BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
QUÀNG THỊ TIÊN
NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
QUÀNG THỊ TIÊN
NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: XH2b
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: Th.S Đèo Thị Thủy
SƠN LA, NĂM 2017
LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô trong khoa Lý luận
Chính trị và các phòng ban nhà trường đã tạo điều kiện động viên giúp đỡ em, cung cấp số
liệu và những thông tin cần thiết về khóa luận trong quá trong quá trình nghiên cứu.
Trong suốt quá trình thực hiện khóa luận em xin chân thành cảm ơn cô Đèo Thị
Thủy – giảng viên hướng dẫn khóa luận, cô đã nhiệt tình giúp đỡ em, chỉ bảo tận tình chu
đáo, đóng góp ý kiến cho khóa luận của em hoàn thành có chất lượng và đúng thời hạn.
Em xin gửi những lời cảm ơn tốt đẹp nhất tới cô chủ nhiệm, các bạn sinh viên
k54 – ĐHGD Chính trị và gia đình đã động viên giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn hội đồng nghiệm thu khóa luận.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan nên bản thân khóa luận này chắc
chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các
thầy cô giáo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Sơn La, tháng 5 năm 2017
Người thực hiện
Quàng Thị Tiên
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ cụ thể
CTCT và QLNH
Công tác chính trị và quản lý người học
LLCT
Lý luận Chính trị
TDTT
Thể dục thể thao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
TBCN
Tư bản chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................................3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ..................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...................................................................4
6. Đóng góp của đề tài ......................................................................................................4
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu .......................................................................................5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP
LUẬT CHO SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................6
1.1. Khái niệm pháp luật và ý thức pháp luật ...................................................................6
1.1.1. Khái niệm pháp luật ................................................................................................6
1.1.2. Quan niệm ý thức pháp luật ....................................................................................6
1.2. Đặc điểm, kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật ..................................................10
1.2.1. Đặc điểm của ý thức pháp luật .............................................................................10
1.2.2. Kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật ................................................................13
Tiểu kết chương 1 ...........................................................................................................19
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CỦA
SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC ...........................................................20
2.1. Khái quát chung về sinh viên trường Đại học Tây Bắc ..........................................20
2.1.1. Sơ lược về trường Đại học Tây Bắc .....................................................................20
2.1.2. Khái quát về sự phát triển của nhà trường ...........................................................20
2.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên trường Đại học Tây Bắc .............................21
2.1.4. Tầm quan trọng về việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trường Đại học
Tây Bắc ...........................................................................................................................23
2.2. Thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên trường Đại học Tây Bắc ......................25
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên trường Đại học
Tây Bắc ...........................................................................................................................37
Tiểu kết chương 2 ...........................................................................................................40
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC.................................................41
3.1. Một số giải pháp cơ bản để nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trường Đại
học Tây Bắc ....................................................................................................................41
3.1.1. Nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy của sinh viên về vị trí, vai trò của pháp luật ..... 41
3.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo của trường Đại học Tây Bắc, chỉ đạo các Khoa đối với công
tác nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trong trường ......................................................... 41
3.1.3. Kết hợp nâng cao ý thức pháp luật với giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức lối
sống cho sinh viên ...........................................................................................................43
3.1.4. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, tuyên truyền ý thức pháp luật cho sinh
viên toàn trường ..............................................................................................................44
3.1.5. Tăng cường các nguồn lực hỗ trợ cho công tác tuyên truyền ý thức pháp luật cho
sinh viên trường Đại học Tây Bắc ..................................................................................46
3.2. Kiến nghị ..................................................................................................................47
KẾT LUẬN ....................................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................52
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Số sinh viên vi phạm quy chế đào tạo năm 2016 .............................................31
Bảng 2: Thống kê số sinh viên bị kỷ luật từ năm 2014 đến năm 2016 .........................32
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa hiện nay đang mở ra cánh cửa hội nhập và phát triển cho
tất cả các nước, tuy nhiên bên cạnh đó là những thách thức đối với các nước. Mỗi quốc
gia, vùng lãnh thổ đều phải lựa chọn và xây dựng cho mình hệ thống pháp luật toàn
diện, phù hợp với đặc điểm riêng song đồng thời cũng phải đảm bảo tuân thủ những
quy định của pháp luật quốc tế đã được kí kết. Trong sự phát triển của xã hội ngày
nay, vấn đề giáo dục nhân cách, lối sống tuân thủ pháp luật, thực hiện đúng các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thế hệ trẻ là một vấn đề
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi thực tế hiện nay, vẫn có không ít một số bộ phận
thanh niên được sống và học tập trong những môi trường đào tạo tốt nhưng vẫn chưa
có nhận thức đúng đắn để rồi phải sa vào vòng lao lý chỉ vì những ham muốn, đua đòi
tầm thường của bản thân.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc và
toàn diện về kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền với mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Công cuộc đổi mới đất nước, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đi vào chiều sâu, mở rộng hội nhập quốc tế trong
bối cảnh toàn cầu hóa thì yêu cầu tiếp tục mở rộng hiểu biết và nâng cao ý thức pháp
luật cho thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng - họ là một bộ phận của thanh niên,
là lớp người có trình độ, có tri thức, nhiệt huyết, nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới,
là “nguồn lực đặc biệt quan trọng” cho tương lai.
Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường Đại học là một hoạt động giáo dục
cụ thể, gắn bó hữu cơ với hoạt động giáo dục nói chung. Hoạt động giáo dục pháp luật
được thực hiện thông qua các hoạt động, chương trình giáo dục chính khóa và ngoại
khóa, đây là hoạt động có vai trò lớn đối với sự phát triển toàn diện của con người
Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, trong đó có việc hình thành ý thức pháp luật và văn
hóa pháp lý. Giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học là hoạt động
có định hướng, có tổ chức, có chủ đích của các chủ thể giáo dục pháp luật thông qua
các hoạt động giáo dục chính khóa và ngoại khóa bằng các phương pháp giáo dục khác
nhau nhằm trang bị tri thức pháp luật cơ bản, định hướng, phát triển nhân cách và tư
cách công dân, nâng cao nhận thức, góp phần điều chỉnh hành vi, hình thành thói quen
1
tự giác xử sự đúng pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật và có tri thức pháp luật về
chuyên môn nghiệp vụ, ngành nghề lĩnh vực mình được đào tạo.
Ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội, được hình thành, tồn
tại và phát triển trong những hình thái kinh tế - xã hội đã có giai cấp, Nhà nước và
pháp luật. Ý thức pháp luật thể hiện tri thức và sự đánh giá tính công bằng của những
quy chế được chấp nhận trong một xã hội nhất định với tính cách là pháp luật, về
quyền hạn và nghĩa vụ các thành viên trong cộng đồng, xã hội về tính hợp pháp hay
không hợp pháp của hành vi con người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng
phức tạp của đời sống pháp luật - xã hội.
Thực tiễn nước ta cho thấy, thanh niên, sinh viên là thế hệ kế tục và phát huy
những truyền thống của dân tộc, là những người xây dựng và phát triển sự nghiệp cách
mạng đất nước. Sự phát triển của thanh niên không những quan hệ đến vận mệnh và
tồn tại của đất nước mà còn ảnh hưởng đến cả tương lai dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Vì vậy, giáo dục
đạo đức cách mạng, đào tạo thanh niên thành những người kế thừa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội “vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ hết sức quan trọng, trong đó giáo dục
nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên là nhiệm vụ không thể thiếu trong bồi dưỡng
phát triển thanh niên hiện nay.
Sơn La là một tỉnh nằm ở miền Tây Bắc của Tổ quốc, là một vùng núi nên gặp
nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế -xã hội, tuy nhiên đời sống vật chất tinh
thần của nhân dân cũng đã dần được cải thiện. Song bên cạnh đó cũng là vùng có tình
hình an ninh, chính trị, xã hội diễn biến hết sức phức tạp. Sơn La là địa bàn trường Đại
học Tây Bắc chúng ta đang đóng - nơi hội tụ nhiều sinh viên từ các tỉnh khác đến học
tập và sinh sống. Tuy nhiên, trước sự mở rộng hội nhập của đất nước nói chung và tỉnh
Sơn La nói riêng đã tác động rất nhiều đến lối sống, suy nghĩ của sinh viên trường Đại
học Tây Bắc. Tình trạng vi phạm pháp luật, lối sống buông thả, thực dụng, hưởng
thụ...đã xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trong sinh viên. Do đó việc nhanh chóng
nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc nhằm giúp cho các
bạn có tri thức cần thiết và hành trang vững bước trong xây dựng trường học lành
mạnh, trật tự, kỷ cương; xây dựng thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La phát triển ngày càng
giàu đẹp, góp phần xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
2
nước; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu cần thiết trong
tình hình hiện nay.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Nâng cao ý
thức pháp luật cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân nói chung và sinh viên nói riêng
có ý nghĩa to lớn, tạo nên nội lực cho việc xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chủ đề này đã được nhiều công trình khoa học
nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: “Bàn về ý thức pháp
luật” của Hoàng Thị Kim Quế, Luật học, Trường Đại Học Luật Hà Nội, số 1/2003;
“Một số biện pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật phòng, chống ma túy trong học
sinh, sinh viên hiện nay” của Nguyễn Thị Hoàng Lan, Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư
pháp, số 10/2009; “Ý thức pháp luật và xây dựng ý thức chấp hành pháp luật về trật tự,
an toàn giao thông” của Lê Thị Phương Nga, Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số
7/2009; “Ảnh hưởng của ý thức pháp luật đến việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam
hiện nay” – khóa luận tốt nghiệp của Đào Thị Tuyền, TS.Nguyễn Văn Năm hướng
dẫn, Hà Nội, 2012; “Ý thức pháp luật của thanh niên trên địa bàn Thành Phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay”, khóa luận tốt nghiệp của Phạm Thị Hân, người hướng dẫn:
PGS.TS.Nguyễn Minh Đoan, Hà Nội, 2012...ngoài ra còn rất nhiều bài báo, bài viết về
vấn đề này được đăng trên các tạp chí, sách báo. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu đã làm rõ tính cấp thiết và đề xuất những giải pháp thiết thực trong việc nâng cao
ý thức pháp luật cho nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này chưa nhiều và thời gian thực hiện cách đây đã
lâu nên chưa đáp ứng kịp thời với tình hình thực tiễn của đất nước.
