SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA IV
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG ATLAT ĐỊA LÍ VIỆT NAM VÀ LÁT CẮT
TỪ TÂY SANG ĐÔNG ( HÌNH 35.1) ĐỂ HƯỚNG
DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU BÀI 35 “VẤN ĐỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - Xà HỘI Ở BẮC TRUNG BỘ ”ĐỊA LÍ 12 CƠ BẢN .
Người thực hiện: Nguyễn Thị Nhung
Chức vụ :
Giáo viên
SKKN thuộc môn : Địa lí
THANH HÓA NĂM 2017
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Việc dạy học địa lí ở trường phổ thông hiện nay là một quá trình sư phạm phức
tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh. Những hoạt
động đó nhằm mục đích: học sinh nắm vững tri thức địa lí và phát triển tư duy
địa lí. Do dạy học địa lí là một quá trình rất phức tạp nên đòi hỏi người giáo viên
cần có một phương pháp dạy học đúng đắn, khoa học và linh hoạt mới có thể đạt
được mục đích dạy học.
Có nhiều quan niệm khác nhau về phương pháp dạy học địa lí. Có quan
niệm cho rằng: chỉ cần có những tri thức địa lí sâu rộng là có thể dạy học địa lí.
Ý kiến khác cho rằng phương pháp dạy học địa lí chỉ là phương tiện, thủ thuật
của người thầy để cung cấp kiến thức cho học sinh. Chỉ cần có kiến thức địa lí
vững chắc, cứ dạy theo sách giáo khoa không cần phải có những tư tưởng,
phương pháp giáo dục...
Những quan điểm trên rất phiến diện và sai lầm. Về mặt lí luận, nói đến
phương pháp là nói đến đối tượng cần tác động, làm biến đổi đối tượng cho phù
hợp với mục đích của sự nghiệp giáo dục. Không hiểu được quy luật vận động
của đối tượng thì không thể có phương pháp, cách thức tác động đến đối tượng
đó. Một phương pháp được coi là khoa học khi nó tác động đúng vào đối tượng
phù hợp với quy luật vận động của đối tượng.
Nói đến phương pháp dạy học là nói đến các yếu tố cấu thành: mục đích,
nội dung, phương pháp dạy học. Các yếu tố này có tác động biện chứng với
nhau. Mục đích và nội dung tác động phương pháp dạy học và phương pháp dạy
học lại tác động trở lại giúp chúng ta thực hiện tốt nội dung và đạt được mục
đích dạy học. Khoa học dạy học địa lí đã ra đời dựa trên cơ sở nghiên cứu quy
luật nhận thức của đối tượng và bản chất của nhận thức đó là đi từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Do đó để có
thể truyền thụ một cách tốt nhất những kiến thức địa lí đến học sinh thì chúng tanhững người giáo dục cần phải có phương pháp dạy học riêng của mình,vì mỗi
đối tượng có một cách tiếp thu, lĩnh hội tri thức riêng. Vì thế giáo viên cần linh
hoạt, có những tri thức về quy luật vận động nội tại của đối tượng trước khi xác
định phương pháp, tức là phương pháp có chủ thể và khách thể, phải xuất phát
từ việc nắm vững quy luật vận động của đối tượng ,quy luật nhận thức của học
sinh để có tư tưởng giáo dục và dạy học đúng đắn chỉ đạo. Phải nắm vững và
vận dụng một cách linh hoạt và thành thạo kĩ năng, kĩ xảo và phương pháp dạy
học phải dựa trên gốc rễ sâu bền là khoa học và thực tiễn. [ 4 ]
Phương pháp dạy học địa lí cũng đòi hỏi những kinh nghiệm dạy học
cũng như năng lực lao động sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp dạy
học của người thầy và cải tiến phương pháp tiếp cận, lĩnh hội của học sinh. Hay
nói khác đi, phương pháp dạy học còn là một nghệ thuật của người thầy.
Trong phương pháp dạy học có hai hoạt động: dạy và học, do hai chủ thể
đảm nhiệm. Hai hoạt động này có tác động biện chứng với nhau.Thầy đóng vai
trò chủ đạo tổ chức, hướng dẫn; trò có vai trò tích cực chủ động trong quá trình
thi công lĩnh hội tri thức xã hội từ thầy. Nhiệm vụ của phương pháp dạy học địa
lí là nghiên cứu và phát hiện ra những quy luật của quá trình dạy học địa lí xác
định nội dung, hình thức tổ chức và phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc
trưng bộ môn, tâm lí lứa tuổi học sinh và mục tiêu đào tạo của nhà trường. [4 ]
Với khóa trình địa lí khối 12 hiện hành,chưong trình địa lí bao gồm cả
địa lí tự nhiên, địa lí dân cư, địa lí các ngành kinh tế, địa lí các vùng kinh tế, địa
lí địa phương …..Với lượng kiến thức rất nhiều cùng với việc thay đổi hình
thức thi từ tự luận sang trắc nghiệm nên việc học tập địa lí đối với học sinh
cuối cấp lại càng khó khăn hơn.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học phần địa lí các vùng kinh tế thuộc khoá
trình địa lí lớp 12 , tôi đã rút ra một số phương pháp dạy học địa lí để học sinh
có thể hiểu những kiến thức địa lí một cách hiệu quả nhưng khắc sâu nhất ,có
thể vận dụng các kiến thức địa lí để phối hợp trong học tập các môn học khác
cũng như áp dụng những kiến thức địa lí trong thực tiễn cuộc sống.
