Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.37 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ …

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VƠ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN – MỘT SỐ VÂN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THƯC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sư
Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị ………


HÀ NỘI - NĂM 2017
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VƠ CHỒNG TRONG
THỜI KỲ HÔN NHÂN 8
1.1 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN 8
1.1.1. Khái niệm tài sản chung 8
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân 9
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 12
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN
NHÂN 15


1.3. SƠ LƯỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 17
1.3.1. Sơ lược pháp luật Việt Nam về căn cứ, phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân 18
1.3.2. Sơ lược pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân 23
1.4. PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 35
Chương 2
CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN THEO PHÁP LUẬT HIỆN
HÀNH 36
2.1. THỜI ĐIỂM CÓ HIỆU LỰC CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 36
2.1.1. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có hiệu lực khi không thuộc trường
hợp chia tài sản bị coi là vô hiệu 36
2.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phải tuân theo hình thức nhất định
43
2.1.3. Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 46
2


2.1.4. Quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 48
2.2. PHƯƠNG THỨC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN
NHÂN 49
2.3. HỆ QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI
KỲ HÔN NHÂN 55
2.3.1. Hậu quả pháp lý về nhân thân 55
2.3.2. Hậu quả pháp lý về tài sản 56
2.4. CHẤM DỨT HIỆU LỰC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNGTRONG THỜI KỲ

HÔN NHÂN 59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 62
Chương 2
VƯỚNG MẮC TRONG THƯC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN CỦA VƠ CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 63
3.1. VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 63
3.1.1. Vướng mắc trong quy định về các trường hợp vô hiệu khi chia tài sản chung vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân 63
3.1.2. Vướng mắc về chủ thể có quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân 67
3.1.3. Vướng mắc về xác định trách nhiệm của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân 68
3.1.4. Vướng mắc trong phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân 75
3.1.5. Vướng mắc về nghĩa vụ thông báo của vợ chồng khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân 77
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ
CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN 78
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 85
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan, đề tài: “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân – Một sô
vấn đề lý luận và thực tiễn” là công trình nghiên cứu của riêng em, có sự hỗ trợ và giúp đỡ của
giảng viên hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Lan. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài này là trung thực
được trình bày dựa trên sự hiểu biết của bản thân, cộng với việc tra cứu, cập nhật, tìm hiểu nguồn

tài liệu dựa trên các bài viết của các thầy cô trong trường, các báo cáo, sách chuyên khảo và
website đã được liệt kê ở danh mục tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày……tháng…….năm 2017
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

4

HỌC VIÊN THƯC HIỆN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội, là nơi
những người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng cùng chung sống. Gia đình hoà
thuận hạnh phúc sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững và phồn thịnh chung của xã hội. Quan
điểm này được Ph.Ăngghen nhấn mạnh như một nguyên lý của nội dung lý luận Macxit về
HN&GĐ trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”. Sự ổn định và phát triển lành mạnh của gia đình sẽ góp phần vào sự phát triển chung của
toàn bộ xã hội. Đánh giá cao tầm quan trọng của gia đình trong đời sống xã hội nói riêng cũng như
trong việc xây dựng, phát triển đất nước nói chung, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng quan tâm
đến việc xây dựng gia đình văn hoá, hạnh phúc.
Khi nam nữ kết hôn cùng nhau xây dựng một gia đình thì sự bền vững của quan hệ hôn nhân là
mong muốn của hai bên vợ chồng. Mục đích của kết hôn là nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc,
cùng nhau chung sống suốt đời nhưng cuộc sống gia đình không phải lúc nào êm đềm, hòa thuận.
Trong mối quan hệ vợ chồng, yếu tố tình cảm đóng vai trò quan trọng hàng đầu, không có sự phân
biệt rạch ròi về nguồn gốc tài sản hay tài sản này của ai. Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại nhu
cầu sử dụng riêng tài sản là rất lớn, vì lý do chủ quan hay khách quan nào đó mà vợ chồng có nhu
cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Chính vì vậy, việc quy định chế định chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân trở thành một nhu cầu tất yếu, một mặt giải tỏa được
những xung đột trong gia đình, mặt khác giúp cho Tòa án giải quyết nhanh chóng các vụ việc.

Trong quá trình xã hội hoá và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, Việt Nam đã thực sự chuyển
mình và có những thay đổi toàn diện, sâu sắc về mọi mặt của đời sống. Dưới ảnh hưởng của nền
kinh tế mở đó đã tạo cho mọi người đều có cơ hội làm giàu cũng như tự khẳng định mình. Đời
sống gia đình được cải thiện đồng nghĩa với khối tài sản vợ chồng tăng lên, nhu cầu riêng cũng
nhiều hơn, đa dạng hơn, theo đó nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là rất cần thiết và hữu
ích, có nhiều ưu điểm.
Trên cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ 2000, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân của vợ chồng tại Luật HN&GĐ 2014 có những bước thay đổi tích cực, phù hợp với
sự phát triển của xã hội. Các quy định về chia tài sản chung của vợ chồng đã từng bước đi vào
5