Đối với vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên thì vẫn là một khoảng
trống để ngỏ rất ít công trình nghiên cứu, đề cập đến. Đặc biệt, Thành Phố Sơn La
những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều biến chuyển, đời sống nhân
dân không ngừng nâng cao. Bên cạnh mặt tích cực đó thì trên địa bàn Thành Phố cũng
xuất hiện nhiều vấn đề về trật tự, an ninh, xã hội. Đặc biệt, tình trạng phạm tội trong
nhân dân không ngừng gia tăng, trong đó xuất hiện ngày càng nhiều đối tượng phạm
tội là sinh viên. Trước những thực trạng đó đòi hỏi nhu cầu bức thiết được giải đáp,
định hướng về mặt lý luận nhưng vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn
3
đề nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân trên địa bàn Thành Phố nói chung và sinh
viên Trường Đại học Tây Bắc nói riêng. Điều này rất có ý nghĩa quan trọng đối với
sinh viên trường Đại học Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích của đề tài: Thông qua nghiên cứu, khảo sát, phân tích đề tài nghiên
cứu đặc điểm, thực trạng ý thức pháp luật của sinh viên trường Đại học Tây Bắc để
đánh giá sự hiểu biết về pháp luật, ý thức pháp luật của sinh viên, từ đó đề xuất một số
kiến nghị nhằm giúp sinh viên nâng cao ý thức pháp luật, tránh xa các tệ nạn xã hội,
không vi phạm pháp luật.
- Nhiệm vụ của đề tài:
+ Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến ý thức pháp luật và
vai trò của việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay.
+ Phân tích thực trạng và đề xuất một số kiến nghị để nâng cao ý thức pháp luật
cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên
quan đến việc nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trường Đại học Tây Bắc.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Ý thức pháp luật của cá nhân sinh viên.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về các vấn đề có liên quan
trong đề tài.
- Trên cơ sở phương pháp biện chứng duy vật và các phương pháp khác như:
Phân tích, tổng hợp, điều tra, khảo sát, thống kê, phỏng vấn.
6. Đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm rõ về vai trò của ý thức pháp luật và vai trò
của ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm tìm ra các biện pháp tác
động giúp sinh viên tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật hoặc được dùng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đại học, cao
đẳng ở Sơn La hiện nay.
4
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên
trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2: Thực trạng về ý thức chấp hành pháp luật của sinh viên trường Đại
học Tây Bắc.
Chương 3: Giải pháp cơ bản để nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên trường
Đại học Tây Bắc.
5
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO
SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Khái niệm pháp luật và ý thức pháp luật
1.1.1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật là một hiện tượng xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống
chính trị của một xã hội có giai cấp. Pháp luật là công cụ sắc bén để thực hiện quyền
lực nhà nước, duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Theo học thuyết Mác –
Lênin, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thời kỳ cộng sản nguyên thủy là
thời kỳ không có nhà nước và do vậy cũng không có pháp luật, hành vi con người và
các thành viên trong xã hội được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức, phong tục, tập
quán, tín ngưỡng. Khi nhà nước ra đời, pháp luật cũng xuất hiện và là công cụ của giai
cấp cầm quyền để quản lý xã hội.
Cũng như nhà nước, bản chất của pháp luật thể hiện rõ tính giai cấp và tính xã
hội, hai thuộc tính này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét theo quan điểm hệ
thống, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp, ngược lại, cũng không
có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.
Từ những nhận xét trên, có thể hiểu pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp nắm quyền lãnh đạo và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra
trật tự và ổn định trong xã hội.
Pháp luật Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự
thủ tục nhất định, thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, có tính chất bắt buộc chung đối với toàn xã hội nhằm điều chỉnh các quan
hệ trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Quan niệm ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp; trong đó,
nó thể hiện tri thức và sự đánh giá về tính công bằng của những quy tắc được chấp
nhận trong một xã hội nhất định với tính cách là luật pháp, về quyền hạn và nghĩa vụ
6
các thành viên trong xã hội, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con
người, nó là một trong những vấn đề cơ bản, đa dạng, phức tạp của đời sống pháp luật.
Từ điển Bách khoa toàn thư của Việt Nam, định nghĩa về ý thức pháp luật được
đề cập như sau: Ý thức pháp luật là tổng hợp những quan điểm, tư tưởng học thuyết
thể hiện thái độ của con người, các nhóm xã hội, giai cấp... đối với pháp luật, pháp
chế cũng như quan điểm của họ về sự hợp pháp hay không hợp pháp trong những
hành vi của những cá nhân, tổ chức, xã hội; Ý thức pháp luật có nội dung chủ yếu:
1. Sự hiểu biết về pháp luật
2. Thái độ đối với pháp luật
3. Khả năng thực hiện, áp dụng pháp luật.
Triết học mác - xít cho rằng, ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức
xã hội trong xã hội có giai cấp, nó cùng tồn tại khách quan với các hình thái ý thức xã
hội khác như đạo đức, chính trị, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học. Ý thức pháp luật tồn
tại phổ biến trong ý thức của mọi cá nhân và toàn xã hội, bản chất của nó là phản ánh
đời sống pháp luật của xã hội.
Đời sống pháp luật đó là nhu cầu cần phải điều chỉnh những hành vi có tính lặp
đi, lặp lại thường xuyên, phổ biến của con người trong đời sống xã hội nhằm bảo vệ
lợi ích của giai cấp nắm quyền lực và duy trì sự ổn định của cộng đồng xã hội. Nhu
cầu cần điều chỉnh đó được con người phản ảnh một cách tích cực và sáng tạo hình
thành ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật hiểu theo nghĩa thông thường, theo nghĩa hẹp thì đó là ý thức
chấp hành những quy định pháp luật của con người. Quan niệm này thường được xem
như sự đánh giá chủ quan của một tập thể, cá nhân nào đó về mức độ hành vi chấp
hành của một đối tượng nhất định trong việc thực hiện pháp luật theo những quy định
trong văn bản pháp lý, đó là sự đánh giá mức độ ý thức pháp luật cao hay thấp, tốt hay
kém của họ. Các quan niệm này vô hình chung đã đồng nhất ý thức pháp luật với một
hình thức biểu hiện cụ thể của nó. Như vậy, sẽ là quá hẹp, phiến diện vì nó chưa thể
hiện rõ được vai trò, chức năng, bản chất và kết cấu của ý thức pháp luật.
