Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Ảnh hưởng đạo đức nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 169 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

THI DON VIT

ảNH HƯởNG ĐạO ĐứC NHO GIáO
ĐếN GIáO DụC ĐạO ĐứC TRONG GIA ĐìNH
ở VIệT NAM HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA DUY VT BIN CHNG
V CH NGHA DUY VT LCH S

H NI - 2017


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

THI DON VIT

ảNH HƯởNG ĐạO ĐứC NHO GIáO
ĐếN GIáO DụC ĐạO ĐứC TRONG GIA ĐìNH
ở VIệT NAM HIệN NAY

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA DUY VT BIN CHNG
V CH NGHA DUY VT LCH S
Mó s: 62 22 03 02

Ngi hng dn khoa hc:

1. PGS.TS. TRN NGUYấN VIT


2. PGS.TS. Lấ VN LI

H NI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

Tác giả luận án

Thái Doãn Việt


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến Nho giáo và đạo đức Nho giáo
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến gia đình và đạo đức gia đình
1.3. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức Nho giáo với
giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam

1.4. Khái lược những kết quả đạt được từ các công trình khảo cứu ở
trên và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết

5
5
14
18
22

Chương 2: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GIA
ĐÌNH VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ

2.1. Quan niệm của Nho giáo về đạo đức và đạo đức trong gia đình
2.2. Đạo đức Nho giáo với tư cách nhân tố chủ đạo của giáo dục đạo
đức gia đình Việt Nam trong lịch sử

26
26
54

Chương 3: ẢNH HƯỞNG ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐẾN GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Những nhân tố tác động đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo
trong giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay và
phương thức ảnh hưởng của nó
3.2. Thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo
đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay

3.3. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến
giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay

72
72
86
98

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ
ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO
TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

4.1. Phương hướng chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức
trong gia đình ở Việt Nam hiện nay
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức
trong gia đình ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105
105
118
148
151

152


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét về mặt ý thức hệ, Việt Nam từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư
tưởng phong kiến Trung Quốc mà nền tảng của nó là Nho giáo. Bên cạnh mặt
tiêu cực đã và đang ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội, Nho giáo vẫn
phát huy được những mặt tích cực nhất định của nó. Ở nhiều nước phương
Đông như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Nho giáo vẫn có vị trí nhất định
trong đời sống xã hội. Ông Lý Quang Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore tại
Hội nghị nghiên cứu về Khổng Tử và Đại hội thành lập Hội liên hiệp Nho học
quốc tế nhân dịp kỷ niệm 2545 năm ngày sinh của Khổng Tử, đã phát biểu
như sau:
76% nhân khẩu của Singapore là người Hoa. Văn hoá dân tộc Hoa
chú trọng ngũ luân, cũng tức là: cha con thì có tình thân, vua quan
thì có nghĩa, chồng vợ thì có khác biệt, trưởng ấu thì có thứ tự, bạn
bè thì có điều tín. Họ xem lợi ích xã hội cao hơn lợi ích cá nhân, do
đó không tiếp thu chủ nghĩa cá nhân vô hạn độ của người Mỹ... Từ
kinh nghiệm quản lý đất nước của Singapore, đặc biệt trong những
ngày gian khổ từ năm 1959- 1969, khiến tôi tin tưởng sâu sắc rằng,
nếu không phải là đại bộ phận nhân dân Singapore được hun đúc
qua giá trị quan của Nho học, thì chúng tôi không có cách gì khắc
phục những khó khăn, trở ngại đã vấp phải [37, tr.281].
Trải qua nhiều bước thăng trầm, song ảnh hưởng cũng như giá trị và
sức sống của tư tưởng Nho giáo nói chung, đạo đức Nho giáo nói riêng là điều
chúng ta không thể phủ nhận. Tuy ở mức độ khác nhau, nhưng với hơn 2500
năm tồn tại và phát triển, tư tưởng Nho giáo trong đó có học thuyết đạo đức
của nó đã thấm sâu trong đời sống tinh thần của nhiều người Việt Nam, thậm

chí nó đã trở thành một phần máu thịt của họ.


2
Đạo đức Nho giáo không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân con người mà còn
ảnh hưởng đến các thiết chế xã hội Việt Nam, trong đó có gia đình - với tư
cách là tế bào của xã hội.
Với truyền thống nhân ái, thủy chung, trọng nghĩa tình, đạo lý, chúng ta
luôn luôn đề cao giáo dục đạo đức trong gia đình và vai trò của gia đình trong việc
hình thành và phát triển nhân cách con người. Một trong những định hướng lớn về
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội được Đại hội XII của Đảng đề ra là "Thực hiện
chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây
dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc và văn minh" [48, tr.128].
Hiện nay nhiều gia đình Việt Nam vẫn giữ gìn và phát huy được những
giá trị tốt đẹp của đạo đức gia đình truyền thống, trở thành giá đỡ, thành chỗ
dựa tinh thần không thể thiếu trong suốt hành trình của mỗi con người. Một
thực tế không thể phủ nhận là trong những giá trị đó có sự đóng góp nhất định
của đạo đức Nho giáo. Tuy nhiên, dù được lựa chọn, sàng lọc qua quá trình
tiếp biến văn hóa ở nước ta gần hai ngàn năm, cho đến tận ngày ngay, đạo đức
Nho giáo cũng có những mặt hạn chế nhất định và ảnh hưởng không tốt đối
với sự hình thành các giá trị đạo đức mới của gia đình Việt Nam, làm cho
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước bị cản trở.
Chính vì vậy, việc kế thừa những giá trị tích cực, khắc phục, hạn chế
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trên lập trường đạo đức cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp với thực tiễn của cách
mạng nước ta để xây dựng đạo đức gia đình ở Việt Nam nói riêng, gia đình
văn hóa mới nói chung ở nước ta hiện nay là vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết.
Đề tài: "Ảnh hưởng Đạo đức Nho giáo đến giáo dục đạo đức trong gia đình
ở Việt Nam hiện nay" do chúng tôi lựa chọn để làm đề tài luận án của mình
chính là sự định hướng tới mục đích nói trên.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo dục
đạo đức trong gia đình ở Việt Nam trong lịch sử và những vấn đề đặt ra từ