Một trong những phương pháp mà tôi đã và đang sử dụng trong dạy học
phần địa lí các vùng kinh tế này là: Sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam để có thể
đơn giản hoá những kiến thức địa lí được coi là khó học, khó nhớ đối với học
sinh hiện nay. Đây là một phương pháp đặc trưng trong địa lí học nhưng hiện tại
chưa có tài liệu nghiên cứu nào sâu vào vấn đề cho một vùng kinh tế nào đó .
Với mong muốn học sinh sẽ hứng thú hơn với môn học địa lí , chủ động trong
việc lĩnh hội những tri thức địa lí của các vùng kinh tế ở đất nước mình đặc biệt
là tại vùng mình sinh sống , tôi đã mạnh dạn chọn đề tài :
Sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam và lát cắt từ Tây sang Đông ( hình 35.1) để
hướng dẫn học sinh tìm hiểu Bài 35 “ Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở
Bắc Trung Bộ ” – Địa lí 12 ban cơ bản .
1. 2. Mục đích ngiên cứu .
Mục đích của đề tài là nhằm phát tiển tư duy địa lí , khơi dậy tính chủ
động và sáng tạo của học sinh trong qúa trình lĩnh hội tri thức địa lí . Đây là mục
đích lớn nhất của phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Đồng thời khi nghiên cứu đề tài này tôi còn có mong muốn giúp các em
hiểu hơn về địa phương . Từ đó , bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm tốt đẹp
nhất về quê hương đất nước .
1.3 . Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này sẽ nghiên cứu , tổng kết những vấn đề phát triển kinh tế - xã
hội ở vùng Bắc Trung Bộ , đó là : Vấn đề hình thành cơ cấu nông – lâm – ngư
nghiệp ; Vấn đề hình thành cơ cấu công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông vận tải .
1.4. Phương pháp nghiên cứu .
Để đề tài nghiên cứu đem lại hiệu quả cao trong quá trình tìm hiểu khám
phá , phải có sự đan xen của nhiều phương pháp khác nhau sao cho phù hợp .
Song đối với đề tài này tôi sử dụng phương pháp chủ đạo là : Phương pháp sử
dụng bản đồ , sử dụng Atlat , phân tích tổng hợp , phân tích sơ đồ , hình ảnh ...
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 .Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm .
Như đã trình bày, dạy học địa lí là một quá trình phức tạp, phải dựa trên
những quy luật của nhận thức, phù hợp với từng bài học, từng lứa tuổi, tâm sinh
lí ... học sinh. Dựa trên nguyên tắc này người thầy mới có thể đưa ra phương
pháp dạy học đúng đắn, từ đó mới nâng cao được hiệu quả trong dạy học địa lí .
Địa lí các vùng kinh tế là một trong ba vấn đề chủ yếu của Địa lí Việt
Nam. Trong đổi mới phương pháp dạy học chúng ta không nên tập trung cung
cấp kiến thức một chiều mà quan trọng hơn hết là gợi mở các vấn đề của bài
học thông qua việc sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam để học sinh phát huy năng lực
tư duy, đảm bảo tính tự lực ,vận dụng kiến thức đã học và đánh giá. Trong khuôn
khổ của nội dung Địa lí các vùng kinh tế nói chung và bài 35 “ Vấn đề phát
triển kinh tế - xã hội ở Bắc Trung Bộ ” – Địa lí 12 ban cơ bản nói riêng tôi
xin đưa ra các nội dung chính mà trong 1 tiết học giáo viên và học sinh cần phải
giải quyết thông qua sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam và hình 35.1 ( sách giáo
khoa địa lí 12 cơ bản ) .
* Thứ nhất: Khái quát chung
Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ có diện tích tự nhiên tương đối lớn so với các
vùng trong nước , vùng gồm 6 tỉnh . Dãy núi Bạch Mã được coi là ranh giới tự
nhiên giữa Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ . Vùng có tài nguyên
thiên nhiên khá phong phú , có khả năng phát triển nền kinh tế nhiều ngành .
Nếu như toàn dải duyên hải miền Trung là cầu nối giữa hai cực phát triển của
đất nước là Đồng Bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ , thì Bắc Trung Bộ kề liền
Đồng Bằng Sông Hồng trong quá trình phát triển tạo điều kiện thuận lợi nhất
định để phát triển nền kinh tế mở . Một số cảng biển và các tuyến đường bộ chạy
theo hướng đông – tây mở lối giao lưu với Lào và Đông Bắc Thái Lan .[1] , [2 ]
Tuy nhiên đây là vùng gặp nhiều khó khăn do thiên tai đặc biệt là bão và hậu
quả nặng nề do chiến tranh gây ra .