Trong lý luận khoa học, ý thức pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, có tính
khách quan toàn diện và khái quát cao. Tuy nhiên, do mục đích yêu cầu và phương
diện nghiên cứu khác nhau nên cho đến nay đã xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau
về ý thức pháp luật.
7
Quan niệm thứ nhất Diu Righin cho rằng: "Ý thức pháp luật là một hình thái ý
thức xã hội, biểu thị mối quan hệ của con người đối với pháp luật" [3, tr.130]. Đây là
quan niệm mang tính khái quát cao, nhưng lại quá chung, chưa thể đầy đủ kết cấu, nội
dung và nguồn gốc của ý thức pháp luật.
Quan niệm thứ hai: lại nhấn mạnh mặt này hay mặt khác của ý thức pháp luật.
Chẳng hạn, có quan niệm tập trung nhấn mạnh cơ cấu ý thức pháp luật như: "Ý thức
pháp luật là tổng hợp những tư tưởng quan điểm pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay
nói cụ thể hơn, là tổng hợp những nhận thức, những hiểu biết quan điểm pháp lý,
những tình cảm pháp luật cùng với sự tôn trọng và thói quen chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật" [19, tr.233]. Nhấn mạnh yếu tố pháp lý của ý thức pháp luật, có quan niệm
cho rằng:
“Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những học thuyết,
quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính
công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật, về tính
hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong các hoạt động
của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và của các chủ thể khác” [7,
tr.326].
Có thể nói, quan niệm này khá toàn diện nếu xét theo góc độ của người làm công
tác quản lý pháp luật. Tuy nhiên, "tính hợp pháp hay không hợp pháp" cần phải xem
xét dưới giác độ giai cấp, gắn với một thể chế nhà nước nhất định và sự phục vụ cho
giai cấp cầm quyền nào trong xã hội. Mặt khác, quan niệm trên chỉ hàm ý áp dụng cho
thể chế chính trị XHCN, nhà nước XHCN nó chưa phản ánh toàn diện kết cấu nội
dung ý thức pháp luật. Xét về mặt bản chất giai cấp, có quan niệm cho rằng: "Ý thức
pháp luật XHCN là tổng hòa những quan điểm quan niệm, tình cảm về mặt pháp luật
thể hiện thái độ của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động do giai cấp công
nhân lãnh đạo, đối với pháp luật, đối với những yêu cầu khác của pháp luật, đối với
các quyền và nghĩa vụ của công dân" [20, tr. 196].
Một số ý kiến khác lại thu hẹp cơ cấu của ý thức pháp luật, chỉ nhấn mạnh mặt tri
thức pháp luật như: “Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu
biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần
phải có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi
8
xử sự của con người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ
chức xã hội” [1, tr. 229].
Có quan niệm chỉ tập trung nhấn mạnh ý thức của chủ thể pháp luật: "Ý thức
pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân dân về pháp luật... ý thức pháp
luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng hay coi thường pháp luật, đó là
thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội" [17, tr. 19]. Đành rằng, ý thức
phải gắn với chủ thể với một đối tượng nhất định, song với quan niệm trên sẽ là chưa
hoàn chỉnh, bởi lẽ nó chưa đề cập đến yếu tố giáo dục, văn hóa pháp luật cũng như
chức năng quản lý xã hội của Nhà nước thông qua pháp luật. Quá nhấn mạnh khía
cạnh ngăn ngừa, răn đe trong việc thực hiện pháp luật sẽ gây tâm trạng bắt buộc và thụ
động bởi sự áp đặt của văn bản pháp luật, nó không thể hiện tính nhân đạo ưu việt của
pháp luật XHCN.
Quan niệm thứ ba: Đề cập tới ý thức pháp luật một cách đầy đủ, toàn diện hơn.
Theo quan niệm này:
“Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, là tổng thể những quan điểm,
khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người (cá nhân, giai cấp, tầng lớp) thể
hiện thái độ của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, sự đánh giá về tính
công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của pháp luật hiện
hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, và hành vi hợp pháp, hành vi
không hợp pháp của cá nhân, các cơ quan nhà nước, tổ chức” [9, tr. 290]
Như vậy, có thể nói do mục đích nghiên cứu của các chủ thể, ý thức pháp luật
được xem xét theo những góc độ khác nhau nên nó cũng được hiểu một cách khác
nhau. Trên bình diện khoa học triết học, qua tham khảo các ý kiến nêu trên, theo mục
đích yêu cầu và nhiệm vụ đề tài, tôi tán thành với quan niệm thứ ba nêu trên. Vì quan
niệm trên không những chỉ ra được tính chất, cơ cấu và nội dung của ý thức pháp luật
mà còn đề cập đến cả nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến, tất yếu của ý thức pháp luật đối
với đời sống xã hội.