cuộc sống, phát huy được hiệu quả điều chỉnh, Luật HN&GĐ 2014 có nhiều quy định mở hơn
so với luật Hôn nhân và Gia đình 2000, giúp cho việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân đạt được kết quả tốt nhất.
Bởi lẽ đó, việc nghiên cứu về chế định chia tài sản chung của vợ chồngtrong thời kỳ hôn nhân là
hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân – Một sô vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học về lĩnh vực HN&GĐđã có nhiều công trình,
bài viết về tài sản của vợ chồng nói chung và chia tàisản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân nói riêng, chẳng hạn như luậnán tiến sỹ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và
Gia đình ViệtNam” đã được tác giả Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công năm 2005; “Hậuquả pháp
lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hônnhân” của tác giả Nguyễn Phương
Lan đăng trên Tạp chí Luật học số 6 năm2002; “Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng trong
pháp luật cộnghoà Pháp và pháp luật Việt Nam” của tác giả Bùi Minh Hồng đăng trên Tạpchí Luật
học số 11 năm 2009… và rất nhiều công trình nghiên cứu khác. Đây thật sự là những công trình
khoa học có giá trị rất lớn trong khoa học, lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu như: “Bàn thêmvề chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân” của tác giả Nguyễn Hồng Hải; “Một số vấn đề chia tài sản của

vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000” của tác giả Nguyễn Thị Bích Vân.
Nhìn chung, các công trình này đã nghiên cứu một cách khá toàn diện về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật HN&GĐ 2000.
Mặc dù vậy, với xu hướng ly hôn và các vụ chia tài sản chung của vợ chồng ngày càng tăng và
việc Luật HN&GĐ 2014 đã được áp dụng thì việc nghiên cứu các quy định về chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo quy định của Luật HN&GĐ 2014 là rất quan
trọng và cần thiết, cần có cái nhìn tổng quan về những tiến bộ trong Luật HN&GĐ 2014 đồng
thời chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết
các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

6


Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chia tàisản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân và một số công trình nghiên cứu cũng như những vụ việc cụ thể có liên
quan đến vấn đề này.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chia tài sản chungcủa vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân trong một số văn bản pháp luật như: Luật HN&GĐ 2000; Luật HN&GĐ 2014;
BLDS 2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu
về các quy định của Luật HN&GĐ 2014 về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Luận văn cũng nghiên cứu các quy định trong pháp luật của một số nước điều chỉnh về việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật Việt
Nam, qua đó học hỏi, tiếp thu và chọn lọc những quan điểm phù hợp để bổ sung, hoàn thiện các
quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật HN&GĐ 2014.
Nội dung nghiên cứu không bao gồm việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài.
Luận văn cũng đưa những khó khăn, bất cập còn tồn tại và đóng góp những ý kiến hoàn thiện các

quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân kể từ khi Luật
HN&GĐ 2014 có hiệu lực, từ đó thấy được tầm quan trọng của việc chia tàn sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân: căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; phương
thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; hệ quả pháp lý của chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân; chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đưa ra những kiến nghị về việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luận văn nghiên cứu những nội dung chủ yếu sau:
- Khái quát chung về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hiện
hành, làm rõ khái niệm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; sơ lược pháp luật Việt Nam về
căn cứ, phương thức chia tài sản và hậu quả pháp lý khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân.

7


- Xác định hiệu lực pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và hệ quả pháp lý của chia tài
sản chung của vợ chồng trongthời kỳ hôn nhân.
- Tìm hiểu thực trạng về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; những vướng
mắc phát sinh từ thực tiễn vấn đề này và tìm ra phương hướng giải quyết, góp phần hoàn thiện
pháp luật.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Với các mục tiêu hướng tới như đã nên ở trên, luận văn đi vào giải quyết các câu hỏi sau:
1. Thế nào là chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân?
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có ýnghĩa gì?
3. Luật HN&GĐ 2014 khác gì so với Luật HN&GĐ năm 2000?
4. Pháp luật một số nước trên thế giới quy định như thế nào về chia tài sản chung của vợ chồng

trong thời kỳ hôn nhân, Việt Nam có thể học hỏi gì từ pháp luật của những nước đó?
5. Luật HN&GĐ 2014 còn những vướng mắc, khó khăn gì trong việc áp dụng các quy định
của pháp luật trong việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân?
6. Hướng giải quyết trong thời gian tới để hạn chế những vướng mắc và hoàn thiện các quy định
của Luật HN&GĐ như thế nào?
6. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của triếthọc Mác-LêNin về chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà
nước trong lĩnh vực HN&GĐ. Ngoài ra để đạt được mục đích nghiên cứu luận văn còn vận
dụng, kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê.
7. Ý nghĩa khoa học và thưc tiễn
8