* Thứ hai : Hình thành cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp .
Đây là vùng lãnh thổ dài và hẹp ngang . Ở hàng loạt các huyện , trên một bề
ngang chỉ vài chục km theo chiều Đông – Tây ta đã đi từ vùng bờ biển qua vùng
đồng bằng hẹp duyên hải , vượt qua vùng đồi chuyển tiếp hẹp và tới vùng núi
thực sự ở phía tây . Dọc theo lát cắt ngang của lãnh thổ như thế , chúng ta có thể
chứng kiến những thay đổi của mô hình kết hợp nông – ngư nghiệp hay nông –
lâm – ngư nghiệp từ vùng ven biển , đồng bằng tới mô hình kết hợp nông - lâm
nghiệp ở vùng trung du , miền núi .[ 2 ]
Việc phát triển lâm nghiệp vừa cho phép khai thác thế mạnh về tài nguyên
rừng , vừa cho phép bảo vệ tài nguyên đất , điều hòa chế độ nước ( nhờ khoanh
nuôi , bảo vệ rừng ) của các sông miền Trung ngắn và dốc , vốn có thủy chế rất
thất thường .
Việc phát triển mô hình nông – lâm kết hợp ở vùng trung du không những
giúp sử dụng hợp lí tài nguyên , mà còn tạo ra thu nhập cho nhân dân , phát triển
các cơ sở kinh tế ở vùng trung du .
Việc phát triển rừng ngập mặn , rừng chắn gió , chắn cát vừa tạo điều kiện
bảo vệ bờ biển , ngăn chặn nạn cát bay , cát chảy , vừa tạo môi trường cho các
loài thủy sinh và nuôi rtồng thủy sản nước lợ , nước mặn . [ 2 ]
* Thứ ba: Hình thành cơ cấu công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải .
Vùng có nhiều nguồn tài nguyên để phát triển công nghiệp trên cơ sở đó
sẽ hình thành các ngành công nghiệp trọng điểm và các trung tâm công nghiệp
chuyên môn hóa .
Việc hiện đại hóa và phát triển các tuyến giao thông Bắc – Nam ( Quốc
lộ 1 , đường sắt Thống Nhất , dự án đường Hồ Chí Minh ) , trong đó có hầm
đường bộ qua đèo Hải Vân , phát triển các tuyến đường ngang , các sân bay , đi
đôi với việc mở các cảng biển và các cửa khẩu dọc biên giới Việt - Lào tạo thế
mở cửa nền kinh tế và làm thay đổi quan trọng sự phân công lao động theo lãnh
thổ . [2]
2.2 .Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm .
Hiện nay, việc dạy và học về vấn đề các vùng kinh tế nói chung và bài 35
“Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Trung Bộ ” nói riêng là cả một quá
trình phức tạp và khó khăn. Do lượng kiến thức nhiều ( mặc dù có giảm tải ở
mục khái quát chung ) song thời gian hạn chế, lại có nhiều vấn đề khác nhau
nhưng bắt buộc học sinh cần nhớ ... Do đó nếu thầy không đổi mới phương pháp
dạy học, không sử dụng Atlat , không sử dụng sơ đồ hình 35.1 trong bài để
hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài thì trong thời lượng 1 tiết học thầy và trò không
thể nào giải quyết hết nội dung của bài học cũng như rút ra bài học và liên hệ
thực tế.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam , sơ đồ
hình 35.1 trong bài và kết hợp với xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề , gợi
mở, giải quyết vấn đề phần nào tháo gỡ những khó khăn trong dạy và học bài
35“Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Trung Bộ ” hiện nay.
2.3 .Giải pháp và tổ chức thực hiện
Căn cứ vào mục đích, nội dung của bài học, tôi đã sử dụng Atlat Địa lí
Việt Nam , sơ đồ hình 35.1 trong bài để hướng dẫn học sinh tìm hiểu “ Vấn
đề phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Trung Bộ “ như sau:
Mục 1. Khái quát chung .
Khi giảng phần Khái quát chung , giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng
Atlat trang bản đồ Hành chính Việt Nam và trang Các miền Địa lí tự nhiên cùng
kết hợp với sử dụng kênh hình 35.2 sách giáo khoa. Song công việc đầu tiên để
sử dụng được Atlas Địa lí Việt Nam là Giáo viên phải hướng dẫn học sinh học
thuộc , nhớ và sử dụng được trang mở đầu của Atlat ( nhớ, thuộc các kí hiệu và
chú giải của Atlat , vận dụng được trong đọc các trang bản đồ của Atlat ) [5],[6]
Đối với trang bản đồ Hành chính trang 4. [ 5]
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc tên được Bắc Trung Bộ gồm các tỉnh :
Thanh Hóa , Nghệ An , Hà Tĩnh , Quảng Bình , Quảng Trị , Thừa Thiên – Huế
Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào trang các miền địa lí tự nhiên để xác định
dãy núi Bạch Mã là ranh giới tự nhiên giữa Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam
Trung Bộ [5 ]. Qua sử dụng Atlat bước đầu học sinh đã có khái quát đầu tiên về
vùng Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ hẹp ngang , kéo dài , vùng có 6 tỉnh và
giáo viên yêu cầu học sinh xác định được vị trí của mỗi tỉnh trên bản đồ. Giao
viên chỉ trên bản đồ và nhấn mạnh : tỉnh Thanh Hóa của chúng ta có vị trí vô
cùng quan trọng trong sự phát triển của vùng .