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật phản ánh sâu sắc đời sống pháp
luật, trước hết là sự phản ánh quá trình nhận thức về pháp luật, ý thức chấp hành pháp
luật của nhân dân và việc điều chỉnh hành vi của họ nhằm duy trì trật tự kỷ cương xã
hội theo pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, để đạt được mục tiêu "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, đòi hỏi một mặt phải nâng cao
9
hiệu lực pháp luật XHCN, mặt khác phải đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý
thức pháp luật cho nhân dân.
Với cách hiểu bao quát như trên, đã chỉ rõ bản chất của pháp luật là một hình thái
ý thức xã hội, có nguồn gốc xuất phát từ đời sống pháp luật của xã hội, có tính độc lập
tương đối và đồng thời cũng làm rõ nét hơn về cơ cấu và nội dung của ý thức pháp
luật. Nhận thức đúng về ý thức pháp luật có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng giúp cho
chúng ta hiểu được bản chất, vai trò to lớn của ý thức pháp luật trong đời sống xã hội
để có thái độ xử sự đúng đắn với sự tồn tại của nó.
1.2. Đặc điểm, kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật
1.2.1. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Các đặc điểm của ý thức pháp được thể hiện như sau:
Thứ nhất, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội - ý thức pháp luật chịu sự
quy định của tồn tại xã hội nhưng đồng thời nó cũng có tính độc lập tương đối.
Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Công lao to
lớn của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác là đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên
đến đỉnh cao, xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một
cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. C.Mác và Ph.
Ăngghen đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển
trên cơ sở đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã
hội trong bản thân nó nghĩa là không thể tìm trong đầu óc của con người mà phải
tìm trong hiện thực vật chất. Các ông cũng chỉ rõ, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội,
những quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật...sớm
muộn cũng biến đổi theo.
Ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội
từ góc độ pháp luật, thể hiện trình độ hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật
của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân trong xã hội có giai cấp. Theo đó, ý thức pháp
luật và pháp luật là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng, chịu sự quy định và bị
chi phối bởi các yếu tố trong cơ sở hạ tầng mà quan trọng nhất là các điều kiện kinh tế.
Vì thế, những nội dung của ý thức pháp luật và những quy định của pháp luật, xét đến
cùng, chính là phải chịu sự chi phối của các yêu cầu khách quan phát sinh trong các
quan hệ xã hội. Về điều này, C.Mác đã khẳng định: “Nhà lập pháp phải coi mình như
10
là nhà khoa học tự nhiên. Ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra
chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối
quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức”.
Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện:
Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thực tế cho thấy tồn tại
xã hội cũ đã mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp luật vẫn còn tồn tại
dai dẳng trong một thời gian dài. Những tàn dư của quá khứ được giữ lại, nhất là trong
lĩnh vực tâm lý pháp luật, nơi thói quen và truyền thống còn đóng vai trò to lớn. Ví dụ
những biểu hiện của tâm lý pháp luật phong kiến như sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp
luật hiện vẫn tồn tại trong xã hội nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp luật đặc biệt là
tư tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên trên sự quy định của tồn tại xã hội. Nếu đó
là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi thể hiện
pháp luật và tạo ra những sự tiến bộ trong đời sống xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó nhưng nó cũng
có tính kế thừa những yếu tố của ý thức pháp luật của thời đại trước đó.Tất nhiên
những yếu tố kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
Thứ hai, ý thức pháp luật có mối quan hệ tác động qua lại với các hình thái ý
thức xã hội khác, nhất là đối với ý thức chính trị, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật.
Tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội thể hiện ở chỗ: Trong mỗi thời
đại lịch sử khác nhau, tùy thuộc vào bản chất của giai cấp cầm quyền mà vai trò của
các hình thái ý thức pháp luật trong đó có ý thức pháp luật khác nhau. Ý thức pháp luật
có thể chịu sự chi phối của các hình thái ý thức xã hội khác hoặc tác động chi phối
ngược lại đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Chẳng hạn, trong xã hội phong kiến
ý thức pháp luật đóng vai trò chịu sự chi phối, trong xã hội tư sản ý thức pháp luật
đóng vai trò chi phối các hình thái ý thức xã hội khác.
Ý thức pháp luật và ý thức chính trị cùng ra đời và tồn tại trong những xã hội có
giai cấp, ý thức pháp luật vừa có tính độc lập tương đối vừa chịu sự chi phối của ý
thức chính trị. Nếu ý thức chính trị phản ánh những nguyên tắc trong mối quan hệ giữa
các tập đoàn người trong xã hội đối với quyền lực nhà nước thì ý thức pháp luật phản
ánh mối quan hệ của các cá nhân đối với nhà ý thức.
