1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ngày nay, trước yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế tri thức, đòi hỏi việc
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nhằm thích ứng với đời
sống xã hội và phù hợp với xu thế hội nhập toàn cầu.
Để đáp ứng được yêu cầu đó, định hướng chủ đạo và xuyên suốt của việc
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo là chú trọng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, khơi gợi năng lực tự nghiên cứu, lòng say mê, ham hiểu biết và
học hỏi của học sinh, nhằm đào tạo ra lớp người năng động, linh hoạt có đủ năng
lực, phẩm chất, trí tuệ và hoàn thiện về nhân cách để đảm đương sứ mệnh chủ
nhân tương lai của đất nước.
Trên thực tế, trong những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều đổi mới
về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học.
Tuy nhiên, việc dạy và học vẫn còn chịu tác động nặng nề bởi mục tiêu thi
cử, chạy theo thành tích, học để thi, dạy để thi.
Do đó, việc dạy học chủ yếu là truyền thụ một chiều, thông báo kiến thức
mang tính đồng loạt, thiên về lí thuyết, xa rời thực tiễn, tập trung ôn luyện kiến
thức đáp ứng kiểm tra thi cử, chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành thói
quen tự học, tự khám khám kiến thức phát triển tư duy sáng tạo, năng lực giải
quyết vấn đề của học sinh [1].
Từ những thực tế trên, trong suốt quá trình giảng dạy, tôi luôn tìm hiểu,
nghiên cứu và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào trong các bài
giảng để hướng dẫn học sinh tự tìm kiếm và chiếm lĩnh tri thức một cách chủ
động, sáng tạo.
Chính vì lí do trên mà tôi chọn đề tài: “Sử dụng một số phương pháp dạy
học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức trong bài
16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng biển- Địa lí 10”, nhằm nâng cao hiệu quả dạy và
học.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm tạo ra một cái nhìn mới về sự thay đổi
phương pháp giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh, đồng thời tạo ra sự
hứng thú, tích cực trong quá trình học tập bộ môn địa lí, cũng như đem lại
những hiệu quả tốt cho công tác giảng dạy của giáo viên trong thời kì mới.
Nghiên cứu đề tài còn nhằm thúc đẩy sự phát triển tư duy, trí tuệ của học
sinh trong quá trình tự vận động để tiếp cận, tìm tòi và khám phá tri thức một
cách chủ động, tích cực nhất.
Thông qua việc tiến hành đề tài này ở một số lớp 10 tại trường THPT
Vĩnh Lộc, để thấy được việc sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực
trong các bài giảng đem lại hiệu quả như thế nào trong quá trình dạy và học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Để thực hiện được bài dạy theo thiết kế của mình, tôi chọn các lớp 10, tại
Trường Trung học phổ thông Vĩnh Lộc, năm học 2016- 2017 mà tôi đang trực
tiếp giảng dạy để thực nghiệm, đó là lớp 10A2 và 10A3.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
1
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp sử dụng phương tiện trực quan.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Để có thể giảng dạy và học tập bộ môn Địa lí trong trường phổ thông có
hiệu quả, thông qua việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực, thì cả giáo viên
và học sinh cần phải hiểu phương pháp dạy học tích cực là phương pháp như thế
nào, thực hiện ra sao, kết quả thu được là gì?
Theo luật Giáo dục năm 2005 nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng tích cực. Trong việc đổi mới phương pháp
dạy và học theo hướng tích cực thì phương pháp học của học sinh là mối quan
tâm hàng đầu.
Phương pháp dạy và học tích cực là đề cập đến các hoạt động dạy và học
nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học.
Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên,
người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình
tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn
đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng
tạo [1].
Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở
hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy và học tích cực không phải
là một phương pháp dạy học cụ thể, mà là một khái niệm, bao gồm nhiều
phương pháp, hình thức, kĩ thuật cụ thể khác nhau nhằm tích cực hoá, tăng
cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa
khả năng học tập, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Phương pháp dạy và học tích cực đem lại cho người học hứng thú, niềm
vui trong học tập. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ
giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. Như
vậy, dạy và học tích cực nhấn mạnh đến tính tích cực hoạt động của người học
và tính nhân văn của giáo dục [1].
Từ thực tế trên cho thấy, việc sử dụng phương pháp dạy và học tích cực
là rất cần thiết. Bởi thông qua mỗi bài học, học sinh có thể tự học, tự khai thác
kiến thức theo sự hướng dẫn của giáo viên một cách chủ động nhất.
Trong mỗi bài giảng, cần sử dụng các phương pháp dạy và học tích cực
khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp dạy học và giải quyết vấn đề, dạy học theo
nhóm là được sử dụng hầu hết các bài. Và tôi đã áp dụng hai phương pháp dạy
học tích cực này để dạy bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng Biển- Địa lí 10, để giúp
học sinh có thể tự học, tự khai thác kiến thức về địa lí tự nhiên một cách hiệu
quả.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trên thực tế, khi tôi dạy bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng biển ở các lớp
10A7 và 10A9, vẫn còn áp dụng phương pháp truyền thống là lấy thầy làm trung
tâm, tức là dạy học theo hình thức truyền thụ một chiều, giáo viên là chủ thể của
2
hoạt động, người truyền đạt “mang” kiến thức, “đổ” kiến thức cho người học,
hình thức dạy chủ yếu là đọc- chép, người học lĩnh hội kiến thức một cách thụ
động. Điều đó dẫn đến thực trạng như sau:
- Học sinh học bài chủ yếu theo cách học thuộc lòng, học vẹt, học đổi
phó, học để thi...