Luận văn phân tích các căn cứ về lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ sự cần thiết quy định về quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nghiên cứu cũng như
bổ sung, làm phong phúthêm cho lý thuyết về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
Về thực tiễn, gia đình được coi là hạt nhân của xã hội. Sự phát triển bềnvững của gia đình là nền
tảng phát triển xã hội. Do đó, trong sự phát triển vàbiến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường
hiện nay, gia đình đóng vai tròvô cùng quan trọng trong sự thúc đẩy và phát triển kinh tế, xã hội.
Như mộttất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản,nhân thân
nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình.
Nhu cầu chia tài sản chung của vợ chồng để nâng khối tài sản riêng của mỗingười nhằm xác lập
những giao dịch riêng cũng có chiều hướng tăng. Kéotheo đó, là những vấn đề không dễ giải quyết
về hậu quả pháp lý sau khi chiatài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, quyền và nghĩa
vụ của vợchồng sau khi chia tài sản chung. Nghiên cứu cũng chỉ ra những khó khăntrong việc xác
định căn cứ chia, phương thức chia cũng như hậu quả pháp lýsau khi chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sởđó, tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao ý thức, trách
nhiệm cho các cặp vợchồng trong việc đưa ra các thoả thuận chia tài sản chung cũng như

nhữngvấn đề phát sinh sau đó, góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn, vướngmắc trong sản
xuất, kinh doanh, quản lý cũng như các vấn đề về chăm sóc,nuôi dưỡng, giáo dục con cái và các
thành viên khác trong gia đình.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Chương 2: Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hiện hành.
Chương 3: Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của vợ chồng và một số kiến nghị.

9


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VƠ CHỒNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN
1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ
HÔN NHÂN
1.1.1. Khái niệm tài sản chung
Tài sản theo nghĩa từ điển học là “của cải, vật chất dùng vào mục đíchsản xuất và tiêu dùng” trong
khi đó theo quy định tại BLDS 2005: “tài sảnbao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản” (Điều 163). Nhìn nhận trên phương diện khách quan, tài sản chung của vợ chồng có thể hiểu
là toàn bộ những quy định của pháp luật về việc hình thành khối tài sản chung của vợ chồng,
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với khối tài sản chung. Trong quan hệ hôn nhân, vợ chồng
cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng khối tài sản chung nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung
của vợ chồng, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất - sở hữu chung mà trong
đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung…
(Khoản 1 Điều 217 BLDS 2005). Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng là sở hữu chung có thể
phân chia khi vợ chồng có lý do chính đáng hay khi quan hệ hôn nhân chấm dứt.
Theo Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 thì tài sản chung bao gồm: Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu

nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân trừ trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì
phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản
chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn
lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường
hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch
bằng tài sản riêng.
10


Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia
đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
1.1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Thời kỳ hôn nhân theo quy định của luật thực định: “Thời kỳ hôn nhânlà khoảng thời gian tồn tại
quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hônđến ngày chấm dứt hôn nhân” (Khoản 13 Điều 3
Luật HN&GĐ 2014).
Thời kỳ hôn nhân ở đây được hiểu là khoảng thời gian mà quan hệ vợchồng còn tồn tại, tức là hôn
nhân được pháp luật thừa nhận. Thời điểm bắtđầu thời kỳ hôn nhân được tính như sau:
Theo thủ tục đăng ký kết hôn, ngày đăng ký kết hôn sẽ được tính từngày hai bên nam nữ ký vào
giấy chứng nhận kết hôn, cán bộ Tư pháp hộ tịchghi vào sổ đăng ký kết hôn và giấy chứng nhận
kết hôn. Ngày này cũng làngày tổ chức đăng ký kết hôn và cấp giấy chứng nhận kết hôn cho hai
bênnam nữ để họ trở thành vợ chồng. Đó chính là thời điểm bắt đầu thời kỳ hônnhân. Tuy nhiên
trong trường hợp kết hôn trái pháp luật thì việc xác định thờikỳ hôn nhân như thế nào cho phù
hợp? Khoản 2 Điều 11 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Trong trường hợp tại thời điểm Toà án

giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết
hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân đó.
Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật này”. Như vậy, nếu tại thời điểm có yêu cầu huỷ mà các bên kết hôn trái
pháp luật không còn vi phạm điều kiện kết hôn, cuộc sống chung bình thường, hạnh phúc, có con
chung, tài sản chung thì không nhất thiết phải áp dụng máy móc là xử huỷ.
Như vậy, trường hợp này thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày đăng ký kết hôn,
hay chính là từ thời điểm các bên không còn vi phạm điều kiện kết hôn.

