Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Kiểm sát tạm giữ, tạm giam ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.87 KB, 122 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
LÊ VÂN HÀ
KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: CH22B056
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Huyên
HÀ NỘI - NĂM 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Vân Hà
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
LTHTGTG: Luật thi hành tạm giữ, tạm giam


VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SÁT TẠM
GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 7


1.1. Khái niệm kiểm sát tạm giữ, tạm giam 7
1.1.1. Kiểm sát tạm giữ 8
1.1.2 Kiểm sát tạm giam 12
1.2. Đặc điểm của kiểm sát tạm giữ, tạm giam 18
1.3. Khái quát lịch sử phát triển các quy phạm pháp luật về kiểm sát
tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân 20
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1960 20
1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến 1981 20
1.3.3. Giai đoạn từ 1981 đến 2002 21
1.3.4. Giai đoạn từ 2002 đến nay 23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 25


Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT TẠM
GIỮ, TẠM GIAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 26
2.1. Các quy định của pháp luật về kiểm sát tạm giữ, tạm giam 26
2.1.1. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong việc kiểm sát tạm
giữ, tạm giam 26
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
kiểm sát tạm giữ, tạm giam 27
2.1.3 Nội dung kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm
giam của Viện kiểm sát 31
2.2. Thực trạng kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát ở thành
phố Hà Nội từ 2011 đến 2015 40
2.2.1. Tình tình tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hà Nội 40
2.2.2. Những kết quả đã đạt được trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
giam ở thành phố Hà Nội 44
2.2.3. Những hạn chế trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam ở thành
phố Hà Nội 54

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 62
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA


VIỆN KIỂM SÁT Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI 63
3.1. Hoàn thiện pháp luật 63
3.1.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 63
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, các quy chế, nghiệp vụ và các văn bản pháp luật khác 70
3.1.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 74
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát tạm giữ, tạm giam ở
thành phố Hà Nội 75
3.2.1. Về công tác cán bộ 75
3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp trong thực thi nhiệm vụ 77
3.2.3. Áp dụng công nghệ thông tin vào thực hiện nghiệp vụ 78
3.2.4. Về xây dựng cơ sở vật chất như nhà tạm giữ, trại tạm giam 79
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp và
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nâng cao chất lượng


hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp nói chung, nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND nói
riêng trong giai đoạn hiện nay phải được đổi mới, đảm bảo mọi hành vi, vi

phạm pháp luật hình sự phải được phát hiện kịp thời, nhanh chóng, truy tố
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, công minh, không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ,
tạm giam là một trong các công tác thực hiện chức năng của VKSND theo
quy định của Hiến pháp và pháp luật. Đối tượng của hoạt động kiểm sát của
VKSND trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam là sự tuân thủ pháp luật của cơ
quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm đảm
bảo việc tạm giữ, tạm giam đúng theo quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ,
tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh
dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ
không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Hoạt động này giữ vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất, công bằng và nghiêm minh của
pháp luật nhằm phục vụ công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm và vi phạm
pháp luật, bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền dân chủ của công dân góp
phần thực hiện nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát.
Thời gian qua, hoạt động kiểm sát tạm giữ, tạm giam sự đã đạt được


nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, hoạt động này ở một số địa bàn trên
phạm vi cả nước nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế, bất cập như chất lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam chưa cao,
vẫn còn để xảy ra tình trạng bị can, bị cáo, tự sát, bỏ trốn; chế độ, tiêu chuẩn
7
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn chưa đảm bảo đúng theo quy định của
pháp luật, nhiều Nhà tạm giữ, Trại tạm giam còn diễn ra tình trạng vi phạm
nội quy, quy chế.
Vì vậy việc nghiên cứu để phân tích thực trạng của hoạt động kiểm sát
tạm giữ, tạm giam của VKSND thành phố Hà Nội để xác định nguyên nhân
của những hạn chế để đề ra các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế đó

là rất cần thiết và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề
tài: "Kiểm sát tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc

Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là một trong những
nhiệm vụ hết sức quan trọng của ngành Kiểm sát nói riêng và hoạt động tư
pháp nói chung. Vì vậy, vấn đề này đang rất được quan tâm nhằm đảm bảo
cho việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự đúng quy định của pháp
luật. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến


đề tài như:
- Đề tài khoa học cấp bộ "Kháng nghị của Viện kiểm sát với các cơ
quan có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Nguyễn Hoàng
Thế và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2004.
- Đề tài khoa học cấp bộ "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu
cầu cải cách tư pháp hiện nay" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do tác giả
Ngô Quang Liễn và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2007.
- Chuyên đề "Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù" của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, do tác giả Bùi Đức Long và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2010.
8
- Luận văn thạc sĩ luật học “Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án
hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thủ đô Hà Nội” của tác giả
Trần Thế Linh năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình

sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Bá Phùng năm 2010.
Vấn đề liên quan đến kiểm sát tạm giữ, tạm giam còn có nhiều bài viết


đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Kiểm sát số 19/2012 có bài:
"Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số
loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp
dụng tạm giam" của TS. Đỗ Văn Đương; tác giả Nguyễn Hải Phùng có bài
viết: "Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự có cần ban hành "quyết định trực tiếp kiểm sát" không?
",
Tạp chí kiểm sát, số 7/2012. Bên cạnh đó còn có bài viết của GS.TSKH Lê
Cảm: "Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 10/2008; bài viết của
PGS.TS Trần Văn Độ: "Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 6/2010;
Có thể thấy, vấn đề tạm giữ, tạm giam được rất nhiều người quan tâm và
nghiên cứu ở nhiều những góc độ khác nhau, đều nhằm mục đích làm rõ các
quy định của pháp luật, việc áp dụng trên thực tế như thế nào, những vấn đề
cần hoàn thiện. Vì vậy, nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc kiểm sát tạm giữ, tạm giam là cần thiết, nhất là ở
thành phố Hà Nội – một trong những địa bàn có tình hình tội phạm phức tạp.
9


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác kiểm
sát tạm giữ, tạm giam của VKSND đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong lĩnh

vực tạm giữ, tạm giam.
Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu và làm rõ những điểm mới trong
các quy định về công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Bộ luật tố tụng hình
sự 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015
* Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của VKSND trong tạm giữ, tạm giam.
- Về thời gian và không gian: tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát
thực tế, thu thập số liệu, tài liệu thực tiễn của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
giam của VKSND thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến 2015.
4. Mục đích và câu hỏi nghiên cứu
4.1 Mục đích
Luận văn được thực hiện nhằm mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
chung về kiểm sát tạm giữ, tạm giam, phân tích, nghiên cứu thực trạng kiểm
sát tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hà Nội để đánh giá những ưu điểm cũng
như những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Qua đó, luận văn


đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát tạm giữ,
tạm giam.
4.2 Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn phải giải quyết
những câu hỏi sau đây:
+ Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong lĩnh
vực tạm giữ, tạm giam cũng như lịch sử hình thành các quy phạm pháp luật
đó như thế nào?
10
+ Thực trạng hoạt động tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hà Nội và công
tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND thành phố Hà Nội như thế nào?
Những ưu, khuyết điểm cũng như tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân của những

tồn tại đó, trong việc thực hiện kiểm sát tạm giữ, tạm giam là gì?
+ Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm sát của VKSND
thành phố Hà Nội nói riêng và ngành Kiểm sát nhân dân nói chung đảm bảo
việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam thời gian tới là gì?
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Sử dụng phương pháp luận của chủ


nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tiễn, các
phương pháp nghiên cứu của tội phạm học, khoa học điều tra tội phạm và các
khoa học pháp lý khác.
6. Ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu việc kiểm sát tạm giữ, tạm giam mang một ý nghĩa quan
trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, luận văn đưa đến một quan
điểm pháp lý toàn diện và có hệ thống về vấn đề tạm giữ, tạm giam. Từ đó có
thể áp dụng vào thực tiễn quản lý giam giữ nhằm đảm bảo đúng quy định của
pháp luật, góp phẩn bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung, quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng theo quy định của
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 cũng như tháo gỡ
những vướng mắc, bất cập trong công tác quản lý giam giữ và có một cái nhìn
toàn diện, thống nhất về Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) cũng như Luật thi
hành tạm giữ tạm giam (LTHTGTG) 2015 trong việc cụ thể hoá Hiến pháp.
11
7. Những điểm mới của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về việc kiểm sát
tạm giữ, tạm giam của VKSND theo BLTTHS 2015, LTHTGTG 2015 mới có
hiệu lực từ ngày 01/7/2016, đồng thời xác định những vướng mắc, bất cập và



đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLTTHS, Luật tổ
chức VKSND liên quan đến lĩnh vực kiểm sát tạm giữ, tạm giam.
Luận văn cũng tiến hành khảo sát thực tiễn, thu thập số liệu, tài liệu
thực tiễn phản ánh thực trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động tạm giữ, tạm
giam trên địa bàn thành phố Hà Nội, qua đó đánh giá những ưu và nhược
điểm và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó để đưa ra được
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát tạm giữ, tạm
giam của VKSND thành phố Hà Nội nói riêng và ngành kiểm sát nói chung
trong thời gian tới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về kiểm sát tạm giữ, tạm
giam của VKSND;
- Chương 2: Các quy định của pháp luật về kiểm sát tạm giữ, tạm giam
và thực tế áp dụng của VKSND ở thành phố Hà Nội;
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao chất
lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND ở thành phố Hà Nội.
12
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SÁT
TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN


1.1. Khái niệm kiểm sát tạm giữ, tạm giam
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "kiểm sát" có nghĩa là “theo dõi và kiểm
tra xem việc thực hiện có đúng với những điều quyết định hay không” hoặc là
“trông nom, xem xét công việc có tốt không”1.
Theo Từ điển Luật học thì kiểm sát các hoạt động tư pháp là “kiểm tra,
xem xét theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải
quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”2.
Kiểm sát còn được hiểu là một trong những chức năng cơ bản của một
hệ thống cơ quan nhà nước, đó là hệ thống VKSND các cấp. Cụm từ “kiểm sát
việc tuân theo pháp luật” lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta tại Hiến
pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp năm 1980, được cụ thể hóa trong các văn
bản luật: Luật tổ chức VKSND năm 1960, Luật tổ chức VKSND 1981, Luật tổ
chức VKSND năm 1992, BLTTHS năm 1988. Đến thời điểm năm 2001, đã
xuất hiện cụm từ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” - Điều 137 Hiến pháp 1992
(sửa đổi năm 2001) quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Điều 1 Luật tổ chức VKSND
2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiếm sát


các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật”3.
1 Trung tâm văn hóa ngôn ngữ - Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Từ điển Tiếng Việt,
Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr 937.
2 Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách
khoa,
Hà Nội, tr 443.
3 Nguyễn Lan Chi (2007), “Phân biệt khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố
tụng
hình sự và các khái niệm liền kề”, website Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, tại địa
chỉ:
khoa-hoc/chi- tiet/79/120
13
Theo BLTTHS 2015, người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định
truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định
tạm giữ. Còn theo LTHTGTG 2015 thì người bị tạm giữ là người đang bị
quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy
định của BLTTHS 2015. Còn người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại
cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của
BLTTHS 2015 bao gồm bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết
án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án,


người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.
Có thể thấy, BLTTHS 2015 quy định khái niệm người bị tạm giữ, tạm
giam dưới góc độ địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự, trên cơ sở đó
quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ, tạm giam. Trong
khi đó, LTHTGTG 2015 quy định khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam dưới
góc độ là những người đang bị quản lý tại các cơ sở giam giữ, để xác định chế
độ quản lý đối với họ và xác định quyền, nghĩa vụ của họ trong quản lý tạm
giữ, tạm giam. Như vậy, để kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, VKSND cần căn
cứ vào cả BLTTHS và pháp luật về tạm giữ, tạm giam.
1.1.1. Kiểm sát tạm giữ
Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự
do cơ quan điều tra áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, tạo điều kiện thuận lợi
để cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, bước đầu làm rõ những tình tiết có liên
quan đến tội phạm, nhân thân của người bị tạm giữ. Trên cơ sở các tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do
cho người bị bắt. Việc tạm giữ là nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người
14



bị nghi là đã thực tiện tội phạm bỏ trốn, gây khó khăn trong việc điều tra truy
tố xét xử.
Tuy nhiên, không phải là đối với mọi người bị bắt trong các trường hợp
nói trên đều phải áp dụng biện pháp tạm giữ, mà chỉ áp dụng trong các trường
hợp cần thiết, như cần có thời gian để lấy lời khai và xác minh những tình tiết
cần làm rõ về hành vi phạm tội, căn cước, lý lịch, nhân thân của người bị bắt
hoặc người bị bắt có khả năng trốn, tiếp tục phạm tội hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Kiểm sát quyết định tạm giữ là hoạt động nhằm bảo đảm việc áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ có căn cứ và đúng pháp luật, kịp thời khắc
phục các vi phạm trong quá trình áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ
của người có thẩm quyền. Để đảm bảo công tác kiểm sát việc tạm giữ, tránh
vi phạm quyền tự do, bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, luật tố tụng
hình sự quy định: trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết
định đó cùng các tài liệu làm căn cứ tạm giữ phải được gửi đến VKSND cùng
cấp hoặc VKSND có thẩm quyền4.
Về kiểm sát đối tượng tạm giữ, VKSND kiểm tra xem người bị tạm giữ
có phải là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị
bắt theo quyết định truy nã hay không. Nếu không phải những người đó,
VKSND cần kiến nghị kịp thời với cơ quan, người có thẩm quyền trong việc


tạm giữ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người đang bị tạm giữ.
Về kiểm sát thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, VKSND kiểm tra
những người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ. Đó là những người có thể
có hành vi đụng chạm, ảnh hưởng đến quyền thân thể, quyền đi lại của người
bị tạm giữ nên VKSND phải đảm bảo việc tuân theo pháp luật của họ. Những
người thuộc đối tượng kiểm sát là:

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
4 Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay kiểm sát
viên hình sự - tập I, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, Tr 99.
15
- Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn
trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy
trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng
Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống
ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng,
chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh
sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển,
Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh
sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
- Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân


bay, bến cảng.
Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn
là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả
những người của các cơ quan nhà nước khác theo luật định. Trong quá trình
kiểm sát, Kiểm sát viên cần làm rõ ai là người có thẩm quyền, thuộc cơ quan
nào đã ra quyết định tạm giữ để từ đó xác định rõ trách nhiệm trong việc oan
sai, lạm quyền.
Về kiểm sát thời hạn tạm giữ, VKSND cần kiểm tra thời hạn tạm giữ,
thời điểm tạm giữ, thời điểm hết hạn, các trường hợp cần thiết để gia hạn tạm
giữ mà cơ quan đề nghị gia hạn tạm giữ đưa ra đề đề xuất phê chuẩn. Trong
thời hạn 12 giờ kể từ khi bắt hoặc nhận người bị bắt, cơ quan điều tra phải ra
quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Thời hạn tạm giữ không
quá 3 ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người
bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra
quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
Qua kiểm tra, nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ và không hợp
pháp, thì VKSND ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cần người
16
đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Nếu thấy việc


tạm giữ là có căn cứ và cần thiết, nhưng việc tạm giữ có vi phạm pháp luật (ví
dụ: Người ký không đúng thẩm quyền, vi phạm thời hạn tạm giữ, vi phạm
thời hạn gửi quyết định tạm giữ cho VKSND...), thì yêu cầu người đã ra lệnh
tạm giữ hoặc cơ quan của người đã ra lệnh tạm giữ có biện pháp biện pháp
kịp thời khắc phục vi phạm, rút kinh nghiệm.
Ngoài ra, để tạo điều kiện và phục vụ cho hoạt động điều tra, xác minh
của Cơ quan điều tra, đồng thời đảm bảo được các quyền và lợi ích của người
bị tạm giữ, BLTTHS 2015 quy định thời hạn tạm giữ bao gồm ba trường hợp:
- Trường hợp bình thường, thì thời hạn tạm giữ không được quá ba
ngày theo quy định tại khoản 1 Điều 118 BLTTHS 2015.
- Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ, nhưng không được quá ba ngày. Đây là trường hợp sự việc có nhiều tình
tiết phức tạp, đòi hỏi phải có thêm thời gian để làm rõ hành vi phạm tội hoặc
xác minh thêm về căn cước, nhân thân của người bị tạm giữ.
- Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn lần
hai nhưng không quá ba ngày. Đây là trường hợp thuộc các vụ án phức tạp, có
nhiều người tham gia, mặc dù đã gia hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng vẫn chưa
làm rõ được sự việc5.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKSND cùng cấp xét
phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài



liệu có luên quan đến việc gia hạn tạm giữ, VKSND phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn. Để kiểm sát hồ sơ đề nghị phê chuẩn gia hạn
tạm giữ, VKSND cần:
- Kiểm tra quyết định gia hạn tạm giữ, bao gồm: Thẩm quyền của
người ra quyết định gia hạn tạm giữ; nhân thân của người bị gia hạn tạm giữ.
5 Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tldđ chú thích 4, tr 101.
17
- Thời hạn gia hạn tạm giữ: Thời hạn gia hạn tạm giữ lần thứ nhất
hoặc lần thứ hai là không quá 3 ngày kể từ ngày hết hạn tạm giữ hoặc gia
hạn tạm giữ.
- Sự cần thiết phải gia hạn tạm giữ: Việc gia hạn tạm giữ là cần thiết,
nếu chưa xác minh đầy đủ căn cước lý lịch của người bị tạm giữ, người bị tạm
giữ có nguy cơ bỏ trốn hoặc nếu để họ ở ngoài sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố...hoặc tiếp tục phạm tội. Sự cần thiết trên phải được phản án trong
hồ sơ, tài liệu xin phê chuẩn6.
1.1.2 Kiểm sát tạm giam
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất thể hiện ở chỗ
tước tự do có thời hạn đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp do luật
định. Tính nghiêm khắc còn được thể hiện ở chỗ ngoài việc bị tước bỏ quyền
tự do thân thể, người bị tạm giam còn bị tước một số quyền công dân như