11
Trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và ý thức đạo đức, sự giống nhau là cả
hai loại ý thức này đều phản ánh tồn tại xã hội nhưng sự khác nhau thể hiện ở phương
thức và kết quả phản ánh. Ý thức pháp luật phản ánh đời sống pháp luật của xã hội mà
kết quả phản ảnh sẽ thể hiện ở quyền và nghĩa vụ mang tính bắt buộc chung để điều
chỉnh hành vi của con người. Ý thức đạo đức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các
quy tắc điều chỉnh hành vi của con người bằng lương tâm và sự tự điều chỉnh, tự hoàn
thiện, tự đánh giá mang tính tự nguyện của bản thân. Mặt khác, nội dung ý thức đạo
đức không bao hàm quyền mà chỉ có nghĩa vụ, nghĩa vụ ở đây thể hiện khác với nghĩa
vụ trong ý thức pháp luật, đó là nghĩa vụ mang nhân tố chủ quan và sự tự giác của mỗi
người. Ý thức pháp luật và ý thức đạo đức cùng chịu sự tác động của tồn tại xã hội và
cùng tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, chúng đều có vai trò tham gia điều chỉnh
hành vi của con người trong xã hội. Do đó, chúng có mối liên hệ, tác động qua lại với
nhau, hỗ trợ và làm tiền đề cho nhau trong sự hình thành và phát triển của nhau. Trong
đó, ý thức đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự hình thành và nâng cao ý
thức pháp luật, nhất là đối với ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Sự khác nhau giữa ý thức pháp luật và ý thức tôn giáo thể hiện ở chỗ: Ý thức tôn
giáo là sự phản ánh hoang đường hư ảo về thế giới khách quan và gắn cho những hiện
tượng tự nhiên, xã hội trở nên thần bí, không phải do bịcưỡng chế hay ép buộc và ý thức
tôn giáo thường mang tính chủ quan của từng cá nhân trong xã hội. Bản chất của ý thức
pháp luật là sự nhận thức, đánh giá có sự điều chỉnh, có sự cưỡng chế, ép buộc của các
quy định chung mang tính khách quan trong xã hội mà bắt buộc mọi cá nhân đều phải
tuân thủ. Các Mác đã viết: "tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người
chưa tìm được bản thân mình hoặc đã để lại đánh mất mình một lần nữa". Khác với tôn
giáo, ý thức pháp luật lại là sản phẩm của sự sàng lọc của con người về những điều được
coi là cần thiết, bắt buộc phải tuân theo trong mọi hoạt động, mọi ứng xử để đảm bảo lợi
ích của toàn xã hội, mà trước hết là lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Ý thức pháp luật khác với ý thức thẩm mỹ ở chỗ, ý thức thẩm mỹ là ý thức thỏa
mãn trước cái đẹp và điều này không mang tính bắt buộc chung đối với tất cả mọi
người. Trong xã hội, khó có một tiêu chuẩn chung về cái đẹp cho mọi người và nó
không mang tính cưỡng chế như ý thức pháp luật. Vì thế, ý thức thẩm mỹ cho phép
các cá nhân có sự lựa chọn rộng rãi - điều này khác với ý thức pháp luật. Nhà nước và
giai cấp cầm quyền luôn thông qua việc đặt ra quy phạm pháp luật làm chuẩn mực xử
12
sự cho hành vi của mỗi người trong xã hội, tức là áp đặt ý thức pháp luật cho xã hôi.
Việc không thừa nhận ý thức này có nghĩa là chống lại ý chí của Nhà nước và sẽ bị
cưỡng chế bằng các chế tài của pháp luật.
Thứ ba, ý thức pháp luật mang tính giai cấp
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội mang tính giai cấp sâu sắc, phản
ánh đời sống pháp luật của xã hội, thông qua quan điểm, tư tưởng về pháp luật của giai
cấp cầm quyền. Nhà nước đại diện cho giai cấp cầm quyền, thể hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền, ban hành những quy phạm pháp luật phù hợp với ý chí của giai cấp cầm
quyền, nhằm giữ gìn trật tự xã hội và bảo vệ hài hòa giữa lợi ích giai cấp và xã hội.
Thế giới quan pháp lý của một giai cấp nhất định được quy định bởi vị trí của
giai cấp đó trong xã hội. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật nhưng tồn tại một
số hệ thống ý thức pháp luật. Về nguyên tắc chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống
trị mới được phản ánh đầy đủ vào trong pháp luật.
1.2.2. Kết cấu và vai trò của ý thức pháp luật
* Kết cấu của ý thức pháp luật
Quá trình phân tích, làm rõ được kết cấu của ý thức pháp luật là tiền đề quan
trọng giúp chúng ta tìm ra những phương thức phù hợp tác động để nâng cao ý thức
pháp luật.
Kết cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức pháp luật,
trong đó, giữa các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật vừa thống nhất với nhau vừa
tác động ảnh hưởng lẫn nhau và với các hiện tượng khác trong đời sống xã hội.
Ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, theo các lát cắt khác nhau, có thể
chia ý thức pháp luật thành những yếu tố cấu thành khác nhau. Mỗi cách phân chia đều
có ý nghĩa nhất định trong việc tìm hiểu bản chất, đặc điểm và vai trò của ý thức pháp
luật. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài chúng tôi theo cách tiếp cận kết cấu
ý thức pháp luật gồm hai bộ phận: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Một là: Hệ tư tưởng pháp luật
Nói đến hệ tư tưởng pháp luật là nói đến bản chất của pháp luật, nó thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị trong xã hội có phân chia giai cấp. Hệ tư tưởng pháp luật đó là hệ
thống các quan điểm, tư tưởng của con người, phản ánh một cách sâu sắc đời sống pháp
luật theo ý chí của một giai cấp nhất định, nó được thể hiện thông qua hệ thống các
13
phạm trù, khái niệm, nguyên tắc...Hệ tư tưởng pháp luật là hệ thống các vấn đề mang
tính bản chất của pháp luật và quan hệ pháp luật, nó được khái quát ở tầm lý luận.
Hệ tư tưởng pháp luật bao gồm tổng thể các tư tưởng, quan điểm, học thuyết về
pháp luật. Chúng đề cập đến vai trò, bản chất giai cấp, các thuộc tính của pháp luật
cũng như mối quan hệ giữa pháp luật với dân chủ, tự do công bằng, quyền con người,
mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, về nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật.
