Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BẢN THAM LUẬN về PHƯƠNG PHÁP GIẢNG dạy các môn GIÁO dục CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.57 KB, 10 trang )

BẢN THAM LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CÁC
MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

Giáo dục chính trị tại Việt Nam là giáo dục cho các tầng lớp thanh
thiếu niên và các tầng lớp khác trong xã hội về chủ nghĩa mác lenin và tư
tưởng HCM.
Giáo dục chính trị được áp dụng ở tất cả các cấp học tại Việt Nam, dưới
các hình thức: môn học Giáo dục Công dân (từ các cấp tiểu học lên đến cấp
trung học phổ thông), môn chủ nghĩa Marx-Lenin, môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa Xã hội khoa học, Lịch sử Đảng, Triết học,... tại tất cả các
trường Đại học. ""Giảng dạy, học tập tốt bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng trong hệ thống các
trường Đại học, Cao đẳng là hết sức cần thiết, quan trọng, để cung cấp cho
học sinh sinh viên những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng, xây dựng cho sinh viên
thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa."
Đối với môn triết học : Hiện nay, quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công
nghệ… ở nước ta đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao đối với nhiệm vụ phát
triển giáo dục và đào tạo nói chung; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói riêng. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định rằng,
chúng ta phải "Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng,
trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội

1


dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị, nâng
cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình"(1).
Tuy nhiên, theo chúng tôi, đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy
triết học phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:


Một là, phải tính đến đặc thù của môn triết học.
Hai là, phải tính đến đặc thù của đối tượng giảng dạy.
Để giảng dạy triết học có hiệu quả, trước hết phải đổi mới nội dung giảng
dạy và học tập. Cần khẳng định rằng, giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai
mặt hoạt động cơ bản của nhiệm vụ chính trị trong nhà trường ở bậc đại học, kết
hợp giảng dạy với nghiên cứu khoa học là hoạt động thường nhật của Học viện.
Chúng tôi xác định nhiệm vụ hàng đầu của nghiên cứu khoa học là tập trung
biên soạn giáo trình. Vì vậy, từ chỗ chưa có sách phục vụ dạy và học, từ năm
1994 đến năm 2004, Khoa Triết học, Học viện Chính trị khu vực I đã biên soạn
đầy đủ bộ giáo trình với 8 cuốn sách và đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia ấn hành cho cả 6 học phần của môn học. Nội dung từng cuốn giáo trình được
biên soạn nghiêm túc, bảo đảm tính khoa học, tính tư tưởng và tính thực tiễn;
trang bị cho người học những kiến thức cơ bản, có hệ thống về Lịch sử triết học,
Triết học Mác - Lênin, Lôgíc học, Mỹ học Mác - Lênin và Đạo đức học Mác Lênin, góp phần tích cực trong việc bồi dưỡng thế giới quan khoa học và nhân
sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho người học.
Việc đổi mới nội dung giảng dạy của Khoa Triết học còn biểu hiện ở chỗ,
từng học phần, từng chương sách, từng bài giảng đã được giảng viên đi sâu làm
rõ lịch sử của từng vấn đề và tính khoa học của các khái niệm, phạm trù, nguyên
lý, quy luật; gắn lý luận với thực tiễn mới của thời đại, thực tiễn của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; thực tiễn của công tác lãnh đạo,
quản lý; thực tiễn của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta. Những thành tựu
mới của khoa học, những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh đã được đưa vào bài
giảng triết học, mang lại cho các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật những
nội dung mới, làm cho chúng mềm dẻo, linh hoạt, đáp ứng được những nhu cầu
2


mới của cuộc sống. Trong các bài giảng, tuỳ ở mức độ vận dụng, người giảng đã
chú ý gắn đường lối, quan điểm của Đảng, tình hình nhiệm vụ của cách mạng
với nhiệm vụ của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, góp phần bồi dưỡng bản lĩnh