3
ảnh hưởng đó đến giáo dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay, luận
án đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo
đến giáo dục đạo đức trong gia đình, góp phần vào sự nghiệp xây dựng gia
đình văn hóa mới ở nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu nguồn gốc, nội dung đạo đức Nho giáo.
Thứ hai: Đánh giá thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến giáo
dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra.
Thứ ba: Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo
đến việc giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng đạo đức Nho giáo (cả mặt tích cực lẫn
tiêu cực) đến giáo dục đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến giáo
dục đạo đức trong gia đình Việt Nam hiện nay (nhưng số liệu điều tra, khảo
sát chủ yếu từ khi đổi mới đất nước đến nay).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức
gia đình. Đồng thời luận án có kế thừa những thành tựu đạt được của một số
công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án kết hợp sử dụng các phương pháp cụ


4
thể: phân tích tổng hợp, lôgíc - lịch sử, quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa,
đối chiếu so sánh, thống kê xã hội học...
5. Những đóng góp mới về khoa học
- Từ nguồn gốc và nội dung của đạo đức Nho giáo, luận án làm rõ đạo
đức Nho giáo Việt Nam và đạo đức trong gia đình theo quan niện Nho giáo
Việt Nam.
- Làm rõ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đến đạo đức trong gia đình ở
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục
đạo đức trong gia đình ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần tìm hiểu ảnh hưởng đạo đức Nho giáo đến đạo đức
trong gia đình ở Việt Nam hiện nay. Chỉ ra những khó khăn và thuận lợi trong
việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức
Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức trong gia đình, xây dựng gia đình mới
ở Việt Nam hiện nay.
Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch
định chủ trương, chính sách phát triển văn hóa con người Việt Nam, đặc biệt

là việc tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc góp phần xây
dựng gia đình văn hóa mới.
Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập
môn triết học nói chung và triết học phương Đông nói riêng, cũng như các
môn về khoa học xã hội. Luận án cũng là tài liệu quan trọng cho những ai
quan tâm đến đạo đức, Nho giáo và giáo dục đạo đức gia đình.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 11 tiết.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội ra đời cách đây hơn 2500 năm.
Sự tồn tại, phát triển của Nho giáo và những giá trị của Nho giáo cũng như
những mặt trái của Nho giáo luôn nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu
không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Cho đến nay, đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu về Nho giáo từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta có
thể khái quát lại các công trình nghiên cứu và phân chia thành các nhóm sau:
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHO GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC
NHO GIÁO

1.1.1. Những nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Vấn đề đạo đức nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng luôn được giới
nghiên cứu quan tâm và từ lâu đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, với
nhiều cách tiếp cận khác nhau trên thế giới.
Chẳng hạn bộ sách: "20 thế kỷ Nho học nghiên cứu đại hệ 21" của
Truyền Vĩnh, Hàn Chung Văn [200], là kết quả nghiên cứu từ Hội thảo khoa

học quốc tế với những nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu về kinh điển Nho giáo. Đây là chủ đề được hội
thảo bàn luận nhiều nhất. Bởi lẽ, trước khi nghiên cứu nội dung cơ bản của
Nho học cần phải nắm vững kinh điển của nó. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay, việc việc nghiên cứu Nho giáo không chỉ dừng lại ở trích dẫn kinh điển
mà còn ở những nhận định khách quan, khoa học và có tính thực tiễn cao hơn.
Nội dung chủ yếu của xu hướng này tập trung ở các bài viết về: Nghiên cứu
kinh điển Nho gia của Trương Đào, nghiên cứu khái quát và cụ thể từng nội
dung của Nho gia thời kỳ đầu và ảnh hưởng của nó đến Kinh học;… Nghiên
cứu Khổng Tử của Khổng Phàm Lĩnh đã đánh giá những giá trị, ảnh hưởng
của học thuyết Khổng Tử không chỉ ở xã hội Trung Quốc mà còn có một số


6
quốc gia trên thế giới; Nghiên cứu các học phái Nho gia của Lý Chiêu Cường
tập trung phân tích, so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa 8 phái của Nho
giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến văn hoá truyền thống Trung Quốc.
Thứ hai, nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế của Nho giáo
Công trình "Nghiên cứu tư tưởng chính trị Nho gia" của Vương Nhật Mỹ
[125] đã trình bày tư tưởng chính trị của Nho gia. Tác giả đã tổng kết và đưa
ra những giá trị của Nho giáo đang được ứng dụng trong thực tiễn xã hội
đương đại. Dương Âm Lâu chủ biên cuốn "Nghiên cứu tư tưởng kinh tế của
Nho gia" tập trung nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế của các bậc đại Nho
Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Tư Mã Thiên, Đổng Trọng
Thư, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu... Trong công trình này các tác giả đã
có những kiến giải về quản lý xã hội, quản lý giáo dục, quản lý kinh tế, quản
lý nghệ thuật, triết học chính trị, hay sự thích ứng của tư tưởng quản lý Nho
giáo với nền kinh tế thị trường
Thứ ba, những nghiên cứu tư tưởng giáo dục, luân lý đạo đức của Nho giáo
Tăng Chấn Vũ với công trình "Nghiên cứu tư tưởng luân lý của Nho gia"

[202]. Đây là công trình nghiên cứu những luân lý của Nho gia một cách tổng
quát. Từ luận lý tác giả đã nêu bật được những ảnh hưởng của Nho giáo đến
toàn xã hội Trung Quốc và ảnh hưởng của luân lý Nho gia đến xã hội Đông
Á, vai trò của luân lý Nho gia đối với sự phát triển kinh tế. Lý Đào Tường với
công trình "Nghiên cứu luân lý Nho gia" [186] đã tập trung nghiên cứu tư
tưởng giáo dục của các nhà Nho giáo. Công trình "Nghiên cứu sự truyền bá
Nho học" của tác giả Lưu Đức Tăng [146] đã nghiên cứu các vấn đề: Sự
truyền bá và phân hoá hay biến thể của Nho học; Nam học và Bắc học Nho
giáo; Văn hoá khu vực và các môn phái Lý học…
Thứ tư, những nghiên cứu Nho giáo trong tương quan của trục quan hệ
so sánh.
Đây là mảng đề tài được rất nhiều tác giả quan tâm. Tiêu biểu là công
trình: "Nghiên cứu Nho học Nhật Bản, Hàn Quốc" của Lưu Hậu Cầm [24].