Trong một chế độ chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia nhất định, hệ tư tưởng pháp
luật chính thống bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị (trong xã hội chiếm
hữu nô lệ thì giai cấp thống trị là chủ nô, xã hội phong kiến do giai cấp địa chủ thống
trị, xã hội TBCN giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị, trong xã hội XHCN giai cấp thống
trị là giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản).
Khi giai cấp cầm quyền là lực lượng tiến bộ của xã hội, có lợi ích kinh tế - chính trị
phù hợp với lợi ích căn bản của số đông các lực lượng khác trong xã hội thì hệ tư
tưởng pháp luật sẽ mang tính khoa học, tính cách mạng, tính dân chủ và tính xã hội
cao. Ngược lại, nó có thể trở nên lạc hậu, thậm chí phản động khi nó đối lập với xã
hội, nó sẽ là rào cản của phát triển xã hội. Tuy nhiên, hai khuynh hướng trên nó luôn
luôn chuyển hóa để trở thành ý thức pháp luật của toàn xã hội, suy cho cùng nó phản
ánh sâu sắc bản chất tồn tại xã hội do tồn tại xã hội quy định, mà đỉnh cao của nó là lợi
ích kinh tế - chính trị của giai cấp thống trị ở mỗi xã hội nhất định.
Hai là: tâm lý pháp luật là sự phản ánh tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm của
con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý.
Tâm lý pháp luật được hình thành một cách tự phát, dưới dạng tình cảm, tâm
trạng, thái độ, cảm xúc của con người đối với pháp luật. Sự tồn tại của tâm lý pháp luật
thường gắn với trạng thái tâm lý của con người, là sự phản ánh trực tiếp, những "cung
bậc" tình cảm của con người đối với các hiện tượng pháp lý cụ thể. Tâm lý pháp luật là
một bộ phận của ý thức pháp luật, so với hệ tư tưởng thì nó phong phú hơn, có tính
bền vững hơn và ít biến đổi và gắn bó chặt chẽ với thói quen, truyền thống, tập quán
của con người, của cộng đồng xã hội.
Nói tâm lý pháp luật là nói đến sự biểu đạt những cảm xúc, tâm trạng, thái độ của
con người đối với pháp luật, liên quan mật thiết với nhu cầu và lợi ích của con người
và mức độ biểu hiện của nó với pháp luật, mặt khác nó còn chịu sự ràng buộc của
14
những thói quen, truyền thống, tập quán sản xuất lao động, quan hệ kinh tế - xã hội
của con người. Bởi vậy, cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tâm lý pháp luật
thường ít biến đổi, chậm thay đổi, nó mang tính bảo thủ, có tính bền vững cao so với
tư tưởng pháp luật. Do vậy, để xóa bỏ ý thức pháp luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp
luật XHCN thì không thể chủ quan tùy tiện áp đặt khiên cưỡng, ngược lại phải kiên trì,
linh hoạt, sáng tạo và cần có thời gian nhất định.
Tâm lý pháp luật đó là việc thể hiện thái độ và hành vi đối với pháp luật hiện
hành và việc chấp hành các quy định của pháp luật, đó là thái độ đồng tình hay phản đối,
thờ ơ hay trân trọng, xem thường hay tôn trọng pháp luật... Thông qua thái độ ấy mà con
người thể hiện thái độ, niềm tin, thực hiện hành vi ứng xử trước pháp luật hiện hành.
Nói đến trạng thái của tâm lý pháp luật thì tình cảm pháp luật là nấc thang đầu
tiên, mang nặng tính cảm tính. Tuy nhiên, những giá trị và mức độ của những "cung
bậc" tình cảm pháp luật còn tùy thuộc vào nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích của con
người trước pháp luật, điều này được tình cảm pháp luật qua thái độ tiêu cực hay tích
cực, ủng hộ hay không ủng hộ của con người đối với pháp luật.
Tính kế thừa của truyền thống, hành vi ứng xử theo thói quen, tập quán, việc bồi
đắp và xây dựng niềm tin pháp luật là những nhân tố khá ổn định tính bền vững trong
nội dung của tâm lý pháp luật. Những yếu tố ấy được hình thành một cách lâu dài,
phức tạp và kiểm chứng qua thực tiễn, làm cơ sở cho hoạt động của con người tự tin,
kiên định và hiệu quả hơn. Vì vậy nó là những yếu tố quan trọng trong quá trình hình
thành ý thức pháp luật.
Cũng phải nói rằng, giữa tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật có mối quan
hệ qua lại khăng khít với nhau. Tâm lý pháp luật ra đời và phản ánh thái độ của con
người trước pháp luật một cách tự phát, chưa hoàn chỉnh và chịu sự chi phối của hệ tư
tưởng pháp luật. Ngược lại, sự phát triển của hệ tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh
hưởng của tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng pháp luật là hai trình độ
phản ánh đời sống pháp luật nhưng có mối quan hệ tác động lẫn nhau trong sự hình
thành ý thức pháp luật; sự đan xen và mức độ tác động qua lại giữa hệ tư tưởng pháp
luật và tâm lý pháp luật lại còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của
mỗi quốc gia, dân tộc. Do vậy, để nâng cao ý thức pháp luật XHCN cho nhân dân, bên
cạnh việc đổi mới hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật, việc kiểm tra giám sát thực
15
hiện pháp luật cần phải tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật hơn nữa cho
thế hệ trẻ nhất là với đối tượng thanh niên, sinh viên hiện nay.