chính trị, niềm tin, lý tưởng cộng sản và năng lực tư duy khoa học cho học viên,
làm cho lý luận đi đôi với thực tiễn và phục vụ thực tiễn.
Có thể nói rằng, việc thực hiện chặt chẽ, khoa học các khâu trong quy
trình giảng dạy và học tập, như biên soạn giáo trình, ôn tập, hệ thống đề thi đến
cho điểm đánh giá bài thi cũng như hướng dẫn luận văn, chấm bảo vệ luận văn
và chấm luận văn tốt nghiệp sẽ khơi dậy tính tích cực, chủ động, khuyến khích
suy nghĩ độc lập, tự do tư tưởng, mạnh dạn tranh luận và sự kiên nhẫn, ham mê
nghiên cứu, học tập triết học của học viên trong quá trình đào tạo.
Để khơi dậy tính chủ động của người học trong học tập, chúng tôi đã xây
dựng kế hoạch giảng dạy và học tập chi tiết cho từng chương sách và phát kế
hoạch này cho học viên ngay từ giờ đầu nhập môn học với mục đích hướng dẫn
học viên đọc giáo trình và tài liệu tham khảo trước khi lên lớp. Trong giảng dạy,
Khoa Triết học đã thực hiện lồng ghép các phương pháp hỗ trợ thuyết trình vào
giờ giảng, giảm thuyết trình, tăng trao đổi, thảo luận. Chúng tôi đã thực hiện
giảm 1/2 giờ giảng là giảm 1/2 thời lượng thuyết trình, 1/2 thời gian còn lại vẫn
được thực hiện trên lớp để trao đổi giữa học viên với giảng viên.
Trong thời gian qua, cho dù chưa có sự đồng bộ về các mặt, như yêu cầu
nội dung chương trình lớn, cơ sở vật chất thiếu thốn; sức ỳ của người học còn
lớn, quá trình học tập của họ chỉ mới dừng lại ở mức độ đón nhận thông tin một
chiều, ghi nhớ và "tái hiện" thông tin chứ chưa đạt đến trình độ sáng tạo, hoặc
giảng viên mới bước đầu được bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy hiện đại…;
song cán bộ, giảng viên của Học viện đã cố gắng tìm tòi, học hỏi và áp dụng vào
bài giảng nhiều phương pháp giảng dạy hỗ trợ cho phương pháp thuyết trình,
như nêu tình huống, nêu ý kiến, hỏi đáp, sàng lọc, phát vấn, làm việc theo nhóm,
đối thoại, xêmina… nhằm nâng cao chất lượng bài giảng. Nhờ vậy, các bài giảng
triết học (mà trước đây, khi còn học ở các trường đại học, học viên thường cho là
3