11


Trường hợp kết hôn không đúng thẩm quyền, theo quy định tại Điều 13 Luật HN&GĐ 2014
thì trong trường hợp việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền khi có yêu cầu, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thu hồi, huỷ bỏ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật
về hộ tịch và yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước. Như
vậy, thời kỳ hôn nhân trong trường hợp kết hôn không đúng thẩm quyền được xác định kể từ ngày
đăng ký kết hôn trước, vì kể từ thời điểm đó đã tồn tại quan hệ hôn nhân.
Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng theo quy định tại Điều 14 Luật HN&GĐ
2014 và hướng dẫn xử lý tại Khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ thì
nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ 2014 chung sống với nhau
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và
chồng. Vì vậy, quan hệ hôn nhân trong trường hợp này được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn,
tức là thời kỳ hôn nhân của vợ chồng trong trường hợp này được xác định từ thời điểm đăng ký kết
hôn.
Thời kỳ hôn nhân trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết hoặc có quyết định của Toà án
tuyên bố vợ, chồng chết mà sau đó người bị tuyên bố chết trở về và theo yêu cầu của người này
hoặc người có quyền, lợi ích liên quan mà việc người đó còn sống là xác thực thì Toà án ra quyết
định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết (theo quy định tại Điều 83 BLDS 2005) và

theo quy định tại Điều 67 Luật HN&GĐ 2014 thì khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố
một người mà đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ
hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn, thời kỳ hôn nhân được tính từ thời điểm kết hôn.
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian người vợ hoặc chồng còn sống thì tài sản do vợ, chồng có được
kể từ thời điểm quyết định của Toà án về việc tuyên bố vợ, chồng đã chết có hiệu lực đến khi quyết
định huỷ bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực thì tài sản trong khoảng thời gian này là tài sản
riêng của người vợ, chồng không bị tuyên bố chết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc xác
định tài sản phát sinh trong thời kỳ vợ, chồng bị Toà án tuyên bố chết gặp phải nhiều khó khăn, và
nếu trường hợp sau khi vợ chồng đã chết trở về và được Toà án huỷ bỏ quyết định tuyên bố vợ,
chồng đã chết mà có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản
chung của vợ chồng là tài sản được xác lập trước khi vợ hoặc chồng bị Toà án tuyên bố chết, việc
xác định tài sản chung theo các quy định của pháp luật hiện hành về tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân.
12


Thời điểm chấm dứt hôn nhân được xác định khi có các sự kiện sau: Chấm dứt hôn nhân do vợ,
chồng chết. Như vậy, ngày một trong hai bên vợ chồng chết được xác định là ngày chấm dứt hôn
nhân, xác định theo ngày thực tế vợ hoặc chồng chết được ghi trong giấy chứng tử. Chấm dứt hôn
nhân khi có quyết định của Toà án tuyên bố vợ, chồng chết. Việc xác định ngày nào là ngày chấm
dứt hôn nhân được xác định theo quy định tại Điều 81 BLDS 2005, ngày chết sẽ được tính tuỳ
từng trường hợp cụ thể, nếu bị tai nạn, thảm hoạ thiên tai thì ngày chết thông thường là ngày xảy ra
tai nạn thảm hoạ thiên tai đó, nhưng nếu không xác định được ngày chết của người đó thì ngày
chết sẽ là ngày quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật và ngày này cũng được xác định là
ngày chấm dứt hôn nhân.
Chấm dứt hôn nhân do ly hôn. Ngày chấm dứt hôn nhân sẽ là ngày bản án xử cho ly hôn hoặc
quyết định thuận tình ly hôn của Toà án có hiệu lực
pháp luật. Do vậy, đối với bản án sơ thẩm có thể chưa có hiệu lực pháp luật
ngay và đương sự có quyền kháng cáo. Trường hợp này, thời kỳ hôn nhân còn
tiếp tục kéo dài cho đến khi hết thời hạn kháng cáo, mà đương sự không

kháng cáo, viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị hoặc cho đến khi có bản
án ly hôn tại cấp phúc thẩm.
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Ở Việt Nam, qua mỗi giai đoạn phát triển, chế độ tài sản của vợ chồng
đều thể hiện những nét đặc thù riêng. Trên cơ sở nền kinh tế thị trường, sự
phát triển của xã hội và gia đình, Luật HN&GĐ 2014 đã có quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân gồm chế độ tài sản chung và
chế độ tài sản riêng. Như một tất yếu của cuộc sống chung, sau khi kết hôn
đòi hỏi vợ chồng phải cùng đồng lòng, chung ý chí để vun đắp hạnh phúc gia
đình. Do đó, tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng đều cần được khai
thác nhằm đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại của gia đình. Trong điều kiện
kinh tế thị trường hiện nay, cùng với việc hội nhập quốc tế, mở rộng thị
trường, đẩy mạnh quan hệ giao thương với các nước trong khu vực và trên thế
16
giới đã làm phát sinh nhiều nghĩa vụ về tài sản mà vợ chồng phải gánh vác.
Theo đó, nhu cầu có tài sản riêng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ riêng là rất
13


cần thiết. Vậy chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là gì?
Để hiểu thế nào là chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì trước
tiên cần hiểu như nào là chia, chia theo định nghĩa tại từ điển Tiếng Việt là
“phân ra, san ra từng phần từ một chỉnh thể” vậy chia tài sản chung của vợ
chồng hiểu đơn giản là phân tài sản ra thành hai phần từ khối tài sản chung
của vợ chồng. Vậy, theo quy định của pháp luật thì chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân được hiểu như nào?
Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân lần đầu tiên được nhắc
tới trong Luật HN&GĐ 1986. Trước đó, do phong tục tập quán cũng như tư
duy của gia đình Việt là “của chồng công vợ” sự phân chia rạch ròi tài sản
trong thời kỳ hôn nhân là không hề có. Trước đó Luật HN&GĐ 1959 vấn đề

