầu. Tốc độ tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây là 0.13oC/thập kỷ, gấp gần 2 lần xu
thế tăng nhiệt độ trong thời kỳ 1906-2005, cho thấy xu thế biến đổi nhiệt độ ngày
càng nhanh hơn. 11/12 năm gần đây (1995-2006, trừ 1996) là những năm có nhiệt
độ cao nhất trong chuỗi số liệu quan trắc bằng máy kể từ năm 1850. Trong đó nóng
nhất là năm 1998 và năm 2005 [22, tr. 1].
Mực nước biển trung bình tồn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình 1,8mm/năm
trong thời kỳ 1961-2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ 3,1mm/năm trong thời kỳ 10
năm 1993-2003. Nguyên nhân là do quá trình giãn nỡ nhiệt của nước và do băng lục
địa tan ở hai cực và các đỉnh núi cao. Diện tích băng biển trung bình năm ở Bắc cực
đã thu hẹp với tỷ lệ trung bình 2,7%/thập kỷ.[22, tr. 2]
Hiện tượng mưa cũng có những biến động đáng kể, tăng 5-10% trong thế kỷ
20 trên lục địa bán cầu Bắc và giảm ở một số nơi, tuy xu thế không rõ rệt như nhiệt
độ. Hiện tượng mưa lớn tăng lên ở các vĩ độ trung bình và cao của bán cầu Bắc.
Thiên tai (bão, lũ, lụt, hạn hán, lốc...) và các hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng
nóng, rét đậm, rét hại, mưa lớn...) gia tăng. [23, tr. 7]
Như vậy, tình trạng trái đất nóng lên, nước biển dâng cao và biến đổi khí hậu
cho đến nay khơng cịn là vấn đề riêng của một quốc gia mà là vấn đề chung, là
trách nhiệm của toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đang rất nỗ lực xây dựng và
thực hiện các hành động chiến lược nhằm thích ứng với sự nóng lên toàn cầu, ngăn

3


ngừa và hạn chế tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan do biến đổi khí hậu
như nước biển dâng, xâm nhập mặn, hạn hán, ngập lụt...

2.2. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, trong giai đoạn 50 năm (1951-2000), nhiệt độ trung bình năm
đã tăng lên 0.7oC. Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961-2000) cao
hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931-1960).
Lượng mưa thay đổi trên từng địa bàn trong 9 thập kỷ vừa qua (1911-2000)
không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên và
có giai đoạn giảm xuống. Lượng mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và
tăng ở các vùng khí hậu phía Nam. Tính trung bình trong cả nước, lượng mưa trong
giai đoạn (1958-2007) đã giảm khoảng 2%.
Theo số liệu quan trắc trong giai đoạn (1958-2007) ở các trạm Cửa Ơng và
Hịn Dâu, mực nước biển trung bình đã tăng lên khoảng 20cm, phù hợp với xu thế
chung của tồn cầu.
Số đợt khơng khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong hai thập kỷ
gần đây (cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI). Năm 1994 và năm 2007 chỉ có 15-16 đợt
khơng khí lạnh bằng 56% trung bình nhiều năm. 6/7 trường hợp có số đợt khơng khí
lạnh trong mỗi tháng mùa đông tháng 11 – tháng 3 thấp dị thường (0-1 đợt) cũng rơi
vào 2 thập kỷ gần đây (3/1990, 1/1993, 2/1994, 12/1994, 2/1997, 11/1997). Một
biểu hiện dị thường gần đây nhất về khí hậu trong bối cảnh BĐKH tồn cầu là đợt
khơng khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm
2008 gây thiệt hại lớn cho sản xuất nơng nghiệp.
Vào những năm gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo
bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều
cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn [4, tr. 9].
2.3. Các nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề BĐKH trên nhiều lĩnh vực
khác nhau. Đầu những năm 90, dự án “Đánh giá tác động của BĐKH đối với kinh
tế - xã hội của Việt Nam” (1992-1994) do tổ chức National Greenhouse Gas