7
Trong công trình này các tác giả đã nêu bật được những ảnh hưởng của Nho
giáo đến Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Cùng thể loại công trình này, tác
giả Lý Cảnh Minh, Đường Minh Quý đã đồng chủ biên hai công trình về Nho
giáo là "Nghiên cứu so sánh Nho giáo và Đạo giáo" [107] và "Nghiên cứu so
sánh Nho giáo và Phật giáo" [108]. Ngoài ra còn có các tác phẩm: "Nghiên
cứu tư tưởng sử học của Nho gia"; "Nghiên cứu tư tưởng tôn giáo của Nho
gia" trong cuốn: "Nghiên cứu tư tưởng triết học của Nho gia" của Tế Kim
Giang, Lý Kiến và Trương Tụng Chi [50]... Các công trình này đã nêu được
những điểm khác biệt của Nho giáo trên từng lĩnh vực đời sống xã hội so với
các học thuyết ngoài nó.
Thứ năm, những nghiên cứu về văn hoá trong Nho giáo
Về văn hóa trong Nho giáo các tác giả tập trung khai thác ở mảng Khổng
Tử và Hiến pháp, Nho giáo và Hiến pháp; Nho giáo với văn hoá truyền thống
của Trung Quốc hay tính cách của Nho gia và hạn chế trong cuộc sống hiện

đại. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình: "Nghiên cứu tư
tưởng văn hoá của Nho gia" của Dương Xuân Mai [106]; "Nghiên cứu tư
tưởng văn nghệ của Nho gia" của Triệu Lợi Dân [34].
Thứ sáu, nghiên cứu Nho giáo như là một thành tố chính trong "Giá trị
châu Á" tác động tới sự thành công của các nước Đông Á trong việc tổ chức
quản lý đời sống xã hội và phát triển kinh tế.
Các tác giả Tan Chwee Huat, Heungsik Park, Micheal T Rehg và Donggi
Lee đã luận bàn về các vấn đề như: "Nho giáo và việc xây dựng quốc gia ở
Singapore", "Sự ảnh hưởng của Đạo đức Nho giáo và Chủ nghĩa tập thể tới
mục đích thổi còi" hay "Nho giáo và nền tảng đạo đức của bộ máy quan liêu"
của H. Frederickson và nhà nghiên cứu D. Koehn với "Chữ Tín trong Nho
giáo và thực tiễn kinh doanh ở Trung Quốc"…
Bên cạnh những nghiên cức trên còn có nhiều công trình nghiên cứu về ý
nghĩa của Nho giáo đối với xã hội hiện đại. Tác phẩm: "Bình luận và giải
thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia" của tác giả Tào Cương [33] đã đề cập


8
đến phương pháp luận bình luận và giải thích giá trị hiện đại tư tưởng Nho gia
ở một số phương diện như tư tưởng nhân học; luân lý lý tưởng Nho gia và
kinh tế thị trường hiện đại; quan niệm đạo đức Nho gia và xây dựng đạo đức
hiện đại; quyền lợi và nghĩa vụ theo quan điểm Nho giáo…
Công trình nghiên cứu: "Văn hoá Nho gia và quản lý kinh tế hiện đại"
của của tác giả Đường Nhậm Ngũ [130] đã đề cập đến vai trò của văn hoá
Nho giáo đến tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước
Đông Nam Á; Nhân tố trong văn hoá Nho gia phù hợp với sự phát triển kinh tế;
Văn hoá Nho gia thích ứng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Công trình nghiên cứu "Nho gia truyền thống và tư tưởng nhân quyền,
dân chủ" của của các tác giả Trần Khải Trí và Trương Thọ Hoa [182]. Đây là
công trình tập hợp các bài viết của các tác giả Trung Quốc về tư tưởng Nho

gia với các vấn đề triết học chính trị hiện đại: nhân quyền, dân quyền, dân
chủ, và so sánh với xã hội phương Tây. Ở đây các tác giả cũng lấy tư tưởng
của Mạnh Tử về dân bản (dân vi bản) để phân tích, đề xuất mô hình xã hội
đương đại.
Tác giả Trương Hưng Phúc với công trình: "Văn hoá Nho gia và nghiên
cứu quản lý hiện đại" [135] đã đề cập đến những vấn đề lợi ích, chế độ, đào
tạo bồi dưỡng nhân tài, hiệu ứng tâm lý, giá trị hướng thượng... của Nho giáo
từ đó đề xuất, áp dụng những giá trị của Nho gia vào quản lý xã hội hiện đại.
Như vậy, có thể nói cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập đến hầu hết các lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đến
đời sống con người phương Đông trong lịch sử cũng như hiện tại. Đồng thời
nó phản ánh tính thời sự khoa học cấp bách mà ở mỗi nước đồng văn Trung
Hoa ngày nay phải tính đến trên con đường hội nhập và phát triển của mình.
Việc tìm hiểu những nội dung thiết thực liên quan đến đề tài luận án chắc
chắn giúp chúng tôi ngoài việc tham khảo những đánh giá của các học giả về
đạo đức gia đình, xã hội của Nho giáo, thiết nghĩ cũng cần có quan điểm riêng
của mình đối với việc nghiên cứu các vấn đề đó ở Việt Nam.


9
Về vấn đề đạo đức Nho giáo đã có một số công trình nghiên cứu như:
"Đạo Hiếu trong Nho gia" của tác giả Cao Vọng Chi [27] đã có những khảo
cứu, so sánh khá chi tiết về nội dung của Hiếu Kinh với đạo Hiếu trong Nho
gia, từ đó chỉ ra cơ sở xác lập, hoàn cảnh lịch sử và sự kế thừa tư tưởng đó
trong quá trình hình thành tư tưởng đạo Hiếu của Nho giáo. Tác giả còn phân
tích một cách sâu sắc những lời răn dạy của Nho giáo về đạo Hiếu đối với dân
chúng với giới tri thức và đặc biệt đối với phụ nữ. Đặc biệt trong chương 8 về
Đạo Hiếu trong Nho gia, tác giả đã nêu lên tầm ảnh hưởng của Nho giáo và
đạo đức Nho giáo đối với các nước láng giềng như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt
Nam. Đối với Việt Nam, tác giả đã có sự hiểu biết rất sâu sắc về lịch sử và phân