khó, khô khan, trừu tượng) được thực hiện trên lớp hiện nay đã thực sự tạo ra sự

hấp dẫn, có sức thuyết phục và cuốn hút học viên trong học tập. Học viên đã
nhận thấy triết học có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống và công tác của họ. Với
nhiều người, học triết học đã trở thành một nhu cầu thiết thực, tư duy triết học
giúp họ chủ động, tự giác hơn trong xây dựng chương trình, kế hoạch hành
động. Thực tế cho thấy, thiếu tư duy triết học thì không có tư duy lôgíc, tư duy
biện chứng, tư duy khoa học trong nhận thức và hành động.
Phương pháp giảng dạy, theo nghĩa rộng, bao hàm trong đó cách thức hoạt
động, tác động giữa người dạy (chủ thể dạy - người thầy) trực tiếp hoặc gián tiếp
(qua các phương tiện như sách, nghe, nhìn) với người học (vừa là đối tượng của
giảng dạy, vừa là chủ thể học, tự học) cùng nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ
và nội dung dạy học.
Trong giảng dạy có nhiều phương pháp phong phú, đa dạng. Một chủ đề,
bài giảng có thể sử dụng lồng ghép hợp lý nhiều phương pháp. Nhưng lựa chọn
những phương pháp nào lại tùy thuộc vào đặc điểm của môn học, của nội dung
giảng dạy và đặc điểm của người học. Từ đặc điểm của triết học là môn học có
tính trừu tượng cao, từ đặc thù của đối tượng giảng dạy như đã nêu trên, theo
chúng tôi, để đổi mới phương pháp giảng dạy, trước mắt cần tập trung kết hợp
phương pháp thuyết trình với các phương pháp tích cực khác, như nêu vấn đề,
thảo luận theo nhóm, hỏi đáp… kết hợp với sử dụng các phương tiện hiện đại.
Việc giảng dạy lý luận trước đây chủ yếu sử dụng phương pháp truyền
thống, đó là phương pháp thuyết trình. Tuy nhiên, không thể đánh giá rằng
phương pháp thuyết trình đã lạc hậu, bởi phương pháp này có tính vượt trội của
nó. Do đó, cần phải tiếp tục sử dụng phương pháp thuyết trình kết hợp lồng ghép
với các phương pháp khác. Một thực tế không thể phủ nhận là, chúng ta còn
chưa chú ý đúng mức đến việc kết hợp thuyết trình với các phương pháp giảng
dạy khác nhằm khuyến khích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học;
chưa kết hợp sử dụng các phương tiện giảng dạy hiện đại để hỗ trợ cho phương
pháp thuyết trình. Điều đó làm hạn chế ở mức độ nhất định hiệu quả của giờ học.
4



Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới và cả ở nước ta, việc lồng ghép nhiều
phương pháp khác nhau với việc sử dụng các phương tiện hiện đại trong giảng
dạy đã trở thành một xu thế phổ biến và có những ưu thế không thể phủ nhận.
Tóm lại, đổi mới phương pháp giảng dạy phải có sự kết hợp nhiều phương
pháp. Thực chất của đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập triết
học là nhà trường, giảng viên phải căn cứ vào đặc thù của môn triết học, của đối
tượng giảng dạy và mục tiêu đào tạo để tìm ra phương pháp giảng dạy hiệu quả
nhất. Quá trình này đòi hỏi người thầy phải không ngừng hoàn thiện mình từ
việc nâng cao trình độ, cập nhật tri thức mới đến phát huy tính năng động, sáng
tạo trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy thích hợp để khơi dậy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của người học.
Đối với môn kinh tế chính trị: Kinh tế chính trị Mác – Lênin là một
môn khoa học xã hội cung cấp cho sinh viên những vấn đề cơ bản về các khái
niệm, phạm trù, quy luật kinh tế. Từ đó, giúp các em có được nền tảng kiến
thức cơ bản và bước đầu hình thành tư duy kinh tế khi nhìn nhận, đánh giá
các vấn đề kinh tế - xã hội trong thực tiễn. Là một trong ba bộ phận cấu thành
chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh tế chính trị nghiên cứu các quan hệ sản xuất
trong mối liên hệ và sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Vì vậy, phương pháp nghiên cứu quan trọng nhất của kinh tế
chính trị là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Phương pháp này đòi hỏi
gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và hiện tượng
kinh tế được nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong
những hiện tượng và quá trình đó. Trên cơ sở đó, nắm bắt được bản chất của
các hiện tượng, hình thành những phạm trù và quy luật phản ánh bản chất đó.
Tóm lại, qua việc xác định đối tượng và phương pháp nghiên cứu của môn
kinh tế chính trị có thể thấy rõ tính chất và đặc điểm của môn học.
Để thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy môn kinh tế chính trị cần
có sự phối hợp nhiều giải pháp. Mức độ ưu tiên các giải pháp và sự kết hợp
chúng có đặc thù khác nhau tùy theo đối tượng sinh viên. Do đặc thù của