4



Inventory thực hiện đã chỉ ra tác động của BĐKH tới một số khía cạnh kinh tế - xã
hội như việc làm, nguồn thu nhập, tình hình di cư, vấn đề sức khỏe, vấn đề bất bình
đẳng xã hội… Tuy nhiên, nghiên cứu này chủ yếu phân tích những đặc điểm của
BĐKH ở Việt Nam nên chưa gây được sự chú ý. Hơn nữa, vào thời điểm 19921994 hiện tượng BĐKH ở Việt Nam chưa có nhiều diễn biến đáng lo ngại như hiện
nay nên cơng trình nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở mức độ phát hiện một số tác động
đối với các nhóm dân cư khác nhau.
Sau đó, tổ chức CERED & Đại học East Anglia, Vương quốc Anh đã thực
hiện dự án“Cách tiếp cận vật lý và kinh tế - xã hội trong việc phân tích tác động
của biến đổi khí hậu đối với vùng ven biển đồng bằng Sông Hồng, Việt Nam” (1996
– 1998). Nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ hơn khái niệm BĐKH, những biểu
hiện cơ bản của quá trình này như: hiệu ứng nhà kính, khí nhà kính, cưỡng bức bức
xạ; những hệ quả tự nhiên như: lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh gia tăng và đánh giá ban
đầu về một số tác động đến kinh tế-xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh kế của
người dân ở đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là các hộ gia đình nơng nghiệp ngày
càng chịu nhiều tác động tiêu cực từ các hiện tượng thời tiết.
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã chú ý hơn đến các nhóm đối
tượng yếu thế trước BĐKH ở Việt Nam. Báo cáo của tổ chức Oxfam (2008): “Việt
Nam – BĐKH và sự thích ứng của người nghèo” đã phân tích những biến đổi cuộc
sống của các hộ nghèo trong bối cảnh khí hậu biến đổi và tìm hiểu cách họ ứng phó
với những thay đổi này. Báo cáo đã cho thấy người nghèo tại 2 tỉnh Bến Tre và
Quảng Trị đã và đang đối mặt với tác động hết sức tiêu cực của BĐKH. Hầu hết
người dân chưa được trang bị cho việc giảm nhẹ hoặc thích ứng với những tác động
này. Người nghèo lâm vào tình trạng dễ bị tổn thương vì các hiện tượng thời tiết
khắc nghiệt gia tăng cả về mức độ và cường độ, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Báo
cáo cũng đề xuất một số nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác nghiên cứu và hoạch định
chính sách thích ứng với BĐKH trong đó có nhiệm vụ đánh giá tác động về mặt xã
hội và kinh tế của BĐKH đối với người nghèo.

5



Năm 2010, nhóm nghiên cứu thuộc Viện Khoa học khí tượng thủy văn và
môi trường đã thực hiện một báo cáo về “BĐKH và tác động ở Việt Nam”. Báo cáo
này đã cung cấp những thông tin cập nhật về tình trạng BĐKH thơng qua nhiều chỉ
báo như lượng mưa, nước biển dâng, sự thay đổi nhiệt độ…và các kịch bản biến đối
khí hậu ở Việt Nam trong tương lai. Báo cáo cũng phân tích các tác động chính của
hiện tượng toàn cầu này đối với điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ở
nhiều quốc gia, khu vực địa lý.
Một cơng trình khác nghiên cứu ở phạm vi quốc gia về vấn đề “Tác động
của biến đổi khí hậu tới tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam”, do Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Viện Nghiên cứu Kinh tế
phát triển thế giới, Đại học Copenhagen (Đan Mạch) thực hiện. Nghiên cứu này đã
chỉ ra rằng GDP của Việt Nam có thể giảm tới 2,5% do biến đổi khí hậu. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: khí hậu Việt Nam có thể sẽ nóng lên trong tương lai, đến năm
2050, nhiệt độ tăng lên từ 1-2oC. Theo đánh giá, mặc dù tác động khơng nhiều, song
điều này có thể làm chậm lại quá trình tăng trưởng kinh tế chung của Việt Nam.
Ước tính, thiệt hại do biến đổi khí hậu là khá lớn, tập trung vào những ngành và khu
vực dễ bị tổn thương.
2.4. Các nghiên cứu về tác động của biến đổi khí hậu lên sản xuất nơng nghiệp
và khả năng thích ứng đối với biến đổi khí hậu
2.4.1. Trên thế giới
BĐKH khơng chỉ tác động tới tự nhiên mà cịn gây áp lực rất lớn đến kinh tế,
xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực SXNN của người dân. Các nghiên cứu
tác động của BĐKH đối với sản xuất nơng nghiệp thể hiện ở các khía cạnh sau [45,
tr. 21]:


Khi nhiệt độ tăng sẽ ảnh hưởng đến khả năng phát sinh, phát triển của


cây trồng, vật nuôi làm cho thay đổi về năng suất và sản lượng;
 Khi nhiệt độ tăng làm cho suy giảm tài nguyên nước, nhiều vùng khơng có
nước và khơng thể tiếp tục canh tác làm cho diện tích canh tác bị suy giảm;