Đến với trang bản đồ Các miền Địa lí tự nhiên ( Vùng Bắc Trung Bộ )
trang 27 . [ 5 ]
giáo viên hướng dẫn học sinh xác định được vị trí tiếp giáp của vùng với các
nước trong khu vực và các vùng trong nước. Từ đó học sinh hiểu được : Nếu
như toàn dải duyên hải miền Trung là cầu nối giữa hai cực phát triển của đất
nước là Đồng Bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ , thì Bắc Trung Bộ kề liền
Đồng Bằng Sông Hồng trong quá trình phát triển tạo điều kiện thuận lợi nhất
định để phát triển nền kinh tế mở . Một số cảng biển và các tuyến đường bộ chạy
theo hướng đông – tây mở lối giao lưu với Lào và Đông Bắc Thái Lan .
Tuy nhiên đây là vùng gặp nhiều khó khăn do thiên tai đặc biệt là bão và hậu
quả nặng nề do chiến tranh gây ra .
Mục 2 : Hình thành cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp
Khi giảng về hình thành cơ cấu nông- lâm - ngư nghiệp của vùng , tôi sử
dụng lát cắt hình 35 .1 trong sách giáo khoa và hướng dẫn học sinh khai thác
các trang Atlat về bản đồ kinh tế chung Việt Nam , các miền địa lí tự nhiên để
làm rõ 2 vấn đề đó là : Tại sao phải đặt vấn đề hình thành cơ cấu nông – lâm –
ngư nghiệp ? và cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp của vùng đang hình thành như
thế nào ? [ 3 ] và [ 9 ] .
Để làm rõ câu hỏi “ Tại sao phải đặt vấn đề hình thành cơ cấu nông – lâm –
ngư nghiệp ” tôi đã sử dụng lát cắt từ Tây sang Đông – hình 35.1 sách giáo
khoa địa lí 12 cơ bản . [ 10 ]
Bản đồ kinh tế chung Việt Nam trang 17. [5]
Bản đồ vùng Bắc Trung Bộ - Atlat trang 27 . [ 5 ]
để phân tích cho học sinh thấy rằng : Đây là vùng lãnh thổ dài và hẹp ngang
(tôi chỉ vào bản đồ vùng Bắc Trung Bộ) . Ở hàng loạt các huyện , trên một bề
ngang chỉ vài chục km theo chiều Đông – Tây ( tôi chỉ vào lát cắt ) ta đã đi từ
vùng bờ biển qua vùng đồng bằng hẹp duyên hải , vượt qua vùng đồi chuyển
tiếp hẹp và tới vùng núi thực sự ở phía tây .Dọc theo lát cắt ngang của lãnh thổ
như thế , chúng ta có thể chứng kiến những thay đổi ( tôi chỉ vào bản đồ kinh
tế ) của mô hình kết hợp nông – ngư nghiệp hay nông – lâm – ngư nghiệp từ
vùng ven biển , đồng bằng tới mô hình kết hợp nông - lâm nghiệp ở vùng trung
du , miền núi . Từ đó học sinh sẽ hiểu vấn đề hình thành cơ cấu nông – lâm –
ngư nghiệp có ý nghĩa lớn đối với sự hình thành cơ cấu kinh tế chung của vùng ,
vì nó không chỉ góp phần tạo ra cơ cấu ngành , mà còn tạo thế liên hoàn trong
phát triển cơ cấu kinh tế theo không gian . Qua đó học sinh thấy được tỉnh
Thanh Hóa của mình là có mô hình kết hợp nông – lâm – ngư nghiệp đặc trưng
nhất trong vùng . Học sinh trường tôi đều là vùng đồng bằng ven biển thì qua
việc lĩnh hội vùng kiến thức này các em sẽ nhận thấy việc hình thành mô hình
kết hợp nông – ngư nghiệp sẽ có tác động tích cực trong việc phát triển kinh tế -
xã hội của nơi mình sinh sống nói riêng và toàn vùng nói chung , để từ đó các sẽ
có định hướng phát triển ngành nghề trong tương lai .
Như vậy, qua việc sử dụng kết hợp những hình ảnh trực quan sinh động kết
hợp với kênh chữ trong sách giáo khoa cùng với sự phân tích mô tả của giáo
viên , tôi đã giúp học sinh tháo gỡ được những mơ hồ về Atlats về lát cắt ....từ
đó học sinh sẽ phấn khởi tiếp thu lượng kiến thức tiếp theo .