5


ngành đào tạo, sinh viên các khoa tự nhiên có tư duy lôgic khá chặt chẽ, cách
diễn đạt vấn đề ngắn gọn, khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề khá tốt, tư
duy thiên về các con số chính xác... Trên cơ sở nắm vững đặc điểm đối tượng,
đổi mới phương pháp giảng dạy KTCT cần chú ý những điểm chủ yếu sau :
Thứ nhất, bản thân đội ngũ giảng viên KTCT phải không ngừng rèn
luyện nâng cao năng lực chuyên môn, cập nhật những vấn đề thực tiễn đang
đặt ra liên quan đến môn học, biết vận dụng kiến thức môn học vào giải quyết
các vấn đề thực tiến. Yêu cầu này giúp giảng viên vững vàng trên bục giảng
khi giảng dạy các kiến thức cơ bản đồng thời truyền được cho sinh viên sự
hứng thú, lòng say mê đối với môn học, giúp sinh viên hiểu được ý nghĩa, tầm
quan trọng của môn học trong thực tiễn. Ở đây, điều quan trọng cần nhấn
mạnh là bản thân phương pháp là sự vận động của nội dung. Do vậy, nếu kiến
thức chuyên môn của giảng viên không thực sự vững vàng thì tình trạng “đọc
– chép” như những “ông đồ ngồi trên phản” là tất yếu. Đặc biệt, đối với sinh
viên các khoa tự nhiên thì giảng viên chỉ có thể chinh phục các em bằng kiến
thức vững vàng, bằng hiểu biết và sự lý giải các vấn đề thực tiễn chính xác,
hợp lý hơn là các câu chuyện giải trí, các bài thơ, chuyện phiếm “giết” thời
gian. Gải quyết tốt yêu cầu cơ bản này không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn
có ý nghĩa lâu dài làm thay đổi căn bản thực trạng giáo dục nói chung và
giảng dạy môn học nói riêng. Muốn vậy, Nhà trường nên có các biện pháp
khuyến khích, bắt buộc giáo viên trau dồi chuyên môn và thường xuyên có sự
kiểm tra, đánh giá giảng viên thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Thứ hai, giảng viên cần phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của
sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức thông qua việc sử dụng các phương
pháp dạy học tích cực : phương pháp động não, phương pháp nêu vấn đề,
phương pháp đàm thoại, thảo luận nhóm, trực quan hay kết hợp các phương
pháp với nhau tùy điều kiện cụ thể. Bản thân các phương pháp đều có những

ưu, nhược điểm.Do vậy, không nên coi bất kỳ phương pháp nào là tối ưu, là
chìa khóa vạn năng cho việc truyền thụ tri thức bài giảng. Thậm chí cùng là
6


một bài giảng nhưng khi giảng cho các lớp khác nhau, phương pháp cũng phải
vận dụng khác nhau. Chẳng hạn, đối với những lớp sinh viên tích cực học tập,
có tinh thần xây dựng bài khá tốt, giảng viên có thể kết hợp phương pháp
thuyết trình với thảo luận nhóm (có thể là các phương pháp dạy học tích cực
khác) để truyền thụ tri thức bài giảng. Tuy nhiên hiệu quả giờ học sẽ giảm nếu
giảng viên áp dụng “y nguyên” phương pháp đó ở các lớp có nhiều snh viên
lười học, sinh viên cá biệt và ý thức chống đối khi học, sức ỳ trong việc tự
học và xây dựng bài cao. Như vậy, để giảng dạy tốt môn học, giảng viên cần
nắm vững ưu, nhược điểm của từng phương pháp dạy học nhất là phương
pháp dạy học tích cực ; nắm vững đối tượng học sinh và hoàn cảnh cụ thể của
lớp học để vận dụng các phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Đối với sinh
viên các khoa tự nhiên, các em có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề khá
tốt nên giảng viên có thể căn cứ vào đặc điểm này để khơi gọi hứng thú học
tập của SV qua việc xây dựng các “bài toán vấn đề” trong giảng dạy KTCT.
Thứ ba, phù hợp với xu thế phát triển như vũ bão của cách mạng khoa
học công nghệ, giảng viên có thể kết hợp sử dụng các phương tiện dạy học
hiện đại trong quá trình giảng dạy góp phần làm cho giờ dạy sinh động hơn
nhờ sự tác động trực quan. Để phương tiện dạy học hiện đại phát huy hiệu
quả, giảng viên cần có sự đầu tư chế tạo các đồ dùng dạy học trên cơ sở ứng
dụng các phần mềm tin học như chế tạo các mô hình, sơ đồ hóa kiến thức, sưu
tầm và chụp các bức ảnh liên quan đến nội dung bài học, các bộ phim hỗ
trợ ... Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện và đồ dùng dạy học hiện đại
chỉ mang tính chất hỗ trợ. Bản thân nó không thể thay thế nội dung tri thức
khoa học và sự vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp của giảng viên.
Thậm chí, ngay trong điều kiện không có phương tiện dạy học hiện đại, giảng