6


 Khi nhiệt độ tăng làm cho băng tan, dẫn đến nhiều vùng đất bị xâm lấn và
ngập mặn và không tiếp tục canh tác các loại cây trồng hoặc làm giảm
năng suất;
 Thay đổi về các điều kiện khí hậu sẽ làm suy giảm đa dạng sinh học, làm
mất cân bằng sinh thái, đặc biệt là thiên địch và ảnh hưởng đến sinh
trưởng phát triển cây trồng và phát sinh dịch bệnh;
 Các hiện tượng thời tiết cực đoan, không theo quy luật như bão sớm,
muộn, mưa không đúng mùa sẽ gây khó khăn cho bố trí cơ cấu mùa vụ và
gây thiệt hại cho ngành sản xuất nông nghiệp...
Trên thế giới, BĐKH đã làm giảm năng suất ngô 3.8%, năng suất lúa mì
5.5% và cũng được dự báo sẽ tiếp tục làm giảm năng suất cây trồng khi nhiệt độ
tiếp tục tăng (Battisti, D.S &Naylor, R.L, 2009; Wheeler, T và CS, 2010; Lobell,
B.D và CS, 2011). Theo đánh giá của IPCC (2007) năng suất lúa sẽ giảm 10% khi
nhiệt độ tăng 1oC. Như vậy BĐKH, ước tính sẽ tiếp tục làm giảm năng suất cây
trồng; tới năm 2050 năng suất lúa sẽ giảm ít nhất 10%, năng suất ngô giảm 3-6%.
[24, tr. 22]
2.4.2. Ở Việt Nam
2.4.2.1. Tác động của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp
Nghiên cứu ảnh hưởng của BĐKH và hoạt động sản xuất nông nghiệp của
người dân, ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm và nghiên cứu, trên nhiều vùng
miền, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trước tiên phải kể đến nghiên cứu của tác giả Lương Ngọc Thúy, Phan Đức
Nam “Tác động của biến đổi khí hậu đến hoạt động sản xuất nông nghiệp và di cư

của người nông dân” [30]. Nghiên cứu đề cập đến tác động của BĐKH đến hoạt
động trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và di cư. Liên quan đến hoạt động
trồng trọt BĐKH làm mất diện tích canh tác, giảm năng suất, chất lượng nông sản,
tăng nguy cơ xuất hiện các loại dịch bệnh mới. Trong lĩnh vực chăn ni, BĐKH có
thể làm giảm khả năng sinh trưởng và sản xuất của vật nuôi; khan hiếm nguồn nước
ngọt cung cấp cho chăn nuôi cũng như là nguyên nhân quan trọng dẫn đến dịch

7


bệnh trên vật nuôi. Trên lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, BĐKH tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua nguồn nước, diện tích ni, mơi trường ni, con giống,
dịch bệnh và qua đó gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng của
các vùng nuôi trồng thủy sản.
Cùng quan điểm với nghiên cứu của Lương Ngọc Thúy và Phan Đức Nam,
các tác giả Phan Sĩ Mẫn, Hà Huy Ngọc trong báo cáo “Tác động của BĐKH đến
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thực trạng và giải pháp ứng phó” [20] cho rằng
BĐKH gây nên tình trạng mất an ninh lương thực quốc gia; tác động trực tiếp đến
các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản (giảm diện tích ni trồng, q trình
sinh trưởng và phát triển, dịch bệnh). Từ đó giảm cơ hội việc làm và thu nhập của
người nơng dân.
Cịn theo Đồn Văn Điếm và cộng sự [14], BĐKH đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến diện tích đất canh tác và năng suất lúa trong đó vụ lúa xuân chịu tác động mạnh
hơn vụ lúa mùa. Do nhiệt độ và tính ơn tăng làm cho quá trình phát triển và sinh
trưởng của lúa bị rút ngắn, chỉ số diện tích lá giảm nên cường độ hơ hấp tăng, tích
lũy sinh khối khơng đảm bảo. Đặc biệt nghiên cứu còn dự báo, với kịch bản phát
thải khí nhà kính cao, năng suất lúa vụ xuân có thể giảm từ 41.8% vào năm 2020
đến 71% vào năm 2100. Vào năm 2020 năng suất lúa vụ xuân vẫn cao hơn vụ mùa,
đến năm 2050 năng suất lúa 2 vụ xấp xỉ bằng nhau và từ năm 2070 trở đi, năng suất
lúa vụ xuân sẽ thấp hơn so với vụ mùa.