Để hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề mấu chốt thứ hai là “ cơ cấu
nông- lâm - ngư nghiệp của vùng đang hình thành như thế nào ?” tôi sử dụng
kênh chữ trong sách giáo khoa [1], hình 35.1 [ 10 ] , hình 35.2[10] và Atlat Địa
lí Việt Nam [5 ]. Tại vùng kiến thức “ khai thác thế mạnh về lâm nghiệp ” tôi sử
dụng hình 35.2 [10] sách giáo khoa địa lí 12 cơ bản
và bản đồ lâm nghiệp trong Atlat trang 20 . [5]
cùng với phân tích lát cắt từ Tây sang Đông để giúp học sinh thấy rằng có nhiều
thế mạnh về lâm nghiệp nên việc phát triển lâm nghiệp vừa cho phép khai thác
thế mạnh về tài nguyên rừng , vừa cho phép bảo vệ tài nguyên đất , điều hòa chế
độ nước ( nhờ khoanh nuôi , bảo vệ rừng ) của các sông miền Trung ngắn và
dốc , vốn có thủy chế rất thất thường . Việc phát triển rừng ngập mặn , rừng chắn
gió , chắn cát vừa tạo điều kiện bảo vệ bờ biển , ngăn chặn nạn cát bay , cát chảy
, vừa tạo môi trường cho các loài thủy sinh và nuôi trồng thủy sản nước lợ ,
nước mặn .
Tại vùng kiến thức “ Khai thác tổng hợp các thế mạnh về nông nghiệp của
trung du , đồng bằng và ven biển ” tôi sử dụng bản đồ nông nghiệp trong Atlat
địa lí Việt Nam [ 5 ] trang 19
kết hợp với hình 35.1 [10 ] và hình 35.2 [10]trong sách giáo khoa để giúp học
sinh thấy được tùy theo từng khu vực địa hình vùng sẽ có thế mạnh phát triển
riêng . Ví dụ : Vùng đồi trước núi có thế mạnh về chăn nuôi đại gia súc như
( trâu , bò ) . Với diện tích đất badan tuy không lớn , nhưng khá màu mỡ , Bắc
Trung Bộ đã hình thành một số vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm ( cà
phê ở Tây Nghệ an , Quảng Trị ; cao su , hồ tiêu ở Quảng Bình , Quảng Trị ; chè
ở Tây Nghệ An ) giáo viên gọi một học sinh lên bảng trình bày . Ở các đồng
bằng , phần lớn là đất cát pha , thuận lợi cho việc phát triển các cây công nghiệp
hàng năm ( lạc , mía , thuốc lá ...) và các vùng lúa thâm canh .
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu vấn đề “ đẩy mạnh phát triển ngư
nghiệp ” tôi cũng sử dụng hình 35.1 , 35.2 và bản đồ thủy sản để chỉ ra rằng
Phía đông của vùng có một vùng biển rộng lớn đầy tiềm năng rất thuận lợi để
vùng đánh bắt , nuôi trồng thủy sản nước lợ , nước mặn từ đó làm thay đổi khá
rõ nét cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển .
Như vậy khi giảng về cơ cấu nông – lâm –ngư nghiệp của vùng Bắc Trung
Bộ tôi đã sử dụng lát cắt hình 35.1 , bản đồ hình 35.2 và các trang Atlat Địa lí
Việt Nam một cách hiệu quả nhất để từ đó giúp học sinh nắm vững những kiến
thức trọng tâm nhất của phần học này . Đồng thời giúp học sinh thấy được ý
nghĩa kinh tế và sinh thái của việc hình thành cơ cấu nông – lâm – ngư nghiệp .
Mục 3 : Hình thành cơ cấu công nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải
Khi giảng đến mục 3 về vấn đề “ hình thành cơ cấu công nghiệp và phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ” tôi cho học sinh đọc hình 35.2 hoặc sử
dụng Atlat Địa Lí Việt Nam [5] trang 27
để xác định :
- Các nguồn tài nguyên để phát triển công nghiệp
- Các trung tâm chủ yếu của vùng
- Các tuyến đường bộ , đường sắt , cảng biển , sân bay ...