tích những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với Việt Nam như: các sắc lệnh
của vua ban về đạo Hiếu, về sự bắt buộc phải tuân thủ tục để tang ba năm do
Khổng Tử đề xuất, v.v. Phần cuối của cuốn sách, tác giả đã có những nghiên cứu
và so sánh đạo Hiếu trong Nho gia với Phật giáo, Đạo giáo và Thiên Chúa giáo.
Đây là công trình giúp chúng tôi tham khảo nhiều vấn đề liên quan đến quá trình
thực hiện đề tài, đặc biệt ở cách lý giải đạo Hiếu trong Nho gia.
1.1.2. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước
Vấn đề đạo đức Nho giáo được bàn rất nhiều qua các lăng kính khác nhau:
Tác giả Trần Trọng Kim trong tác phẩm Nho giáo, được Nxb Thông tin,
Hà Nội xuất bản năm 2003, đã trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản
của Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển. Đặc biệt nêu cao những
giá trị tích cực của Nho giáo trong việc đào tạo con người và ổn định trật tự
xã hội. Khi nói về cuốn Luận ngữ của Khổng Tử, ông đã viết:
Trong sách ấy, cùng một chữ nhân, chữ hiếu, chữ chính mà mỗi nơi
nói một khác, là vì cách lập giáo của Khổng Tử cứ tùy tư cách, hoặc
tùy sở đắc, sở thất của từng người mà dạy bảo, cho nên nghĩa không
đồng. Tuy hình thức thì không có trật tự, phân minh, nhưng văn từ
thì thật rõ, thật đúng, ý tứ rất sáng, rất gọn, mà câu nào cũng hàm
súc ung dung, đích đáng là lời dạy của thánh nhân [84, tr.171].


10
Tác phẩm "Không học đăng" của Phan Bội Châu [25] đã trình bày về sự
hình thành và phát triển Nho giáo từ Khổng Tử đến Khổng học thời Minh
Thanh, tác phẩm đề cập sâu rộng một số phạm trù trong học thuyết của Khổng
Tử như Nhân, Trí, Dũng... và bàn về Khổng học thời Lưỡng Hán Lục triều,
thời Tống và Minh Thanh.
Các tác giả của Nho giáo và Khổng học đăng đều có điểm chung là:
thông qua cách trình bày một số phạm trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo.
Trong tiến trình lịch sử của nó, nhìn nhận Nho giáo từ góc độ giá trị, cho rằng

Nho giáo không chỉ là một học thuyết triết học, mà còn là học thuyết chính trị
xã hội, đạo đức, ở đó dường như thâu thái đầy đủ những nội dung triết học
của toàn thế giới. Trong điều kiện thực dân Pháp bãi bỏ nền cổ học trên toàn
cõi An Nam (1919), sự bành trướng của văn hóa phương Tây vào Việt Nam
đương thời đã làm xuất hiện các quan điểm coi thường giá trị của các học
thuyết truyền thống, trong đó có Nho giáo. Hai ông đã trình bày khá hệ thống
nội dung tư tưởng của học thuyết này nhằm chứng minh sức sống trường tồn
của Nho giáo, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Tuy nhiên có nhiều đánh giá,
nhiều ý kiến mang yếu tố chủ quan, cá nhân.
Bộ sách về "Đại cương triết học Trung Quốc" của Giản Chi, Nguyễn
Hiến Lê [26] đã đề cập đến các phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo qua
một số phạm trù đạo đức như: nhân, trí, dũng, lễ, nghĩa, v.v. Đây là công trình
với dung lượng trang lớn, các tác giả đã tập trung phân tích các phạm trù đó ở
phương diện hệ thống để làm rõ mối quan hệ đạo đức gia đình - làng - nước.
Công trình "Nho giáo Trung Quốc" của Nguyễn Tôn Nhan [132], là bộ
sách nghiên cứu lịch sử Nho giáo một cách chi tiết, độ dày của cuốn sách lên
đến hơn 1600 trang. Đây là tác phẩm mà tác giả đã dành tâm huyết và có cách
nhìn mới mẻ, hệ thống về Nho giáo. Trên cơ sở trình bày lịch sử phát triển
của Nho giáo, tác giả đã phân chia sự hình thành phát triển Nho giáo thành
sáu giai đoạn từ Nho giáo sơ kỳ (hay còn gọi là Nho gia để phân biệt với các
phái ("gia") khác cho đến Nho giáo thời Minh Thanh. Đây là cách tiếp cận về


11
phân chia Nho giáo theo nghĩa phân biệt nó với Nho gia, một trong những học
thuyết chính trị - xã hội ra đời ở Trung Quốc thời cổ đại. Tuy nhiên, tác giả
không nói rõ Nho giáo là một tôn giáo trong sự phân biệt với Nho gia. Đây là
vấn đề được tranh luận từ lâu, song theo chúng tôi, Nho giáo với Nho gia về
thực chất là một, và nghĩa chữ "giáo" ở đây chỉ chủ yếu mang nội dung giáo
huấn, dù sau này Đổng Trọng Thư có đưa một số yếu tố tôn giáo thần bí vào

học thuyết Nho gia, rốt cục Nho giáo vẫn chưa đủ những tiếu chí cấu thành
tôn giáo.
Công trình "Lịch sử triết học phương Đông" của Doãn Chính [29] đã
trình bày một cách khá hệ thống nội dung tư tưởng của các học thuyết triết
học Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại, Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, trong
đó phần giới thiệu Nho giáo chiếm một dung lượng đáng kể. Tuy nhiên, dù số
lượng trang viết khá lớn, song với nội dung vô cùng phong phú của triết học
phương Đông, cuốn sách này cũng chỉ mang tính lược khảo những vấn đề cơ
bản của nền triết học này.
Một số tác giả khác đã làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo trên các
mặt: Chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa... Cao Xuân Huy với cuốn: "Tư
tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu" [65] đã luận giải khá
sâu sắc về chữ Nhân của Khổng Tử; "Khổng Tử và Luận ngữ" của Nguyễn
Hiến Lê [90]; "Nho giáo và đạo đức" của Vũ Khiêu [76]; "Nho học và Nho
học Việt Nam" của Nguyễn Tài Thư [174], "Khổng giáo phê bình tiểu luận"
của Đào Duy Anh [1]... là những tác phẩm đã chỉ ra những yếu tố tiêu cực
trong Nho giáo cần phải khắc phục, cũng như những ảnh hưởng tích cực của
Nho giáo cần được tiếp thu góp phần xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện
nay. Các tác giả đi sâu vào việc luận giải nguồn gốc của Nho giáo và những
chuẩn mực đạo đức của Nho giáo, từ đó làm rõ những ảnh hưởng của Nho
giáo ở nước ta trong lịch sử cũng như hiện tại.
Cuốn: "Ảnh hưởng của Đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản
lý của Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thế Kiệt [82] đã tập hợp các bài viết