Theo Đinh Vũ Thanh và Nguyễn Văn Viết trong nghiên cứu “Tác động của
BĐKH đến các lĩnh vực nơng nghiệp và giải pháp ứng phó” [28] sự thay đổi bất
thường của khí hậu và thời tiết đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và
phát triển của cây trồng, làm giảm năng suất, cũng như gia tăng dịch bệnh hại trên
cây trồng. Đối với chăn nuôi BĐKH làm phát sinh dịch bệnh và làm tăng khả năng
lây lan bệnh tật đối với gia súc, gia cầm... Đặc biệt, nảy sinh nhiều bệnh lạ như
H5N1, H1N1, H7N9... làm vật nuôi chết trên rộng, gây tổn thất nặng nề cho người
chăn nuôi. Điều này sẽ làm giảm số lượng, năng suất và chất lượng vật nuôi.

8


Nghiên cứu “BĐKH và ảnh hưởng của nó đến SXNN thành phố Quy Nhơn,
tỉnh Bình Định” của các tác giả Nguyễn Đức Tôn, Trương Văn Tuấn [31] đề cập
đến những biểu hiện của BĐKH ở thành phố Quy Nhơn bao gồm: nhiệt độ và lượng
mưa, nước biển dâng, bão và áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, hạn hán, triều cường và
xâm nhập mặn. Những biểu hiện này đã gây thiệt hại rất lớn đến trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp và khai thác thủy sản tại đây như diện tích đất sản xuất bị thu hẹp và khô
hạn, nhiễm mặn, phát sinh các loại sâu bệnh như rầy nâu, sâu cuốn lá, bọ trĩ, dịch lở
mồm long móng, dịch cúm gia cầm, xói mịn đất rừng, cháy rừng, hư hỏng tàu thuyền
từ đó làm giảm năng suất cây trồng và vật nuôi ảnh hưởng đến thu nhập của các người
dân. Tuy nhiên nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả các biểu hiện cũng như tác
động của BĐKH mà chưa đưa ra những lý giải chuyên sâu về vấn đề.
Tác giả Lê Diễm Kiều và CS khi nghiên cứu “Ảnh hưởng của BĐKH đến
SXNN tỉnh Kiên Giang” [19] đã chỉ ra BĐKH ảnh hưởng đến SXNN hầu hết các
huyện, trong đó có 4/13 huyện bị tổn thương cao và 6/13 huyện bị tổn thương, 3/13
huyện bị tổn thương thấp. Các ảnh hưởng chính bao gồm giảm diện tích SXNN
chuyển sang nuôi trồng thủy sản do xâm nhập mặn; thay đổi lịch canh tác vụ đồng
xuân, mất mùa do lũ.
Cùng chung hướng nghiên cứu về ảnh hưởng của BĐKH đến SXNN bài viết

“Ảnh hưởng của BĐKH đến SXNN vùng Tây Nguyên – Một số giải pháp thích ứng
và giảm nhẹ” [17] của tác giả Trương Hồng đã đề cập BĐKH ảnh hưởng trực tiếp
tới năng suất, sản lượng của hầu hết các loại cây công nghiệp chủ lực của Tây
Nguyên như cà phê, cao su, điều, hồ tiêu. Biến động của yếu tố nhiệt ẩm và các yếu
tố khí hậu khác cũng khiến cho năng suất và chất lượng vật nuôi bị giảm, sức đề
kháng của vật nuôi kém đi, tạo môi trường thuận lợi cho dịch bệnh bùng phát trên
gia súc, gia cầm như bệnh cúm gia cầm, dịch heo tai xanh...
Như vậy, BĐKH đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Vì vậy, để giảm thiểu tác hại của BĐKH đến sản xuất nơng
nghiệp, cần tìm ra những biện pháp thích ứng để người dân tiếp tục sản xuất nơng
nghiệp, bảo đảm thu nhâp và ổn định cuộc sống.

9


2.4.2.2. Thích ứng với BĐKH trong sản xuất nơng nghiệp
Việc phân tích các biện pháp thích ứng với BĐKH trong sản xuất nông
nghiệp sẽ giúp người dân chủ động hơn trong việc lập kế hoạch canh tác nông
nghiệp và ứng phó với những biến đổi thất thường của thời tiết, khí hậu.
Theo Nguyễn Tuấn Anh và CS (2012) [2], các chiến lược thích nghi với
BĐKH trong SXNN là chuyển dịch mùa vụ lên sớm hoặc muộn đi nhằm tránh các
hiện tượng thời tiết bất thường, thay đổi cơ cấu giống cây trồng. Trong lĩnh vực
nuôi trồng và đánh bắt thủy sản người dân ứng phó bằng cách khai thác thêm các
nguồn lợi từ ao đầm và thay đổi quy mô sản xuất để giảm rủi ro kinh tế, khai thác
thêm rau câu trong các đầm, chuyển dịch bớt lao động trong lĩnh vực nuôi trồng
thủy hải sản, xây dựng các mạng lưới làm ăn trong lĩnh vực nuôi trồng thủy hải sản
để tận dụng vốn, kinh nghiệm làm ăn của một nhóm hộ, nhằm tăng sản lượng và
giảm thiểu rủi ro. Việc chuyển đổi sinh kế từ SXNN và nuôi trồng thủy hải sản sang
các lĩnh vực phi nông nghiệp là một biện pháp phổ biến để ứng phó với tác động
của BĐKH ở Cồn Thoi. Nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến vai trò của vốn kinh tế,