viên vẫn phải đảm bảo dạy tốt và có thể sử dụng các đồ dùng dạy học truyền
thống như giấy Ao, bút dạ, ...
Thứ tư, việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn học không chỉ đặt ra
đối với giáo viên mà bản thân mỗi giảng viên cần phải khích lệ, khơi dậy sự
7


tự giác học tập, phát biểu xây dựng bài ở sinh viên bằng các biện pháp khác
nhau. Trong đó có các biện pháp cơ bản như : động viên, khích lệ tinh thần,
động viên khích lệ qua việc cho điểm tại chỗ, bản thân gảng viên phải là tấm
gương về tri thức, đạo đức, phẩm chất để hướng sinh viên đến những suy nghĩ
tích cực, ý thức vươn lên trong học tập.
Đối với môn tư tưởng HCM: Nghiên cứu, học tập và làm theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng (ĐH, CĐ) có vai trò quan
trọng trong hình thành, củng cố nền tảng tư tưởng cho đội ngũ cán bộ của
Đảng và Nhà nước. Qua khảo sát một số trường ĐH, CĐ trên toàn quốc thì
93,6% số sinh viên (SV) được điều tra cho rằng môn học Tư tưởng Hồ Chí
Minh rất bổ ích. Từ học môn này, nhiều SV đã cố gắng phấn đấu toàn diện cả
về học tập, tu dưỡng đạo đức để trở thành đoàn viên ưu tú, cảm tình đảng và
đảng viên. Tuy nhiên, chúng tôi thấy đang có khó khăn cần có những giải
pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn rất quan trọng này.
Hiện nay, đội ngũ giảng viên (ĐNGV) dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh còn
thiếu và chất lượng chưa cao. Cả nước có trên 2.000 giáo viên (GV) dạy các
bộ môn Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu căn cứ vào số SV và số giờ
giảng chuẩn của một GV trong một năm thì ĐNGV hiện có mới chỉ đáp ứng
được một nửa nhu cầu. Đội ngũ giảng viên môn Tư tưởng Hồ Chí Minh hầu
như chưa được đào tạo chính quy, chuyên sâu, mới chỉ được bồi dưỡng ngắn
hạn, học bổ trợ qua một khóa khoảng sáu tháng. Giảng viên Tư tưởng Hồ Chí
Minh phần lớn nằm trong khoa, tổ bộ môn Mác-Lênin. Theo số liệu thống kê
của Ban Đại học Thành ủy Hà Nội, có 17 trường trong Khối ĐH, CĐ Hà Nội