12
bàn về đạo đức Nho giáo, ở đó các tác giả đi sâu phân tích nguồn gốc, bản
chất, đặc trưng của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức cán bộ
lãnh đạo quản lý nói riêng. Bài viết trong công trình này nhan đề: "Nho giáo Cơ sở của đạo đức phong kiến Trung Quốc" của tác giả Nguyễn Bằng Tường
[185] đã nhận định Nho giáo là cơ sở của đạo đức phong kiến và tư tưởng đạo

đức Nho giáo được đặt trên cơ sở của chủ nghĩa tiên nghiệm; quan điểm duy
tâm chủ quan về đạo đức, sự thống nhất tuyệt đối giữ "tâm" và "tính"; mục
đích tu dưỡng đạo đức không hướng vào cuộc sống đời thường; phương pháp
tu dưỡng có tính chất siêu hình, thoát ly cuộc đời. Bài viết khác nhan đề "Đạo
đức phong kiến Việt Nam - nguồn gốc và đặc trưng cơ bản" của tác giả Nguyễn
Tài Thư [175] đã bàn về nguồn gốc của chế độ phong kiến Việt Nam và đạo đức,
đặc trưng phong kiến Việt Nam. Còn bài viết: "Từ tư tưởng "tu thân" trong Nho
giáo suy nghĩ về vấn đề giáo dục cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay ở nước ta"
của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [83] đã đưa ra những nhận xét đúng về giá trị của
Nho giáo. Trong bài viết này, vấn đề Tu thân được tác giả xác nhận như một
biện pháp tu dưỡng đạo đức hiệu quả của Nho giáo với nhiều giá trị tích cực có
thể vận dụng và phát huy trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, từ quan điểm tu
thân, tác giả đưa ra những kinh nghiệm giáo dục đạo đức của Nho giáo để rèn
luyện bồi dưỡng đạo đức cách mạng, động viên tinh thần học tập của cán bộ,
đảng viên và nhân dân thực hiện mục tiêu chung của đất nước.
Bên cạnh các tác giả bàn về những ảnh hưởng có tính chất tích cực, lại
có những tác giả có quan điểm ngược lại, nhấn mạnh mặt tiêu cực của đạo
đức Nho giáo, chẳng hạn cuốn "Nho giáo xưa và nay" của Quang Đạm [40];
"Nho giáo tại Việt Nam" của Lê Sĩ Thắng [151]... Mặc dù có những kiến giải
mới về đạo đức Nho giáo như Tam cương, Ngũ thường, Ngũ luân... nhưng các
tác giả nặng về phê phán đạo đức Nho giáo, cho nó là khắt khe, một chiều, coi
khinh phụ nữ, phân biệt đẳng cấp, v.v.
Hội thảo "Nho học ở Việt Nam" của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện
Harvard - Yenching (Mỹ) [194] đã bàn thảo nhiều vấn đề như: Ảnh hưởng


13
của Nho giáo trong đời sống hiện đại, quy trình du nhập của Nho giáo vào
Việt Nam; tư tưởng Nho giáo trong thời phong kiến và ảnh hưởng của nó
trong xã hội đương đại, v.v. Trong Hội thảo này, các bản tham luận tập trung

vào việc làm rõ giá trị của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó, một số luận án cũng đề cập đến đạo đức Nho giáo, vấn đề
con người trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam như: "Ảnh
hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống" của
Trần Thị Hồng Thúy [168]; "Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ" của
Nguyễn Tài Thư [172]; "Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người
và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Nguyễn Thị Nga [126]... Các luận án này
đều tập trung bàn về vấn đề con người với tư cách là đối tượng của một học
thuyết với mục đích làm rõ cách thức thực hiện mục tiêu chính trị bằng đạo
đức, tức là lấy đạo đức để cảm hóa con người trong việc thiết lập và duy trì
trật tự xã hội.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Bình: "Học thuyết chính trị xã hội của
Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ
XIX)" [14] đã phân tích về các phạm trù nhân, lễ, chính danh, đến xã hội lý
tưởng, đến chuẩn mực đạo đức... Từ đó tác giả đề cập những chuẩn mực đạo
đức đó của chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Mai: "Ảnh hưởng của đạo đức
Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay" [105] đã trình bày được nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo và nét
riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam. Phân tích thực trạng ảnh hưởng của
đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ quản lý hiện nay ở nước ta, tác giả
đã đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát huy những mặt tích cực và hạn chế
mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đạo đức cho cán bộ
lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.


14
Luận án tiến sĩ Triết học về: "Đạo đức trung hiếu trong Nho giáo và ý

nghĩa của nó đối với việc giáo dục ý thức trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay"
của Trần Thị Lan Hương [66] đã nêu lên nguồn gốc hình thành tư tưởng đạo
đức trung hiếu, sự phát triển của trung hiếu trong tiến trình lịch sử phát triển
của Nho giáo để từ đó tác giả nêu lên ý nghĩa của nó đến việc giáo dục ý thức
trách nhiệm ở Việt Nam hiện nay.
Một số luận văn Thạc sĩ liên quan đến đề tài của luận án chúng tôi như:
"Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính, Danh, trong tác phẩm Luận Ngữ của Khổng Tử
và vận dụng vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay" của
Nguyễn Thị Bình [15]; "Từ Trung - Hiếu của Khổng Tử đến tư tưởng Trung Hiếu của Hồ Chí Minh" của Trần Thị Hồng Minh [120]; "Quan niệm của Nho
giáo về trung-hiếu-lễ. Ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức con người
Việt Nam" của Phạm Mạnh Toàn [177] đã trình bày phạm trù trung, hiếu, lễ
của Nho giáo, ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của con người Việt
Nam trong lịch sử và hiện tại, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
khai thác có hiệu quả yếu tố tích cực loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong điều
kiện nước ta hiện nay.
Ngoài ra có rất nhiều các bài viết, bài báo đăng tải trên các tạp chí, sách,
đã đề cập sâu và rộng về Nho giáo chủ yếu trên bình diện chính trị, đạo đức,
xã hội, triết lý...
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN GIA ĐÌNH VÀ ĐẠO ĐỨC
GIA ĐÌNH