vốn con người, và vốn xã hội trong việc thay đổi sinh kế - như là cách để người dân
địa phương ứng phó đối với biến đổi khí hậu.
Tác giả Nguyễn Văn Viết và Nguyễn Hồng Sơn trong nghiên cứu “Tác động
của BĐKH và thiên tai đối với nông nghiệp Việt Nam, biện pháp thích nghi để phát
triển bền vững” [40] đã đưa ra các chiến lược thích nghi đối với SXNN bao gồm:
thích nghi trước mắt (Bảo hiểm nơng nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật ni, thay
đổi cường độ sản xuất, tăng cường chất khoáng và giám sát sâu bệnh; thay đổi biện
pháp canh tác và các hệ thống canh tác, di chuyển tạm thời); thích nghi lâu dài
(Hiện đại hóa và cơng nghệ cao, thay đổi hệ thống cây trồng, xen canh, nâng cao
quản lý nguồn nước, chuyển dịch lao động); Kết hợp trước mắt và lâu dài (Đầu tư
tích lũy vốn, thay đổi sơ đồ phát triển giá của thị trường; thích nghi bằng cơng nghệ
mới; mở rộng thương mại; chuyển giao; đa dạng nghề và phương thức lao động;
kiểm sốt số liệu khí hậu; quy hoạch..). Về kỹ thuật đối với sự thích nghi các tác giả
khuyến nghị chuyển đổi mùa và thời vụ đối với những cây ngắn ngày; đa dạng mùa

10


và giống; chọn tạo những giống cây trồng mới; nguồn nước và hệ thống tưới; đầu tư
và quản lý điều hành; canh tác; nâng cao dự báo khí hậu ngắn và dài hạn. Hai tác
giả kết luận những chiến lược và các biện pháp thích nghi của sản xuất nơng nghiệp
là sống chung với khí hậu và né tránh thiên tai – con đường kinh tế nhất đề bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững.
Một nghiên cứu khác của Mai Văn Trịnh, Nguyễn Hồng Sơn và CS [32] đã
chỉ ra các biện pháp tự thích ứng tiêu biểu ở các địa phương đó là: phục tráng giống
địa phương; thay đổi cơ cấu giống tăng tỷ lệ giống ngắn ngày; điều chỉnh lịch thời
vụ; dịch chuyển các loại cửa cống lấy nước; tăng cơ cấu các giống chịu mặn và lúa
lai; tìm nguồn nước tưới mới; thay đổi cơ cấu cây trồng luôn canh; chuyển đổi sang
nuôi trồng thủy sản; chuyển lúa sang vườn cây ăn quả; thời vụ hóa các công thức
luân canh. Hạn chế của nghiên cứu này là chưa đánh giá được thực trạng của

BĐKH tại các địa bàn mà nghiên cứu khảo sát, các biện pháp tự thích ứng này chỉ
được tổng hợp theo từng địa phương, vùng bị tác động và các điều kiện tự nhiên xã
hội khác nhau. Do đó, khơng thấy được mối liên kết giữa chúng. Rất khó để có thể
khái quát nên một mơ hình chung trong việc thích ứng với BĐKH.
Tham luận “Kế hoạch thích ứng với BĐKH trong lĩnh vực nông nghiệp và
phát triển nông thôn” do Đào Xuân Học trình bày tại Hội thảo Việt Nam thích ứng
với BĐKH, ngày 31/7/2009 tại Hội An đề cập đến một số vùng dễ bị tổn thương do
BĐKH như Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ,
Trung Trung Bộ và một số vùng ven biển. Trong tham luận, tác giả giới thiệu
“Khung chương trình hành động thích ứng với BĐKH của ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn giai đoạn 2008 – 2020” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nơng
thơn. Trên cở sở đó các đơn vị trực thuộc và các địa phương cụ thể hóa những tác
động và giải pháp ứng phó, lồng ghép chương trình mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của địa phương.
Cùng chung chủ đề này, Đặng Thị Hoa, Quyền Đình Hà có nghiên
cứu“Thích ứng với BĐKH trong SXNN của người dân ven biển huyện Giao Thủy,
tỉnh Nam Định” [16]. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra các cách thích ứng với BĐKH