này cũng không được đề cập tới bởi Nhà nước ta quy định chế độ tài sản của
vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, toàn bộ tài sản vợ chồng có trước khi
kết hôn hoặc được tạo ra, có được trong thời kỳ hôn nhân không phân biệt
nguồn gốc tài sản, công sức đóng góp đều thuộc tài sản chung của vợ chồng.
Từ cơ sở đó, Luật HN&GĐ 1959 chỉ dự liệu hai trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng là khi vợ chồng chết trước hoặc khi vợ chồng ly hôn.
Luật HN&GĐ 1986 ra đời vào thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới với nhiều
quy định khác về căn bản so với Luật HN&GĐ 1959 để phù hợp với tình hình
kinh tế – xã hội. Theo đó, Luật HN&GĐ 1986 quy định chế độ tài sản của vợ
chồng là chế độ cộng đồng tạo sản, vợ chồng có tài sản chung và có quyền có
tài sản riêng và đặc biệt còn ghi nhận việc chia tài sản chung của vợ chồng khi
hôn nhân đang tồn tại nếu có lý do chính đáng. Kế thừa Luật HN&GĐ 1986,
Luật HN&GĐ 2000 tiếp tục quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 29 và Điều 30. Theo quy định của Luật
14


17
HN&GĐ 2000 thì khi hôn nhân đang tồn tại, trong trường hợp đầu tư, kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác
thì có thể thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật HN&GĐ 2014 tiếp thu những ưu điểm của luật cũ và quy định chi tiết
hơn, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát hơn về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Điều 38 Luật HN&GĐ 2014 quy định trong
thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ
tài sản chung, trừ các trường hợp chia tài sản chung để: trốn tránh nghĩa vụ
nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán
khi bị Tòa án tuyên bố phá sản…(Điều 42 Luật HN&GĐ 2014). Nếu không
thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy nhìn một
cách tổng quát, chia tài sản chung của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm

pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh việc vợ chồng thỏa thuận hoặc
yêu cầu Tòa án nhân dân quyết định các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng. Việc chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên điều kiện và nguyên tắc
Luật định nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng đối với tài
sản chung. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn
bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của
pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc
chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật này về nguyên tắc
giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Khái niệm chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được ghi nhận
trong bất kỳ văn bản pháp luật nào nhưng qua phân tích ở trên có thể hiểu:
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là việc vợ
chồng thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án chuyển một phần hoặc toàn bộ tài sản
15


thuộc sở hữu chung của vợ chồng cho mỗi bên vợ, chồng dựa trên các căn cứ
luật định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng và
18
người thứ ba có liên quan mà không làm chấm dứt quan hệ giữa vợ và chồng
trước pháp luật.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
Pháp luật HN&GĐ 1986 bắt đầu có quy định về chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 18: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một
bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ
chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này”. Kế thừa và phát huy quy định
này, Luật HN&GĐ 2000 tiếp tục hoàn thiện quy định trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc pháp luật thừa nhận vấn đề
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có ý nghĩa hết sức to

lớn đối với bản thân mỗi vợ chồng nói chung và với những người có quyền và
lợi ích liên quan nói riêng.
Thứ nhất, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là cơ
sở để vợ chồng tham gia vào các quan hệ xã hội, nâng cao đời sống gia đình,
ngoài lợi ích đạt được, vợ chồng phải có nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba
có quan hệ giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng. Chế định này cũng
tạo cơ sở pháp lý để phân định rõ trách nhiệm của vợ, chồng trong quản lý, sử
dụng và định đoạt tài sản phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và xây dựng
gia đình hạnh phúc, hòa thuận.
Thứ hai, tình hình kinh tế - xã hội nước ta ngày càng phát triển, hội
nhập sâu rộng nhất là khi đã ký kết hiệp định TTP - hiệp định đối tác xuyên
16


Thái Bình Dương. Nền kinh tế càng phát triển kéo theo nhu cầu kinh tế của
các gia đình cũng tăng cao, việc vợ chồng có ý định đầu tư kinh doanh riêng
hay tự chủ trong kinh tế riêng cũng ngày càng nhiều. Chính vì vậy, để bảo vệ
quyền và lợi ích chung của gia đình cũng như tôn trọng quyền tự do định đoạt
của cá nhân, quyền tự do kinh doanh được pháp luật công nhận, các quy định
19
của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tất
yếu cũng được công nhận.
Thứ ba, cuộc sống chung của vợ chồng khó tránh được những xung
đột, mâu thuẫn, nhiều trường hợp các bên vợ chồng chỉ yêu cầu chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà không muốn ly hôn. Hơn nữa,
sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân quan hệ hôn nhân vẫn còn
tồn tại nên vợ chồng vẫn có đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ nhân thân với nhau
và với gia đình. Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không phải là
gián tiếp quy định về ly thân nên không đương nhiên dẫn đến chế độ biệt sản.
Do đó, việc duy trì đời sống chung là nghĩa vụ, trách nhiệm của cả hai vợ