Để cho học sinh thấy được các nguồn tài nguyên để phát triển công
nghiệp của vùng rất phong phú bao gồm một số tài nguyên khoáng sản có trữ
lượng lớn , nguồn nguyên liệu của nông , lâm , thủy sản và nguồn lao động dồi
dào , tương đối rẻ tôi hướng dẫn học sinh sử dụng Atlat Địa Lí Việt Nam trang
27. [5]
Ví dụ tôi yêu cầu học sinh dựa vào bản đồ để tìm ra sự phong phú của tài
nguyên khoáng sản , học sinh sẽ chỉ ra mỏ crômit ở Cổ định ( Thanh Hóa ) , mỏ
thiếc ở Qùy Hợp ( Nghệ An ) , mỏ sắt ở Thạch Khê ( Hà Tĩnh ) , vật liệu xây
dựng có ở khắp nơi ...Tôi nhấn mạnh , trên cơ cở nguồn tài nguyên khoáng sản
phong phú đó vùng đã xây dựng được một số nhà máy xi măng lớn như Bỉm
Sơn , Nghi Sơn ( Thanh Hóa ) , Hoàng Mai ( Nghệ An ) , nhà máy thép liên hợp
Hà Tĩnh . [5]
Việc tăng cường cơ sở năng lượng ( điện ) là một ưu tiên trong phát triển
công nghiệp của vùng . Do những hạn chế về nguồn nhiên liệu tại chỗ , nên việc
giải quyết nhu cầu về điện chủ yếu dựa vào điện lưới quốc gia và sự cung cấp
điện của một số nhà máy thủy điện đang được xây dựng . Đến đây , tôi sẽ hướng
dẫn học sinh sử dụng bản đồ công nghiệp năng lượng trong Atlat Địa Lí Việt
Nam trang 22 . [5 ]
để xác định các nhà máy thủy điện đang được xây dựng như : Bản Vẽ ( 320
MW) trên sông Cả ( Nghệ An ), Cửa Đạt ( 97 MW ) trên sông Chu Thanh Hóa )
Rào Quán ( 64 MW ) trên sông Rào Quán ( Quảng Trị ) .
Sau đó giáo viên có thể cho học sinh sử dụng Atlat trang 27 ( phần kinh tế )
để xácđịnh được các trung tâm công nghiệp của vùng là Thanh Hóa – Bỉm
Sơn , Vinh , Huế với các ngành công nghiệp chủ yếu là khai khoáng , vật liệu
xây dựng , cơ khí , luyện kim , chế biến nông lâm hải sản . Qua đó , giáo viên bổ
xung thêm rằng : Vùng Bắc Trung Bộ còn có các khu công nghiệp và cụm công
nghiệp như Bỉm Sơn , Nghi Sơn , Cửa Lò , Vinh , Vũng Ang , Chân Mây ...Vùng
có các khu du lịch : Sầm Sơn , Cửa Lò , Thiên Cầm , Lăng Cô... Vùng còn có
các đô thị hạt nhân : Thanh Hóa , Vinh , Hà Tĩnh , Đồng Hới , Đông Hà và Huế .
Từ đó hình thành các trục phát triển kinh tế - xã hội . [2] , [5],[7]
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng trước hết là giao thông vận tải cũng có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng . Tại vùng kiến
thức này tôi hướng dẫn học sinh sử dụng bản đồ giao thông trong Atlat Địa
Lí Việt Nam trang 23 . [5]
Để học sinh hiểu rằng việc hiện đại hóa và phát triển các các tuyến giao thông
Bắc – Nam ( Quốc lộ 1 , đường sắt Thống Nhất , đường Hồ Chí Minh ) , trong
đó có hầm đường bộ qua Đèo Ngang , hầm đường bộ qua đèo Hải Vân , phát
triển các tuyến đường ngang là các quốc lộ 7, 8, 9 , đi đôi với vệc mở các cảng
biển ( Đà Nẵng , Nghi Sơn , Vũng Áng , Chân Mây ) và các cửa khẩu dọc biên
giới Việt – Lào như ( Lao Bảo , Cầu Treo ... ) tạo thế mở cửa nền kinh tế và làm
quan trọng sự phân công lao động theo lãnh thổ . Việc nâng cấp các sân bay như
( Phú Bài , Vinh , Đồng Hới ... ) sẽ giúp phát triển kinh tế ,văn hóa và tưng
cường thu hút khách du lịch . Trong quá trình vừa giảng vừa sử dụng Atlat để
chỉ ra từng loại hình giao thông vận tải của vùng Bắc Trung Bộ tôi thấy học
sinh lĩnh hội kiến thức rất dễ dàng từ đó sẽ giúp học sinh tự học , tự nghiên cứu
tốt hơn . [7] , [8]
Như vậy, khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu các vấn đề phát triển
kinh tế - xã hội ở vùng Bắc Trung Bộ bằng phương pháp sử dụng Atlat Địa lí
Việt Nam và mô hình 35.1 trong sách giáo khoa thì học sinh rất hứng thú
học ,giáo viên rất dễ truyền đạt. Vì thế các kiến thức của bài này chỉ cần
phương pháp điển hình là : Sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam thì học sinh vẫn
có thể ghi sâu các kiến thức vào tư duy ngay mà không cần phải học thuộc .
2.4. Kết quả thực nghiệm:
Sau khi chuẩn bị giáo án với việc sử dụng Atlat Địa lí Việt Nam và lát cắt từ
Tây sang Đông – hình 35.1 để dạy bài 35 “ Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội
ở Bắc Trung Bộ” như tôi đã trình bày ở trên, tôi đã tiến hành giảng dạy thực
nghiệm ở 4 lớp 12 - Trường THPT Hoằng Hoá IV, thì học sinh rất hứng thú học
còn bản thân tôi thì luôn có đam mê khi dạy về vùng kinh tế - xã hội của đất
nước vì thế tôi thấy dễ dàng truyền đạt kiến thức đến học sinh hơn .