11


của người dân Giao Thủy trong sản xuất nông nghiệp là: sự chuyển đổi cơ cấu cây
trồng/ vật nuôi; thay đổi giống cây trồng/vật ni; chuyển đổi mục đích sử dụng đất;
thay đổi kỹ thuật canh tác/ nuôi trồng; nâng cấp/gia cố khu nuôi trồng đảm bảo
vững chắc hơn; thay đổi trang thiết bị/ phương tiện đánh bắt hiện đại hơn; tăng
cường theo dõi công tác dự báo thời tiết trên các phương tiện truyền thống đại
chúng.
Kết quả này là tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Mậu Dũng về “BĐKH
và SXNN vùng Đồng bằng sông Hồng: thực trạng và giải pháp” [11]. Trên cơ sở
những tác động của BĐKH đến SXNN vùng Đồng bằng sông Hồng, tác giả đã chỉ

ra các biện pháp thích ứng chủ yếu đã và đang được triển khai ở đồng bằng sông
Hồng bao gồm: chuyển đổi cơ cấu cây trồng; thay đổi thời vụ gieo trồng; Sử dụng
giống mới và thay đổi tập quán canh tác, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất; tăng cường đầu tư hệ thống thủy lợi tích cực phịng chống lũ lụt, hạn hán; triển
khai các chương trình hỗ trợ phịng tránh, khắc phục thiên tai. Tăng cường năng lực
thích ứng và các hành động thích ứng, đa dạng hóa sinh kế cho người dân thơng qua
việc phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp là các giải pháp chính mà tác giả
kiến nghị trong nghiên cứu này.
Tác giả Manuels. Tan JS, Đại học Bang Cagayan, Philippines thực hiện
nghiên cứu “Thích ứng với thay đổi khí hậu trong nông nghiệp, ngư nghiệp và tài
nguyên thiên nhiên của người dân tộc ở thung lũng Cahayan (khu vực 02), bắc Phi
– Lip – Pin”. [21]. Nghiên cứu này ghi lại kiến thức, những hệ thống và tập quán
liên quan đến nông nghiệp, ngư nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong điều
kiện thời tiết khắc nghiệt của những nhóm người dân tộc bản địa (IP). Những hoạt
động thích ứng nổi bật được tác giả chỉ ra bao gồm: một tổ chức hợp tác xã tiến bộ,
một bộ sưu tập phong phú các loại cây dược liệu, các lồi có khả năng trừ sâu và
thực hành xen canh gối vụ một cách hệ thống. Trên cơ sở những phát hiện này, tác
giả đưa ra một số khuyến cáo về chính sách để cải thiện sự thích ứng với BĐKH
của nông dân IP đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp như: mở rộng và phát triển nông
nghiệp hữu cơ, đưa ra chiến lược phát triển cho các sản phẩm hữu cơ và nông

12


nghiệp; tăng cường các kênh tiếp thị sản phẩm nông nghiệp hữu cơ; giới thiệu chính
sách tài chính hoặc các ưu đãi cho nông dân; giới thiệu và vận động tích cực sử
dụng các máy móc nơng nghiệp tiết kiệm nhiên liệu..v.v.
Trong một nghiên cứu khác, các tác giả Trần Văn Điển, Hồ Ngọc Sơn, Lưu
Thị Thu Giang [5] đề cập đến vai trò của kiến thức bản địa đối với hoạt động SXNN
thích ứng với BĐKH của các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc. Kết quả

nghiên cứu đã chỉ ra kiến thức bản địa và kinh nghiệm của đồng bào khu vực này
khá đa dạng và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như sử dụng nhiều loại cây
trồng và giống vật nuôi địa phương có đặc điểm thích nghi tốt với hạn hán, thời tiết
lạnh, dễ trồng xen canh với các cây trồng khác, thay đổi lịch trồng trọt và thời vụ để
phù hợp với thời tiết ngày một biến đổi và sử dụng kinh nghiệm quan sát và dự báo
các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt nhằm tránh thất thu trong sản xuất. Hạn chế của
nghiên cứu này là quá đề cao vai trò của kiến thức bản địa trong việc thích ứng với
BĐKH mà chưa nhận thấy rằng BĐKH có thể thay đổi mạnh mẽ tính thiết thực của
một số vốn tri thức bản địa. Vì vậy cần có sự kết hợp giữa kiến thức bản địa và tri
thức khoa học.
Các nghiên cứu của tác giả Trương Hồng (2016) [17] và Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền
Nam (2016) [44] lại chỉ ra các tiến bộ kỹ thuật về giống (kháng chịu hạn tốt, chín
muộn), tưới nước tiết kiệm, quản lý xói mịn, rửa trơi, bón phân hợp lý và canh tác
tổng hợp là những giải pháp có tính chiến lược và triệt để nhất để ứng phó với
BDKH và tái cơ cấu ngành nơng nghiệp.
Tóm lại, từ các cơng trình nghiên cứu, cho thấy rằng SXNN là ngành dễ bị
tổn thương nhất trước tác động của BĐKH, điều này thể hiện ở sự thu hẹp diện tích
SXNN do xâm nhập mặn và nước biển dâng, thay đổi thời gian sinh trưởng của cây
trồng, thay đổi tập quán canh tác, từ đó năng suất nơng nghiệp bị giảm sút đe dọa
đến an ninh lương thực, thu nhập của người dân thấp, đời sống thiếu ổn định. Các
nghiên cứu tập trung chủ yếu vào tác động của BĐKH đến kinh tế, xã hội và văn
hóa trong đó có hoạt động SXNN; Chỉ ra cách tiếp cận và khung lý thuyết về những