Đây là mảng đề tài hết sức quan trọng trong đời sống xã hội nói chung
và mỗi cá nhân nói riêng được đề cập dưới nhiều góc độ nghiên cứu liên
ngành và chuyên ngành như: Triết học, xã hội học, tâm lý học, giáo dục học...
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay thì chủ đề này được
nhiều tác giả đặc biệt quan tâm nghiên cứu, cụ thể:
Tác giả Trần Thị Kim Xuyến: "Gia đình và những vấn đề của gia đình
hiện đại" [205] đã chỉ rõ vai trò, vị trí của gia đình trong xã hội và đối với



15
mỗi cá nhân, đặc biệt là mặt đạo đức. Trong công trình này tác giả đã đi sâu
phân tích sự biến đổi của gia đình cùng với sự biến đổi của xã hội đương đại.
Đề tài: "Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách
con người Việt Nam" của tác giả Lê Thi [158] từ việc phân tích giá trị to lớn
của gia đình các tác giả đã đi đến khẳng định vai trò của gia đình trong việc
hình thành nhân cách đạo đức của con người. Đây là công trình tham khảo tốt
đối với việc thực hiện đề tài của luận án này.
Luận án tiến sĩ: "Vai trò đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam
trong điều kiện đổi mới hiện nay" của tác giả Lê Thị Thủy [169] đã phân tích
vai trò to lớn của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt
Nam. Tuy nhiên, sự tác động của đạo đức tới sự hình thành nhân cách theo cơ
chế nào, cần phải vận dụng những phương pháp nào, đạo đức học hay tâm lý
học thì chưa thấy tác giả đề cập.
Luận án tiến sĩ: "Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ" của
tác giả Nghiêm Sĩ Liêm [92] đã làm rõ các khái niệm, đặc điểm, nội dung, của
việc giáo dục gia đình cho thế hệ trẻ hiện nay, đồng thời xác định những yếu
tố ảnh hưởng đến đạo đức gia đình và nêu lên thực trạng của giáo dục gia
đình đối với thế hệ trẻ hiện nay. Theo chúng tôi, luận án cần phải đề cập nhiều
hơn đến mô hình gia đình truyền thống, ở đó các yếu tố đạo đức chịu ảnh
hưởng khá đậm nét của Nho giáo.
Công trình: "Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới" của
tác giả Lê Thi [155] đã nghiên cứu vấn đề gia đình và sự biến đổi của nó theo
các xu hướng khác nhau, cả những mặt tích cực cũng như tiêu cực. Khẳng
định gia đình là tế bào của xã hội, nơi ươm mầm của một đời người, cho nên
theo tác giả công trình, dù bất luận trong trường hợp nào thì việc phát huy
những mặt tích cực và hạn chế tiêu cực là hết sức cần thiết đối với việc giáo
dục thế hệ trẻ ngay từ trong môi trường gia đình. Đó là nhận định hết sức
đúng đắn, bởi lẽ Nho giáo lấy việc giáo dục đạo đức từ tế bào xã hội là gia
đình, sau đó mới mở rộng ra ngoài xã hội với tư cách là gia đình lớn.



16
Công trình: "Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp"
của tác giả Nguyễn Duy Quý [141] đã nghiên cứu về vấn đề đạo đức xã hội,
đức trị và pháp trị... Đặc biệt, tác giả dành hẳn một chương bàn về đạo đức
trong gia đình, về những biến đổi của đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế
thị trường và đưa ra giải pháp xây dựng đạo đức hiện nay. Trong công trình
này, theo chúng tôi vấn đề biện chứng giữa đạo đức và cơ chế của nền kinh tế
thị trường cần được quan tâm phân tích sâu hơn.
Công trình: "Văn hóa gia đình và sự hình thành xã hội" của nhiều tác giả
[133], các tác giả đã phân tích làm rõ gia đình và đạo đức gia đình trong điều
kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Tác phẩm: "Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam
hiện nay" của tác giả Lê Thi [157] đã làm rõ văn hóa ứng xử, tổ chức cuộc
sống gia đình cũng như gia đình trẻ và quan niệm về tự do và trách nhiệm
trong hôn nhân thời hiện đại. Tác giả cho rằng cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, đất nước hội nhập với thế giới, bên cạnh những hiện tượng
tiêu cực phát sinh thâm nhập vào đời sống người dân như đề cao sức mạnh
của đồng tiền, của quyền lực, chủ nghĩa ích kỷ cá nhân, chủ nghĩa tự do tuyệt
đối phát triển, nhiều tệ nạn xã hội làm nhức nhối dư luận xã hội. Từ đó tác giả
đã đưa ra một số nội dung nhằm thích ứng gia đình trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công trình: "Gia đình học" của Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý [72]
được biên soạn công phu có hệ thống gồm 5 phần và 22 chương dưới dạng
giáo trình giảng dạy. Các tác giả đã làm rõ khái niệm gia đình, vị trí vai trò và
chức năng của gia đình, gia đình truyền thống, gia đình Việt Nam trước
những thách thức của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Từ đó các tác giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của gia
đình trong xã hội hiện đại. Đây là công trình tham khảo có giá trị đối với đề

tài chúng tôi khi đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về gia đình.
Công trình: "Văn hóa gia đình Việt Nam" của tác giả Vũ Ngọc Khánh
[73] đã khẳng định gia đình là vấn đề lớn, phạm vi nghiên cứu rộng: Đạo đức