Cụ thể : Lớp 12A9 có 42 học sinh và lớp 12 A10 có 50 học sinh đây là 2 lớp
ban khoa học xã hội ; lớp 12A6 có 45 học sinh, lớp 12 A7 có 46 học sinh đây là
2 lớp ban khoa học tự nhiên . Kết quả như sau:
Kết quả
0đ -> 4.9 đ
5.0đ -> 7.9đ
8.0đ-> 10đ
Lớp 12 A9
42HS
0HS (0%)
25HS(59,5%)
17HS(40,5%)
Lớp 12A10
50HS
0HS(0%)
31HS(62%)
19HS(38%)
Lớp 12A6
Lớp 12A7
45HS
46HS
2HS(4,4%)
1HS(2%)
31HS(69%) 30HS(65,2%)
12HS(26,6%) 15HS(32,8%)
3. Kết luận , kiến nghị
3.1. Kết luận :
Việc phát triển các hoạt động nhận thức độc lập nhất là tư duy độc lập và
sáng tạo của học sinh có ý nghĩa đặc biệt đối với hiệu quả bài học. Hoạt động
nhận thức độc lập của học sinh là một trong những điều kiện quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả giảng dạy,giáo dục và phát triển toàn diện nhân cách học
sinh.
Hoạt động nhận thức độc lập của học sinh sẽ đảm bảo kết quả lĩnh hội
kiến thức của các em. Có hai loại lĩnh hội kiến thức: lĩnh hội sáng tạo dựa trên
cơ sở hoạt động tư duy độc lập và lĩnh hội tái tạo dựa trên cơ sở nhớ lại và hiểu
biết những kiến thức có sẵn. Trong dạy học bài 35 “Vấn đề phát triển kinh tế xã hội ở Bắc Trung Bộ ” tôi đã kết hợp cả hai loại lĩnh hội này,song đặc biệt
chú ý đến lĩnh hội sáng tạo trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập. Nắm vững nội
dung sẽ xác định phương pháp dạy học tốt, sử dụng phương pháp tốt sẽ giúp học
sinh nắm vững nội dung bài học. Chuẩn bị bài học địa lí là chuẩn bị một cách
toàn diện nội dung, phương pháp, các phương tiện dạy học để đạt hiệu quả cao.
Hiệu quả của bài học còn được thể hiện ở việc phát triển toàn diện học
sinh, đặc biệt là năng lực nhận thức như tri giác, trí tưởng tượng, trí nhớ, tư
duy... Việc phát triển các năng lực nhận thức không thể tách rời các yếu tố của
nhân cách như: chú ý, xúc cảm địa lí , hứng thú học tập, ý chí...Ngoài ra giáo
viên cũng không quên hình thành cho các em lòng ham muốn và khả năng tham
gia tích cực,có hiệu quả các hoạt động xã hội ,chính trị và lao động sản xuất.
Đồng thời việc phát triển các năng lực nhận thức, giáo viên phát triển các kĩ
năng, kĩ xảo của học sinh, nhất là khả năng tư duy như phân tích, so sánh, tổng
hợp, khái quát...và các kĩ năng thực hành bộ môn. [4]
Phương pháp dạy học không phải là kinh nghiệm, thủ thuật trong dạy
học, theo từng công việc cụ thể, như vậy sẽ tản mạn, không tập trung vào mục
đích chính của nó, trên cơ sở khoa học. Phương pháp dạy học địa lí là con
đường, cách thức hoạt động của thầy và trò trong quá trình thống nhất của việc
giảng dạy và học tập nhằm truyền thụ và tiếp thu kiến thức địa lí . Trong quá
trình này, giáo viên là người tổ chức, lãnh đạo, hướng dẫn quá trình học tập và
học sinh phải giữ vai trò chủ thể, trung tâm. Có nhiều con đường, phương pháp
khác nhau để phát triển các hoạt động nhận thức độc lập của học sinh, phổ biến
và có tác dụng lớn nhất là vận dụng phương pháp dạy học sử dụng đồ dùng trực
quan sinh động kết hợp với phương pháp dạy nêu vấn đề.
Việc học tập địa lí phải thông qua hoạt động tư duy của học sinh, không
phải là sự áp đặt chủ quan, công thức. Vì vậy giáo viên phải đặt vấn đề và hướng
dẫn học sinh giải quyết vấn đề. Học sinh phải tự mình nhận thức bản chất của sự
vật ,vận dụng những tri thức đã học để giải thích những hiện tượng địa lí .
Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học chủ yếu được tiến hành thông qua dạy
học nêu vấn đề, nêu câu hỏi có tính chất bài tập nhận thức. [4]
Thông qua việc sử dụng Átlat Địa lí Việt Nam và mô hình 35.1 trong sách
giáo khoa để dạy học bài 35 “Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Trung
Bộ ”- lớp 12 cơ bản tôi hy vọng sẽ tăng thêm hiệu quả của việc dạy học, học
sinh sẽ chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức địa lí cũng như sẽ phát huy hơn
nữa tinh thần học bộ môn địa lí của các em. Đồng thời cũng thông qua đề tài
nghiên cứu này, sẽ góp phần làm phong phú thêm những kinh nghiệm trong đổi
mới phương pháp dạy học của đồng nghiệp khi dạy về nội dung các vùng kinh
tế .
3.2 . Kiến nghị .
Xuất phát từ thực tiễn dạy học hiện nay ở trường THPT, với những khó
khăn mà những giáo viên địa lí như chúng tôi đang trải qua, đó là những hạn
chế trong cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, những hạn hẹp trong quỹ thời
gian tham quan địa lí trong khuôn khổ phân phối chương trình... Chúng tôi,
những người giáo viên địa lí khó có thể truyền tải những kiến thức địa lí đến
các em một cách đầy đủ và hoàn thiện hơn. Lại càng khó hơn khi nói đến việc
truyền lại cho các em nhiệt huyết học địa lí . Từ đó để thu hút những nhân tài
thực sự cho ngành khoa học địa lí nói chung và sư phạm địa lí nói riêng sẽ gặp
nhiều khó khăn, thậm chí là những nan giải.
Từ những suy nghĩ này, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
* Đối với cấp Bộ, Ngành: Biên soạn một bộ sách giáo khoa Địa lí từ
khối 10 đến khối 12 thật sự chuẩn về kiến thức, gọn về chương trình, hấp dẫn về
cách thể hiện là cần thiết. Thời lượng trung bình để học môn địa lí hiện nay ở
các khối lớp 10 , 12 là 1,5 tiết /tuần, khối 11 là 1,0 tiết / tuần là quá ít ỏi so với
lượng kiến thức địa lí ngày càng tăng, học địa lí như vậy chỉ như “cưỡi ngựa
xem hoa”. Do đó nên tăng thêm số tiết học bộ môn địa lí trên tuần để phù
hợp với hình thức thi trắc nghiệm như hiện nay . Tăng thêm các tiết học
ngoại khoá, tham quan ngoài thực tế ... cũng rất bổ ích đối với môn học này
nhằm hấp dẫn hơn môn học địa lí ... Nên có các chính sách thu hút những học
sinh khá giỏi thi vào sư phạm địa lí hoặc là nghiên cứu địa lí , đồng thời cũng
nên giải quyết tốt khâu đầu ra đối với những sinh viên địa lí ...
* Đối với các cấp địa phương và nhà trường: Nên có các biện pháp phối
hợp để đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị để dạy và học địa lí . Xây
dựng phòng học địa lí là một yêu cầu rất cần của bộ môn này. Phòng học địa lí
tạo điều kiện cho việc dạy và học địa lí đạt hiệu quả cao. Những trang thiết bị
trong phòng học địa lí sẽ gây được hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em
say mê với môn học, khơi dậy sự tích cực nhận thức, nâng cao hiệu quả giáo dục
tư tưởng, tình cảm, đạo đức cho học sinh. Tổ chức học tập trong phòng học địa lí
không chỉ góp phần phát triển óc quan sát, đánh giá các hiện tượng địa lí mà
còn góp phần phát triển óc tư duy, tưởng tượng, thẫm mĩ của các em khi các em
tự xây dựng các đồ dùng trực quan học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Đồng thời việc xây dựng phòng học địa lí còn phát huy sự sáng tạo trong lao
động sư phạm của giáo viên, là cơ sở để giáo viên nghiên cứu về phương pháp
bộ môn.
Trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm, chắc hẳn không thể
tránh khỏi những tư duy mang tính chủ quan.Tôi rất mong nhận được sự góp ý
chân thành của đồng nghiệp và bạn đọc quan tâm.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Nguyễn Thị Nhung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Sách giáo khoa môn Địa lí lớp 12 –NXB Giáo dục.
[2]. Sách giáo viên môn Địa lớp 12 – NXB Giáo dục.
[3]. Dạy học theo chuẩn kiến thức lớp 12 – NXB Giáo dục.
[4]. Phương pháp dạy học Địa lí - NXB Giáo dục
[5]. Atlat Địa lí Việt Nam – NXB Giáo dục
[6]. Đọc Atlat Địa lí – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội .
[7]. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên lớp 12 – NXB Giáo dục
[8]. Bài tập Địa lí 12 – NXB Giáo dục.
[9]. Chuyên đề ôn tập và luyện thi Địa lí 12 –NXB Hà Nội .
[10]. Kênh hình trong SGK lớp 12 - NXB Giáo dục.
MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1 . Lí do chọn đề tài
Trang
1
1
1.2.Mục đích nghiên cứu .
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu .
3
3
3
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2. 1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.4. Kết quả thực nghiệm
4
4
5
6
17
3. Kết luận , kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2.Kiến nghị
Tài liệu tham khảo.
18
18
19
21