thành lập khoa Mác-Lênin, 22 trường có tổ bộ môn, 3 trường không thành lập
khoa, tổ. Nhiều GV dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh đã tốt nghiệp đại học cách
đây hàng chục năm, vốn kiến thức mà họ tiếp thu được ở các trường ĐH, CĐ
lạc hậu so với cuộc sống. ở các trường khối văn hóa, nghệ thuật, ĐNGV còn
mỏng hơn… Việc GV dạy quá nhiều giờ vẫn tồn tại do quy mô đào tạo tăng
(có trường số giờ dạy/năm của một GV trên dưới 1.000 giờ quy đổi). Thực
8


trạng này làm cho ĐNGV không còn thời gian nghiên cứu khoa học, chuẩn bị
kỹ bài giảng trước khi lên lớp. Bên cạnh đó, nhiều thầy, cô chưa thật sự tâm
huyết với nghề.
Mặt khác, nhiều cấp ủy đảng, nhà trường chưa chăm lo đầy đủ để nâng
cao trình độ các mặt cho lực lượng GV một cách cụ thể, đúng mức. Các chính
sách hỗ trợ chưa đồng bộ, chưa tạo động lực thu hút người giỏi, có tâm huyết
vào lĩnh vực giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống tổ chức quản lý
công tác nghiên cứu khoa học, phục vụ dạy và học còn phân tán, thiếu sự phối
hợp.
Nội dung giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều trường ĐH, CĐ ít
sát thực tiễn, nặng tính sách vở, chậm được đổi mới, chưa tạo được sự hấp
dẫn. Nhiều nội dung trong các giáo trình còn trùng lặp, chưa cô đọng, thiếu
tính lô gích giữa các phần, các thí dụ minh họa chưa có tính thuyết phục
cao… Khi biên soạn giáo trình, các bộ, ban, ngành chưa tập hợp được ý kiến
rộng rãi của giảng viên, cập nhật những vấn đề mới của thực tiễn.
Cán bộ giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh thường hạn chế về ngoại ngữ,
nắm bắt các phương tiện giáo dục hiện đại… nên rất ít trường áp dụng
phương pháp mới mà chủ yếu là cách dạy truyền thống, giáo viên đọc, sinh
viên ghi, không nghiên cứu tài liệu trước. Nhiều GV lấy nhiệt tình bù tri thức,
giản đơn hoá khi phân tích lý luận khoa học; chưa nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, chỉ thiên về thành tích, ưu điểm, theo ý muốn chủ

quan, hoặc dựa trên những kết luận có sẵn. Bên cạnh đó, khâu kiểm tra, đánh
giá chất lượng giảng dạy thiếu thường xuyên, nhiều trường chưa coi trọng
công tác tổng kết thực tiễn của đơn vị mình để rút kinh nghiệm và bổ sung
những nội dung mới về lý luận vào bài giảng. Hình thức thảo luận tại tổ, lớp
tuy có áp dụng nhưng hạn chế; tổ chức xem phim tư liệu về cuộc đời và sự
nghiệp của Bác, tham quan các viện bảo tàng chưa nhiều. Việc sử dụng các
thiết bị, phương tiện hiện đại vào giảng dạy như đèn chiếu, mô hình, đĩa CD...
còn ít.
9


Đại bộ phận SV chưa có suy nghĩ rằng Tư tưởng Hồ Chí Minh là môn
học chính, chưa nhận thức được tính khoa học và sự cần thiết của môn học
này. Sinh viên thường quen cách “học thuộc lòng” nên không nắm được bản
chất vấn đề, ít suy nghĩ vận dụng, liên hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Đối với môn CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC: Đổi mới, nâng
cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung và môn chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng là một
yêu cầu cấp bách đối với các trường Đại học và Cao đẳng trong cả nước
Bám sát đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát, vận dụng của chủ
nghĩa xã hội khoa học
Thiết kế bài giảng phù hợp với đối tượng
Nghiên cứu và sử dụng hợp lí kinh điển
Cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của sinh viên
Chú ý liên hệ với thực tiễn trong nước và quốc tế, với đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước

10




×