quyền ứng cử, hạn chế một số quyền công dân như quyền tư do đi lại và cư
trú, quyền tự do ngôn luận, hội họp, biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng...
Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về trình tự cũng
như thủ tục áp dụng biện pháp này.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, chưa có quan niệm thống nhất về
khái niệm biện pháp tạm giam. Theo từ điển luật học thì tạm giam là “biện
pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định, nhằm ngăn

chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án được thuận lợi”7. Theo LTHTGTG 2015 thì người bị tạm giam bao
gồm bị can, bị cáo, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án
chưa có hiểu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để
thực hiện việc dẫn độ.
6 Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tldđ chú thích 4, tr 102.
7 Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật Học, Nxb Từ điển Bách
khoa, Hà Nội, tr 690.
18
Mục đích của biện pháp tạm giam là để đảm bảo cho các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế.


Biện pháp tạm giam góp phần bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những
ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. Bởi vì việc tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin... của người bị tạm giam. Nếu áp
dụng tùy tiện biện pháp tạm giam như bắt tạm giam oan người vô tội, bắt
không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền hoặc tạm giam quá hạn... thì sẽ làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
hại hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm quyền
bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của con người, của công
dân, làm giảm uy tín của Nhà nước và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với các cơ quan tiến hành tố tụng8.
Do đó, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các vấn đề như thẩm
quyền ra lệnh tạm giam, thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam là rất cần thiết,
bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng

đúng pháp luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con
người, quyền công dân khi thực thi công vụ.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, đặc biệt là trong khi bị tạm giữ, tạm giam, Điều 20 Hiến
pháp 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,


được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nàokhác xâm phạm
thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không
8 Nguyễn Tiến Đại (2006), “Đảm bảo quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam”, website trường
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tại địa chỉ:
/>option=com_content&view=article&id=377:bqcntvbtgtg&
catid=105:ctc20063&Itemid=109 , Ngày truy cập: 15/02/2008
19
có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định”.
Bên cạnh đó, Điều 170 Hiến pháp 2013 cũng quy định “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và “Viện
kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Có thể thấy chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là chức
năng hiến định nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất và


nghiêm chỉnh. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, VKSND với tư cách

là cơ quan thực hiện chức năng này phải có trách nhiệm áp dụng những biện
pháp do pháp luật quy định để loại trừ việc vi phạm của bất kỳ cơ quan hoặc
cá nhân nào. Bản chất của kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp
pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Theo đó, khi tiến hành hoạt
động kiểm sát, VKSND phải dựa trên các căn cứ pháp lý và các văn bản pháp
luật khác có liên quan để xem xét, bảo đảm sự tuân theo pháp luật của các chủ
thể bị kiểm sát, cũng như bảo đảm tính hợp pháp của chính các hoạt động
kiểm sát của VKSND 9.
Chức năng kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND được cụ thể hóa
trong Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo đó, VKSND cần kiểm tra, giám
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, cá nhân trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam. Qua đó đảm bảo việc tạm giữ, tạm giam theo đúng
quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam được chấp hành nghiêm
chỉnh; tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của người bị
tạm giữ, tạm giam và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ không bị pháp
9 Phạm Hồng Quân (2012), “Về chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự”, tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học 28(2012), tr
191.
20


luật tước bỏ được tôn trọng; quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết
định trái pháp luật trong tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo pháp luật.
Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là Cơ quan,
đơn vị có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam và người có trách nhiệm
trong việc tạm giữ, tạm giam như Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam
và những người khác có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam theo quy
định của pháp luật10.
Phạm vi của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam bắt đầu từ khi có

người bị tạm giữ, tạm giam và kết thúc khi chấm dứt việc tạm giữ, tạm giam
theo quy định của pháp luật. Những hoạt động chính mà VKSND cần thực
hiện trong quá trình kiểm sát tạm giam như sau:
Thứ nhất, kiểm sát chủ thể ra lệnh tạm giam: Không ai bị tạm giam nếu
không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của
VKSND. Điều này có nghĩa là nếu Cơ quan điều tra ra lệnh tạm giam thì lệnh
đó phải được VKSND cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Khi xét phê
chuẩn lệnh tạm giam cũng đồng thời với việc kiểm sát việc tạm giam bị can
của Cơ quan điều tra, VKSND phải đảm bảo căn cứ cũng như tính hợp pháp
của lệnh tạm giam, nếu không đủ căn cứ thì VKSND không phê chuẩn. Lệnh
tạm giam bị can phải thể hiện được những thông tin cá nhân của bị can, phải
thống nhất với quyết định khởi tố. Lệnh tạm giam phải được ban hành bởi


×