chồng. Đáp ứng nhu cầu này của vợ chồng và nhằm xây dựng hạnh phúc gia
đình êm ấm, hòa thuận, pháp luật cho phép chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân.
Thứ tư, quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có ý
nghĩa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba, trường hợp
do vợ chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng (những khoản nợ mà vợ
chồng vay từ trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân mà sử dụng vào
mục đích riêng) trong trường hợp này nếu tài sản riêng không có hoặc không
đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được về việc lấy tài sản chung để trả nợ
riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời
17


kỳ hôn nhân để vợ chồng dùng phần tài sản đã chia đó thực hiện nghĩa vụ riêng.
Những quy định này tạo điều kiện cho vợ chồng được tự do tham gia
vào các quan hệ xã hội, nâng cao đời sống gia đình. Tuy nhiên, ngoài những
lợi ích đạt được vợ, chồng cũng phải có nghĩa vụ tài sản đối với bên thứ ba có
quan hệ giao dịch liên quan đến tài sản của vợ, chồng; bên cạnh đó, chế định
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn tạo cơ sở pháp lý
để phân định rõ trách nhiệm của vợ chồng trong quản lý, sử dụng và định đoạt
20
tài sản phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và xây dựng gia đình hạnh phúc,
hòa thuận. Chính nhờ có quy định này mà giảm thiểu được tối đa các mâu
thuẫn phát sinh xuất phát từ khối tài sản chung của vợ chồng.
Thứ năm, quan hệ vợ chồng là một quan hệ thiêng liêng và nhạy cảm, có
lúc êm đềm, có lúc sóng gió. Đôi khi vì những lý do cá nhân nào đó mà vợ
chồng chia tài sản chung. Vì vậy việc quy định về chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân khi chia sẽ giúp tránh được một số tranh chấp phát sinh giữa vợ và
chồng. Sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, mỗi bên vợ chồng
cần xác định được quyền và nghĩa vụ của mình đối với gia đình, tránh tình

trạng trốn tránh trách nhiệm đối với con cái và gia đình. Từ đó duy trì đời sống
chung, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc và ngày càng phát triển hơn nữa.
Mặt khác, quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân rất
quan trọng. Nó giúp hai bên vợ chồng dễ dàng giải quyết các vấn đề phát sinh
sau khi chia tài sản và hạn chế tranh chấp xảy ra về hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản sau chia trong trường hợp chia một nửa khối tài sản chung. Tóm lại,
chế định chia tài chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng đóng vai trò vô
cùng quan trọng và cần thiết.
18


1.3. SƠ LƯỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐIỀU CHỈNH VIỆC CHIA TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
1.3.1. Sơ lược pháp luật Việt Nam về căn cứ, phương thức chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Pháp luật dưới các triều đại phong kiến Việt Nam và thời kỳ pháp
thuộc không có quy định về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình, giữa vợ và chồng và đặc biệt là chia tài sản chung của vợ chồng. Bộ
Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) dưới triều Lê chỉ dự liệu một số
trường hợp chia tài sản của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước còn
Bộ luật Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) dưới triều Nguyễn không có quy
21
định nào về chia tài sản chung của vợ chồng. Đến giai đoạn 1945-1954, Việt
Nam ban hành sắc lệnh số 97/SL và sắc lệnh số 159/SL cũng không có quy
định cụ thể nào về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà
hiểu theo tinh thần của hai sắc lệnh thì có thể suy luận tài sản chung của vợ
chồng phải được chia đôi, mỗi bên vợ, chồng được chia một nửa giá trị tài sản
chung.
Giai đoạn 1954-1975, dưới chế độ miền nam cộng hoà từ năm 1949
đến 1955 pháp luật dưới thời kỳ Ngô Đình Diệm không quy định về chia tài

sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định về chế độ ly
thân và dự liệu về chế độ tài sản khi vợ chồng ly thân. Luật HN&GĐ 1959
quy định một chế độ tài sản duy nhất là chế độ tài sản chung. Khi một bên vợ,
chồng chết hoặc khi hai vợ chồng ly hôn tài sản chung sẽ được chia “căn cứ
vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng
cụ thể của gia đình” (Điều 29), Luật HN&GĐ 1959 không quy định về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà chỉ quy định về chia tài
19