* Vai trò của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật ra đời từ những điều kiện xã hội nhất định, phản ánh nhu cầu
điều chỉnh cũng như quá trình điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Ý
thức pháp luật có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. Tùy thuộc vào ý
thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó có vai trò tích cực hay ảnh
hưởng tiêu cực đến các mặt khác nhau của đời sống xã hội.
Ở đây, chúng tôi tập trung phân tích vai trò của ý thức pháp luật đối với đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa - tư tưởng.
Thứ nhất, vai trò của ý thức pháp luật trong đời sống kinh tế. Đời sống kinh tế
của xã hội là tổng thể những mối quan hệ, tương tác lẫn nhau của con người liên quan
trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm và dịch vụ
nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người với một nguồn lực có giới hạn.
Ý thức pháp luật có thể góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế phát triển, bởi lẽ ý
thức pháp luật là tiền đề trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà
nước. Hệ thống pháp luật nhà nước nếu phản ánh đúng quy luật phát triển kinh tế,
phản ánh đúng nhu cầu và xu hướng phát triển của một chế độ kinh tế - xã hội trong
giai đoạn lịch sử nhất định thì mới có tác dụng thúc đẩy và tạo điều kiện cho các quan
hệ kinh tế - xã hội mới phát triển.
Do đó, nhà nước với tư cách là người trực tiếp sáng tạo pháp luật trước hết phải
nhận thức được những đòi hỏi khách quan của đời sống kinh tế - xã hội thực tiễn,
những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển của kinh tế - xã hội để phản ánh kịp
thời vào hệ thống pháp luật. Pháp luật là công cụ quản lý kinh tế của đất nước thông
qua việc thể chế hóa các chính sách, kế hoạch phát triển thành hệ thống các quy phạm
pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế đạt hiệu quả, nên việc nâng
cao ý thức pháp luật sẽ góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống luật pháp hiện hành
nhằm điều chỉnh phù hợp các quan hệ kinh tế. Nhờ hệ thống pháp luật, các chủ thể
kinh tế được đảm bảo quyền tự do và lợi ích hợp pháp, đồng thời họ cũng xác định
được nghĩa vụ và quyền hạn của mình trong sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu
dùng và do vậy, ý thức pháp luật của họ cũng được củng cố, nâng cao.
16
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, sự
phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo đang diễn ra với khoảng cách ngày càng lớn,
cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, các vấn đề kinh tế - xã hội trở nên phức
tạp và gay gắt hơn (sự cạnh tranh không lành mạnh, kinh tế phát triển mất cân đối,
phát sinh nhiều tiêu cực, hành vi tham nhũng, lãng phí và tệ nạn xã hội...). Điều này
càng cần đến sự điều chỉnh của pháp luật, đặc biệt là cần đến ý thức pháp luật tự giác,
tích cực của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, vai trò của ý thức pháp luật trong đời sống chính trị. Trong điều kiện
của Nhà nước pháp quyền, pháp luật có vị trí tối thượng, ý thức pháp luật cũng giữ vị
trí quan trọng, là bộ phận ý thức xã hội chủ đạo trong hệ thống ý thức xã hội.
Ở nước ta hiện nay, ý thức pháp luật thích ứng với tính chất của nhà nước kiểu
mới, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ý thức pháp luật giúp con người có khả năng nhận thức, đánh giá về đời sống
pháp luật với các vấn đề, như thực trạng của đời sống pháp luật hiện hành; các tài liệu,
ấn phẩm thông tin pháp lý; tình trạng pháp chế; công tác tổ chức, áp dụng và thi hành
luật pháp của các cơ quan nhà nước; hoạt động thực hiện pháp luật của các tổ chức xã
hội, thái độ và hành vi của các tầng lớp nhân dân với pháp luật; tính hợp pháp hay
không hợp pháp trong hành vi của bản thân, của người khác; sự công bằng hay chưa
trong việc áp dụng pháp luật đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức xã hội; v.v...
Thứ ba, vai trò của ý thức pháp luật trong đời sống văn hóa - tư tưởng. Ý thức
pháp luật luôn có ảnh hưởng mạnh mẽ tới các hình thái ý thức xã hội khác. Những
quan điểm, tư tưởng pháp luật khoa học, tiến bộ góp phần củng cố, phát huy những
nhân tố tích cực ở các hình thái ý thức xã hội khác; đồng thời khắc phục những quan
niệm không phù hợp, ảnh hưởng xấu đến lợi ích của các giai cấp, đến đời sống cộng
đồng và tiến bộ xã hội.
Ý thức pháp luật cao giúp khắc phục tình trạng xâm phạm quyền tự do dân chủ
của nhân dân. Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa đã góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân các dân tộc trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ,
kiên quyết chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sôvanh
nước lớn.
Ý thức pháp luật quyết định hiệu quả của việc thực hiện pháp luật, đưa pháp luật
vào cuộc sống. Ý thức pháp luật cao là cơ sở cho những ứng xử có văn hóa của con
17
người khi con người có ý thức tôn trọng nhau thông qua việc nghiêm chỉnh chấp hành,
tuân thủ pháp luật.
Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, tiền đề tư tưởng trực tiếp cho
việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ý thức pháp luật cao là
điều kiện để việc biên soạn, ban hành pháp luật được tiến hành nhanh chóng và
thuận lợi.
Như vậy từ những điều trình bày ở trên, có thể nói, ý thức pháp luật có vai trò to
lớn trong đời sống xã hội.
18