17
luân lý, hôn nhân, giáo dục trẻ em, giới tính, tâm lý tình cảm của từng thành
viên, quan hệ cha con, chồng vợ... Từ các tập tục của gia đình Việt Nam như:
gia lễ, gia pháp, gia phong... tác giả đã chỉ rõ sự ảnh hưởng của Nho giáo,
Phật giáo, Thiên chúa giáo đối với đạo đức gia đình ở nước ta từ xưa đến nay.
Công trình: "Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường" của tác giả
Nguyễn Thị Khoa [80] đã đưa ra khái niệm đạo đức gia đình và sự biến đổi
của đạo đức gia đình trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay. Từ đó tác giả làm rõ nguyên nhân của một số lệch chuẩn về đạo đức và
việc xây dựng đạo đức gia đình tiến bộ, lành mạnh trong điều kiện mới.
Công trình: "Đạo nghĩa trong gia đình" của Phạm Côn Sơn [142]; "Nề
nếp gia phong" của Phạm Côn Sơn [143] đã chỉ ra các yếu tố cơ bản của đạo
đức gia đình truyền thống Việt Nam: gia phong, gia giáo, gia lễ, gia huấn, các
quan điểm về hiếu nghĩa, gia tộc, kỷ cương nề nếp... Các tác giả đã phân tích
làm rõ các chuẩn mực đạo đức trong các mỗi quan hệ gia đình và chỉ ra vai
trò quan trọng của đạo đức gia đình trong việc hình thành nhân cách của con
người. Từ đó khẳng định gia đình là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng, ươm mầm
về mặt đạo đức của con người.
Công trình: "Đạo trị gia" của tác giả Trí Tuệ [184] đã khẳng định sự
phát triển, tiến bộ xã hội cũng như sự hòa hợp của toàn xã hội đều bắt nguồn
từ sự hòa hợp của các gia đình. Từ sự nhìn nhận cuộc đời của con người phần
lớn gắn bó với gia đình, chịu ảnh hưởng của văn hóa, đạo đức gia đình. Vì
vậy, theo tác giả, đạo đức gia đình vô cùng quan trọng và cần thiết đến sự
trưởng thành của mỗi con người.
Luận án tiến sĩ: "Đạo đức gia đình trong điều kiện kính tế thị trường ở

nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Thọ [159] đã phân tích tác động
của kinh tế thị trường đối với đạo đức gia đình, từ đó đề xuất một số giải pháp
định hướng trong việc xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay. Luận án
đã được xuất bản thành sách dưới nhan đề: "Xây dựng đạo đức gia đình ở
nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.


18
Công trình: "Vai trò của gia đình đối với sự phát triển nguồn nhân lực
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hồ Chí Minh" của
tác giả Hà Văn Tác [145] đã làm rõ khái niệm gia đình và vai trò của gia đình
trong việc phát triển nguồn lực của đất nước mà cụ thể ở đây là Thành phố Hồ
Chí Minh.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC NHO
GIÁO VỚI GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM

Công trình nghiên cứu: "Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt
Nam" của tác giả Trần Đình Hượu [69] đã chỉ ra: Gia đình là một tổ chức rất
xa xưa, bắt nguồn từ quan hệ nam nữ, từ việc sinh đẻ con cái rất tự nhiên, về
sau trong lịch sử mới thay đổi thích ứng với phương thức sản xuất, với cơ chế
chính trị - xã hội, với nền văn hóa… Trên cơ sở đó, tác giả phân tích nguồn
gốc ảnh hưởng của Nho giáo đối với Việt Nam và khẳng định Nho giáo tuy
đến sau nhưng sớm thành nền tảng của hệ tư tưởng chính thống: Nho giáo gây
ảnh hưởng theo cách toàn bộ từ trên xuống tức là bằng con đường Nhà nước
đi vào xã hội mà đi vào từng gia đình. Ảnh hưởng rất sâu sắc vì không chỉ
thông qua việc du nhập một thể chế chính trị, những hình thức văn hóa mà
qua cả một cơ chế kinh tế, một quan hệ sản xuất. Tác giả cho rằng, với việc
cai trị của phương Bắc hơn mười thế kỷ, Nho giáo được truyền bá liên tục,
ngày càng thấm sâu vào cuộc sống càng ảnh hưởng nhiều đến tổ chức gia
đình Việt Nam, từ nguyên tắc chuẩn mực đạo đức quy định mối quan hệ giữa

các thành viên trong gia đình cho đến cách ứng xử đạo đức của con người khi
bước vào môi trường xã hội... Công trình cho chúng ta một cách nhìn tương
đối đầy đủ về vấn đề giáo dục đạo đức gia đình với tư cách là một đối tượng
nghiên cứu của văn hóa gia đình.
Công trình nghiên cứu: "Nho giáo và gia đình" của tác giả Vũ Khiêu
[77] đã làm rõ các vấn đề về gia đình, đặc biệt là gia đình truyền thống ở Việt
Nam. Trong công trình đó, tác giả đã phân tích các quy phạm đạo đức Nho
giáo, giáo dục đạo đức trong gia đình thông qua ba mối quan hệ cơ bản quan


19
hệ cha - con, quan hệ anh - em, quan hệ vợ - chồng…, Tác giả cũng chỉ rõ,
với quan niệm đạo đức Nho giáo có hạn chế kìm nén con người, nhất là người
phụ nữ là người chịu những ảnh hưởng thiệt thòi nhất, đau khổ nhất do chế độ
hà khắc đem lại. Tác giả cũng chỉ ra vấn đề kế thừa giá trị đạo đức Nho giáo
của những người con đối với cha mẹ, em đối với anh, vợ đối với chồng.
Tác phẩm: "Việt Nam phong tục" của Phan Kế Bính [17] đã nghiên cứu
công phu có 3 thiên, trong đó ở thiên thứ nhất tác giả dành 3 chương nói về
mối quan hệ trong gia đình: Chương 1: cha mẹ với con, chương 2: anh em chị
em, chương 14: vợ chồng. Từ phong tục của người Việt bắt nguồn từ tư tưởng
Nho giáo Phan Kế Bính đã nêu bật những tư tưởng tốt đẹp của dân tộc.
Luận văn thạc sĩ: "Quan niện của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của
nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay" của Đặng Thị Hồng
Hạnh [56] đã tìm hiểu một cách hệ thống quan niện Nho giáo về gia đình. Tác
giả cũng làm rõ những nội dung cơ bản của Nho giáo về gia đình: Tôn ti trật
tự trong gia đình; Gia đạo và các chuẩn mực đạo đức; đặc biệt tác giả cũng
làm rõ ba mối quan hệ trong gia đình: đạo cha con, đạo anh em, đạo vợ chồng
để từ đó đi sâu phân tích các quan niện để thấy được những hạn chế cũng như
tích cực của nó. Đánh giá những ảnh hưởng của quan niện Nho giáo đối với
gia đình truyền thống Việt Nam trong lịch sử, từ đó chỉ ra được ý nghĩa của