sản khi ly hôn. Sắc luật 15/64 chỉ dự liệu chia tài sản chung khi vợ, chồng ly
thân hoặc ly hôn. Như vậy tính cho đến thời điểm này, pháp luật chỉ mới có
những quy định sơ đẳng đầu tiên về chia tài sản chung khi vợ chồng ly thân,
ly hôn, tức là khi quan hệ hôn nhân không tồn tại hoặc chỉ tồn tại theo pháp
luật, vợ chồng không còn muốn cùng chung sức xây dựng gia đình, cùng
chung kinh tế, cùng nhau nuôi dạy con cái. Trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kì hôn nhân khi mà cả hai bên vợ chồng muốn việc chia
tài sản chỉ tác động thuần túy đến tài sản chứ không phải quan hệ hôn nhân
không được quan tâm đến và không hề xuất hiện trong bất cứ quy định nào
của pháp luật.
Khi BLDS 1972 ra đời dưới chế độ Miền nam Cộng hòa, lần đầu tiên
trong lịch sử pháp luật Việt nam, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
22
thời kỳ hôn nhân được nhắc đến. Bộ Luật này đã dự liệu cả ba trường hợp
chia tài sản đó là khi vợ, chồng chết; khi vợ chồng ly thân và ly hôn. Trong
thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể làm đơn yêu cầu Toà án tuyên phán sự biệt
sản trong một số trường hợp được luật dự liệu. Các quy định về chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân bước đầu được nhắc đến nhưng rất ít, rất sơ sài
và chỉ quy định một số rất nhỏ các trường hợp vợ chồng được chia tài sản
trong thời kỳ hôn nhân mà không có thêm hướng dẫn khác, bó buộc vợ chồng

trong các trường hợp hạn chế mà pháp luật quy định.
Từ năm 1975 đến nay, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Luật
HN&GĐ 1986 có hiệu lực trên phạm vi cả nước, pháp luật Việt Nam bắt đầu
có quy định cụ thể đầu tiên về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân tại Điều 18 “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do
20


chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều
42 của Luật này”. Theo đó, chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại được
chia như khi ly hôn tại Điều 42: “Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi,
nhưng có xem xét một cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của
gia đình và công sức đóng góp của mỗi bên”, tức là việc chia tài sản chung
phụ thuộc vào tình hình thực tế về tài sản, nhân thân cụ thể và công sức đóng
góp của vợ chồng. Quy định này khá hợp lý và có nhiều ưu điểm, bảo vệ được
quyền lợi cho gia đình, đặt lợi ích gia đình nên trước. Như vậy, Luật HN&GĐ
1986 đã đánh dấu một bước tiến dài của pháp luật Việt Nam về chế định chia
tài sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân khi bắt đầu có quy định về căn cứ chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Tuy nhiên, những quy
đinh này vẫn còn sơ khai, căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng dựa trên
yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng, lý do chia chỉ quy định chung chung là
“có lý do chính đáng” nhưng chưa có quy định hướng dẫn thế nào là “lý do
chính đáng”.
23
Kế thừa và phát triền các quy định của Luật HN&GĐ 1986, Luật
HN&GĐ 2000 đã có những quy định cụ thể hơn về căn cứ và phương thức
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản chung
của vợ chồng được quy định tại các điều 27, 28 Luật HN&GĐ 2000 là chế độ
tài sản pháp định với hình thức chế độ cộng đồng tạo sản (tài sản mà vợ,
chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung, trừ

những tài sản theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng).
Về nguyên tắc, khi hôn nhân tồn tại thì vẫn còn chế độ tài sản chung, chế độ
tài sản này chỉ chấm dứt khi hôn nhân chấm dứt về mặt pháp lý (ly hôn; một
bên vợ, chồng chết).
21


Căn cứ chia tài sản trong thời kì hôn nhân được quy định tại khoản 1
Điều 29 Luật HN&GĐ 2000:
“1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác
thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung
phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết”.
Theo đó, các căn cứ để chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân theo
Luật này bao gồm: Vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân
sự riêng và các lý do chính đáng khác. Trong trường hợp vợ chồng đầu tư
kinh doanh riêng, việc kinh doanh buôn bán cần tận dụng thời cơ để đạt hiệu
quả cao nhất. Tuy nhiên, việc đầu tư cần có vốn lớn mà mà người vợ hoặc
người chồng không muốn mạo hiểm toàn bộ tài sản chung của cả gia đình,
hoặc một trong hai vợ hoặc chồng muốn đầu tư kinh doanh nhưng vì rủi ro
cao nên người còn lại không đồng ý… Khi đó vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và
chồng có quyền thỏa thuận để chia tài sản trong thời kì hôn nhân, nếu không
thể thỏa thuận thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết với mục đích lấy phần
24
tài sản của mình trong khối tài sản chung để làm vốn đầu tư kinh doanh.
Trong trường hợp vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng, nếu tài
sản riêng không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thỏa thuận được về
việc dùng tài sản chung để trả nợ thì vợ, chồng có quyền yêu cầu chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản riêng của mình thực hiện

nghĩa vụ về tài sản đối với người thứ ba. Trường hợp có lý do chính đáng
khác, chẳng hạn như vì lý do nào đó mà vợ, chồng có mâu thuẫn nhưng không
22


muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng, chia tài sản để dùng riêng (sợ ảnh hưởng
đến con cái, ảnh hưởng đến danh dự,…), hoặc vợ chồng từng có nhiều tài sản
riêng nhưng sau đó phần lớn tài sản riêng đã được chuyển thành tài sản
chung, nay vợ, chồng muốn khôi phục lại khối tài sản riêng của mình để có
thể chủ động trong các giao dịch riêng, hoặc trường hợp vợ hoặc chồng
thường có hành vi phá tán tài sản gia đình, người còn lại cũng có thể yêu cầu
Tòa án hoặc thỏa thuận với vợ, chồng để chia tài sản chung nhằm đảm bảo sự
ổn định của kinh tế gia đình.
Luật HN&GĐ 2000 đồng thời quy định việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu trong một số trường hợp sau: theo
yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan thì việc chia tài sản chung của
vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ về tài sản sau đây bị Tòa án
tuyên bố là vô hiệu: Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng người khác theo quy
định của pháp luật; Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; Nghĩa vụ thanh toán khi bị
Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp; Nghĩa vụ nộp thuế và nghĩa vụ tài
chính khác đối với Nhà nước; Nghĩa vụ trả nợ cho người khác; Các nghĩa vụ
khác về tài sản theo quy định của pháp luật (Điều 11 Nghị định số
70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật HN&GĐ).
Quy định này nhằm đã bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi bị
25
vi phạm các quyền, lợi ích chính đáng, giúp cho quy định về chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng chặt chẽ hơn.
Có thể thấy Luật HN&GĐ năm 2000 quy định tương đối rõ ràng về căn
cứ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, nhưng lại không có quy định về
phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên chính sự

quy định rõ ràng về căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
23


nhân lại vô hình chung hạn chế vợ chồng khi quyết định chia tài sản chung.
Vợ hoặc chồng chỉ được phép chia tài sản chung khi có một trong các căn cứ
nói trên, nếu thuộc trường hợp lí do chính đáng khác thì phải chứng minh
được tính chính đáng khi thỏa thuận hay yêu cầu Tòa án chia tài sản chung.
Hơn nữa, pháp luật cũng chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là lý do chính
đáng và trong những trường hợp nào thì được chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân khi có lý do chính đáng? Và có phải trường hợp nào có lý do chính
đáng cũng được chia theo quy định của luật này?
Ngày 19 tháng 06 năm 2014, Quốc hội chính thức thông qua Luật
HN&GĐ mới, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Luật
HN&GĐ 2014 đã khắc phục hạn chế của Luật HN&GĐ 2000 về các căn cứ
chia tài sản trong thời kì hôn nhân khi bỏ đi quy định về các trường hợp chia
tài sản cố định mà luật dự liệu, mở ra nhiều sự lựa chọn hơn cho các cặp vợ
chồng khi có nguyện vọng chia tài sản trong thời kì hôn nhân. Thay vào đó,
quy định các giới hạn cần thiết để đảm bảo gia đình vẫn phát triển bền vững
và hạnh phúc, quyền và lợi ích hợp pháp của con cái vẫn được thực hiện đầy
đủ, quyền và lợi ích của người thứ ba không bị xâm phạm được quy định
bằng các trường hợp dẫn đến vô hiệu của việc chia tài sản chung tại Điều 42
Luật này. Các quy định khác về hậu quả pháp lí và phương thức chia tài sản,
cách thức chia khối lượng tài sản chung của vợ chồng cũng có nhiều thay đổi
nhằm khắc phục các hạn chế của Luật cũ, và đảm bảo tốt hơn cho quyền và
26
lợi ích của người có quyền và lợi ích liên quan. Như vậy Luật HN&GĐ 2014
đã có những tiến bộ đáng kể so với Luật HN&GĐ 2000. Tính đến nay, đây là
Luật có những quy định đầy đủ nhất, hoàn thiện nhất về chế định chia tài sản
24



chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
1.3.2. Sơ lược pháp luật Việt Nam về hậu quả pháp lý của chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Giống với căn cứ và phương thức chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật dưới các triều đại phong kiến Việt Nam,
thời kỳ pháp thuộc và dưới chế độ Việt Nam cộng hòa không có quy định về
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như hậu quả
pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Pháp luật về HN&GĐ trong giai đoạn từ năm 1945-1954 và 1954-1975
cũng không có quy định nào về hậu quả pháp lý của chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Luật HN&GĐ 1986 bước đầu quy định về chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân nhưng không quy định về hậu quả pháp lý của
việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng. Luật HN&GĐ
2000 khi quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
đã quy định hậu quả pháp lý khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân như sau: “Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc
sở hữu riêng của mỗi người; phần còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung
của vợ chồng”.
Như vậy, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì quan hệ
nhân thân của vợ chồng vẫn được giữ nguyên như trước khi chia tài sản chung
của vợ chồng, nói cách khác việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng.
27
Có thể thấy, trong quan hệ hôn nhân, quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa
vợ và chồng là rất quan trọng, được pháp luật HN&GĐ quy định khái quát và
25



×