13


vấn đề liên quan và nhất là sự thích ứng với BĐKH; Phân tích vai trị của cộng đồng
trong việc ứng phó và thích ứng với BĐKH. Tuy nhiên, hạn chế và khoảng trống
của các nghiên cứu này là thực trạng thích ứng của các hộ gia đình, các cộng đồng

trong sản xuất chưa được phân tích một cách chi tiết và cụ thể cho từng lĩnh vực
trồng trọt và chăn nuôi; Các yếu tố ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết định lựa chọn
các biện pháp thích ứng của các hộ gia đình chưa được đề cập trong các nghiên cứu;
Hơn thế nữa, các nghiên cứu này tập trung vào khu vực miền Trung và một số tỉnh
ở Đồng bằng Sơng Cửu Long có rất ít những nghiên cứu xã hội học mang tính quy
mơ về chủ đề thích ứng với BĐKH trong lĩnh vực SXNN, đặc biệt là Tây Nguyên.
Thích ứng là xu thế tất yếu trong vấn đề BĐKH toàn cầu hiện nay, nhằm giảm thiểu
tác động của BĐKH lên cuộc sống của con người nhưng việc chuẩn bị thích ứng chỉ
mới ở bước đầu và mới được thực hiện ở một số địa phương riêng lẻ.
Đề tài “Thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất nơng nghiệp của các
hộ gia đình phường 7, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng” được thực hiện dựa trên
sự kế thừa từ việc phân tích những điểm mạnh và điểm yếu của các nghiên cứu
trước đó. Trên cơ sở phân tích nội dung các nghiên cứu, tác giả xác định những
khoảng trống, những vấn đề còn bỏ ngỏ liên quan đến chủ đề nghiên cứu mà những
nhà nghiên cứu đi trước chưa đề cập đến hoặc giải quyết chưa thấu đáo để lựa chọn
vấn đề nghiên cứu, xác định các câu hỏi nghiên cứu, lựa chọn cách tiếp cận lý
thuyết, phương pháp nghiên cứu phù hợp. Cũng trên cơ sở phân tích các nghiên
cứu đó, tham khảo các bộ công cụ đo lường tác giả tiến hành xây dựng bộ công cụ
phục vụ cho khảo sát thực địa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chỉ ra cách thức mà
các hộ gia đình tại phường 7, thành phố Đà Lạt thích ứng với BĐKH
trong sản xuất nông nghiệp. Từ kết quả nghiên cứu đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng với BĐKH trong sản xuất nơng
nghiệp của các hộ gia đình tại địa bàn nghiên cứu.

14



3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Xây dựng sơ sở lý luận và thực tiễn về chủ đề nghiên cứu.
 Thực hiện khảo sát thu thập thông tin tại thực địa. Xử lý và phân tích dữ liệu
 Làm rõ những biểu hiện cụ thể của BĐKH đang diễn ra tại địa bàn phường 7
trong giai đoạn từ 2010 – 2016.
 Tìm hiểu các cách thức mà các hộ gia đình thích ứng với BĐKH trong sản
xuất nơng nghiệp cụ thể là trong lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi.
 Xác định những yếu tố chính ảnh hưởng đến cách thức thích ứng với BĐKH
của các hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự thích ứng với biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của
các hộ gia đình phường 7, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
 Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu chỉ ra sự thích ứng với BĐKH trong sản
xuất nơng nghiệp của các hộ gia đình trong khoảng thời gian từ 2010 -2016
 Thời gian thực hiện đề tài tại thực địa: từ 9/2016 đến tháng 3/2017
 Không gian nghiên cứu: Phường 7 thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng
 Nội dung nghiên cứu: nghiên cứu tập trung vào khả năng thích ứng trong sản
xuất nơng nghiệp của các hộ gia đình trên các lĩnh vực: trồng trọt, chăn ni.
4.3. Câu hỏi nghiên cứu
 Những biểu hiện cụ thể của BĐKH ở phường 7 diễn ra như thế nào?
 Biến đổi khí hậu tác động như thế nào đến sản xuất nơng nghiệp của các hộ
gia đình trên địa bàn nghiên cứu?
 Các hộ gia đình ở phường 7, thành phố Đà Lạt đã thích ứng như thế nào với
BĐKH trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp?
 Những yếu tố nào ảnh hưởng đến cách thức thích ứng với BĐKH trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nghiên cứu?