việc phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của Nho giáo về giáo dục
đạo đức trong gia đình đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Tác phẩm: "Nho giáo và phát triển ở Việt Nam" của tác giả Vũ Khiêu
[79] đã bàn đến sự ra đời và các bước thăng trầm của Nho giáo cũng như sự
du nhập của Nho giáo vào Việt Nam. Đặc biệt ở tác phẩm này tác giả dành
hẳn một chương bàn về vấn đề Nho giáo trong gia đình ở Việt Nam ngày nay.
Ở chương này, tác giả khẳng định: "trong học thuyết Nho giáo, gia đình là
một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung thâm thúy, ý nghĩa sâu xa có
nhiều liên quan ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức và cuộc sống
con người" [79, tr.139]. Nho giáo khẳng định sự giáo dục từ trong gia đình có


20
tác động quan trọng, mạnh mẽ đến thành công của việc trị nước. Chính vì
vậy, có thể nói, đây là học thuyết chủ trương xây dựng những quan hệ chặt
chẽ trong gia đình để phổ cập các mối quan hệ đó trong toàn xã hội mà những
chuẩn mực đạo đức được coi là chủ đạo. Từ những giáo lý đạo đức Nho giáo
về gia đình, tác giả khẳng định Nho giáo sẽ đem lại cho chúng ta những điều
bổ ích. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng, chúng ta không thể bê nguyên xi mô
hình của nước này hay nước khác về gia đình mà phải có sự thay đổi để phù
hợp với hoàn cảnh của đất nước và con người Việt Nam.
Công trình nghiên cứu: "Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam" của Phan
Đại Doãn [35] đã phác thảo lịch sử Nho giáo Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu
thế kỷ XX, tác giả dành hẳn một phần bàn về Nho giáo và gia đình truyền
thống Việt Nam. Ở phần này tác giả làm rõ ảnh hưởng Nho giáo đối với gia
đình truyền thống Việt Nam trên các vấn đề: Nhà nước và gia đình; Làng xã
với gia đình và Dòng họ với gia đình. Ở phương diện Nhà nước và gia đình
tác giả cho rằng, Nhà nước pháp luật hóa những quan niệm hiếu nghĩa. Từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XX các nhà nước phong kiến Lê, Nguyễn đều lấy Nho giáo
làm công cụ, tư tưởng chi phối xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Sự chi

phối của Nho giáo được thể hiện khá rõ nét trong mối quan hệ giữa hương
ước và gia đình, bởi lẽ làng Việt Nam là một thực thể liên kết các gia đình khá
chặt chẽ qua nhiều sợi dây ràng buộc mà trước hết là phong tục, tập quán vốn
chưa được hệ thống hóa thành văn, thì hương ước là bước tiến quan trọng của
một cộng đồng xác định trong việc qui định và điều chỉnh hành vi của cá
nhân, gia đình và gia tộc trong đời sống hiện thực. Làng xã cũng góp phần
xây dựng kỷ cương gia đình theo quan niệm hiếu và quy định nhiều điều liên
đới trách nhiệm để củng cố dòng họ... Công trình này đã gợi mở nhiều hướng
tiếp cận đến gia đình, đặc biệt là đạo đức ứng xử vốn mang đậm dấu ấn tự
nhiên, được nâng lên tầm văn hóa ứng xử.
Công trình: "Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội" của Trường Lưu [100]
đã bàn nhiều đến nền tảng của văn hóa đạo đức qua một số lĩnh vực. Trong đó


21
các tác giả đã dành hẳn một chương bàn về giáo dục đạo đức trong gia đình
liên quan đến gia phong, gia giáo, gia pháp, gia lễ. Trên cơ sở đạo đức của
Nho giáo các tác giả đã đưa ra các chuẩn mực về đạo đức gia đình.
Tác phẩm: "Nho giáo với văn hóa Việt Nam" của tác giả Nguyễn Đăng
Duy [38] đã nghiên cứu về Nho giáo từ tiếp cận văn hóa học, nhằm làm rõ
ảnh hưởng của Nho giáo với văn hóa Việt Nam, cả những tích cực, tiêu cực
trong đó có văn hóa gia đình. Tác giả khẳng định: Ảnh hưởng đến gia đình
Việt Nam là quan niệm gia đình Nho giáo, đó là gia đình phụ quyền gia
trưởng, nhằm củng cố chế độ phong kiến. Trong gia đình Nho giáo, người đàn
ông được đề cao, còn người phụ nữ chỉ là cái bóng, "tam tòng" (tại gia tòng
phụ, xuất gía tòng phu, phu tử tòng tử) tức là người con gái khi ở nhà phải
nghe theo lời cha, làm theo lời cha, khi về nhà chồng phải kính nhường, giữ
mình cho khéo, không được trái ý chồng. Còn chuẩn mực "tứ đức" (công,
dung, ngôn, hạnh) thì đòi hỏi ở người con gái lúc nào cũng phải có. Trong
quan niệm về đạo đức gia đình của Nho giáo thì trinh tiết của người phụ nữ

luôn được đề cao. Người đàn ông có thể lấy năm thê bảy thiếp, nhưng người
đàn bà thì không thể và chỉ có một chồng.
Công trình nghiên cứu: "Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng
gia đình mới ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Minh Anh [4] đã khẳng định
gia đình có vị trí quan trọng trong sự ổn định của xã hội. Nho giáo quy định
chặt chẽ những hành vi ứng xử và giao tiếp của mỗi thành viên trong gia đình
và danh phận mỗi người. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra rằng, nếu khắc phục
những yếu tố bảo thủ, mất dân chủ trong Nho giáo thì cho đến nay, các yếu tố
tích cực của nó vẫn còn có giá trị, thậm chí có những nội dung mang tính giá
trị phổ biến toàn nhân loại. Do đó, nếu chúng ta biết kế thừa những tư tưởng
tích cực của Nho giáo về gia đình trong việc xây dựng gia đình mới ở Việt
Nam hiện nay thì việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa sẽ hoàn toàn khả thi. Tác giả còn cho rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội
đều có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để bảo


×