15



4.4. Giả thuyết nghiên cứu
 Dưới tác động của BĐKH, những hiện tượng thời tiết bất thường ngày càng
xảy ra thường xuyên, liên tục với cường độ mạnh và không theo qui luật.
Mưa đá và hạn hán là hai hiện tượng xảy ra thường xuyên với cường độ
mạnh.
 BĐKH tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình dưới
các hình thức mất đất sản xuất, giảm năng suất, sản lượng cây trồng/vật nuôi,
gia tăng dịch bệnh, mất tài sản.
 Các biện pháp thích ứng với BĐKH trong sản xuất nơng nghiệp của các hộ
gia đình tại phường 7, Đà Lạt còn chưa chủ động và mang tính ngắn hạn.
 Trình độ học vấn chủ hộ, qui mơ hộ gia đình, điều kiện kinh tế hộ gia đình là
các yếu tố chính ảnh hưởng đến cách thức thích ứng với BĐKH trong lĩnh
vực sản xuất nơng nghiệp của các hộ gia đình ở Đà Lạt.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Những lý luận và phương pháp luận của Triết học Mác – Lênin trong đó bao
gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở xuyên suốt
của đề tài nghiên cứu.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cần phải nhận thức, giải quyết
các hiện tượng xã hội trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Vì thế, khi nghiên cứu sự thích
ứng với BĐKH trong sản xuất nơng nghiệp của hộ gia đình cần phải đặt trong một
không gian, thời gian nhất định từ đó đưa ra biện pháp giải quyết phù hợp, khách
quan chứ khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng là xem xét và giải thích các
q trình, các hiện tượng xã hội trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau có tính chất
qui luật giữa chúng. Điều đó có nghĩa rằng khi nghiên cứu sự thích ứng với BĐKH
trong sản xuất nơng nghiệp của hộ gia đình phải được xem xét trong mối quan hệ
với các yếu tố khác như điều kiện kinh tế, trình độ học vấn, qui mơ hộ gia đình,

chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Từ đó nhìn nhận BĐKH và
16


thích ứng với vấn đề này là vấn đề hết sức cấp bách cần phải có sự chung tay góp
sức của cả cộng đồng.
Các phương pháp luận và hướng tiếp cận của xã hội học, các lý thuyết xã hội
học được áp dụng phù hợp cho từng nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó hướng tiếp
cận tổng quát cũng mang lại cái nhìn khách quan cho chủ đề nghiên cứu.
Ngồi ra, đề tài còn vận dụng quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước
trong lĩnh vực mơi trường và BĐKH. Đặc biệt là Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
3/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được dùng để thực hiện đề tài là: phương pháp
nghiên cứu tài liệu thứ cấp; phương pháp điều tra chọn mẫu; phương pháp phỏng
vấn sâu.
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp.
Nhìn chung, phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp là việc biên soạn lại
các thơng tin có sẵn trong các tài liệu hay nói cách khác là xem xét các thơng tin có
sẵn trong các tài liệu để rút ra những thông tin cần thiết, có liên quan đến các mục
tiêu nghiên cứu của đề tài. Trong luận văn của mình, tác giả đã sử dụng các nguồn
tư liệu như: hệ thống các văn bản của nhà nước liên quan đến chủ đề BĐKH, các
văn bản, báo cáo sơ kết, tổng kết của UBND phường 7, Sở Tài Nguyên và Môi
trường tỉnh Lâm Đồng, Cục Thống kê tỉnh Lâm Đồng, Trung tâm dự báo Khí tượng
Thủy văn tỉnh Lâm Đồng, để xem xét, nhận diện và phân tích thực tiễn vấn đề
nghiên cứu tại địa phương.
5.2.2. Phương pháp điều tra chọn mẫu.
Đề tài sử dụng bảng hỏi là công cụ thu thập thông tin chủ yếu với đơn vị
phân tích là hộ gia đình. Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn bằng bảng hỏi tổng số

150 hộ gia đình tại phường 7, thành phố Đà Lạt. Phương pháp chọn mẫu được trình
bày chi tiết trong phần tiếp theo.

17


×