- Khi giáo viên kiểm tra kiến thức cũ thì học sinh không nắm được.
- Làm bài kiểm tra còn chưa có tinh thần tự giác cao.
- Vẫn còn nhiều học sinh không thích học, không biết phân tích bản đồ,
nhận xét biểu đồ, bảng số liệu, tranh ảnh...
- Những câu hỏi phát vấn trong giờ học thường rất ít em phát biểu.
- Giáo viên giữ vai trò độc quyền trong đánh giá, do đó người học ít có cơ
hội phát triển, thể hiện năng lực sáng tạo của mình.
Từ thực trạng trên cho thấy, sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng tích cực là hết sức quan trọng, bởi qua đó giúp học sinh có thể
tự học, tự khai thác kiến thức địa lí một cách chủ động và sáng tạo nhất. Do vậy,
mà trong quá trình giảng dạy bộ môn địa lí, tôi đã áp dụng triệt để phương pháp
dạy học tích cực này vào bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng Biển- Địa lí 10, để
hướng dẫn học sinh nắm chắc các khái niệm, hiện tượng và qui luật tự nhiên một
cách đầy đủ và chính xác nhất.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Một số kinh nghiệm chung khi “sử dụng phương pháp dạy học
tích cực để hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức trong bài 16:
Sóng. Thuỷ triều. Dòng Biển- Địa lí 10”.
Có thể nói, môn Địa lí là một môn học có sự khác biệt lớn so với các môn
học khác. Bởi không những bồi dưỡng cho học sinh một khối lượng kiến thức
phong phú về tự nhiên, kinh tế- xã hội, mà còn giúp học sinh có những kĩ năng,
kĩ xảo cần thiết trong cuộc sống, đặc biệt là kĩ năng sử dụng bản đồ, vẽ biểu đồ,
nhận xét bảng số liệu...Vì vậy, để giúp học sinh hiểu, nắm vững kiến thức địa lí
trong mỗi bài học, thì giáo viên cần sử dụng tốt các phương pháp dạy và học tích
cực.
Đối với bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng Biển- Địa lí 10, thì sử dụng
phương pháp dạy học tích cực lại cần thiết hơn cả. Vì nếu không được hướng
dẫn cụ thể, thì học sinh không thể hiểu rõ được các khái niệm, nguyên nhân, qui
luật, biểu hiện về sóng, thuỷ triều, dòng biển.
Trong số các phương pháp dạy và học tích cực như phương pháp dạy học
đặt và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học theo hợp đồng, dạy học
theo góc, dạy học theo dự án, dạy học vi mô, thì đối với bài 16: Sóng. Thuỷ
triều. Dòng Biển, tôi lựa chọn hai phương pháp chủ yếu: Dạy học đặt và giải
quyết vấn đề, dạy học theo nhóm là phù hợp nhất và dễ dàng giúp học sinh có kĩ
năng tự học, tự khai thác kiến thức qua bài học một cách đầy đủ và chính xác
nhất.
* Đối với phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề cần tiến hành
theo các bước sau:
Bước 1: Chọn nội dung để đặt vấn đề.
3
Việc lựa chọn nội dung trong loại phương pháp đặt vấn đề là hết sức quan
trọng, bởi vì:
Nội dung được lựa chọn để đặt vấn đề phải bao hàm hai mặt của một vấn
đề.
Nội dung được lựa chọn thường phải là những phần trọng tâm của bài
học mang tính chất nhận thức cao về bản chất của vấn đề cần nhận định.
Bước 2: Đặt câu hỏi có vấn đề.
Câu hỏi trong phương pháp đặt vấn đề đưa ra phải hàm chứa các nhận
định mang chiều hướng trái ngược nhau, từ đó hình thành nên hai trường phái có
quan điểm và nhận định khác nhau về cùng một vấn đề được đặt ra trước đó [4].
Bước 3: Kích thích và điều khiển học sinh giải quyết vấn đề.
Khi câu hỏi được đặt ra, giáo viên phải là người đóng vai trò khởi sướng
để kích thích tư duy của học sinh và khuyến khích học sinh nhận định vấn đề và
bảo vệ quan điểm của vấn đề mà mình vừa nhận định.
Lúc này lớp học sẽ tự động chia ra thành hai nhóm đối lập nhau về quan
điểm nhìn nhận vấn đề, giáo viên phải đóng vai trò là trọng tài ở giữa để điều
khiển sự tranh luận của các bên thông qua những ý kiến lập luận nhằm chứng
minh và bảo vệ cho quan điểm của nhóm mình [5].
Bước 4: Kết luận vấn đề.
Từ kết quả kiểm chứng các giả thuyết đã nêu, học sinh trao đổi để phân
tích, đánh giá các kết quả thu được, khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu,
tìm được giả thuyết đúng trong các giả thuyết để rút ra kết luận, những vấn đề
mới về kiến thức, kĩ năng, thái độ.
* Đối với phương pháp dạy học theo nhóm cần tiến hành theo các bước
sau:
Bước 1: Chuẩn bị nội dung thảo luận.
- Trước hết giáo viên cần chọn vấn đề thích hợp cho học sinh thảo luận.
Những vấn đề thảo luận trong bài thường là những vấn đề không khó về mặt nội
dung, nhưng được nhiều người quan tâm, có nhiều cách giải quyết khác nhau,
đặc biệt phải gần gũi với học sinh. Nhất thiết không nên chọn những vấn đề mà
cách giải quyết đã rõ. Việc thảo luận trong trường hợp này, sẽ biến thành một
cuộc tham gia minh họa, làm rõ thêm vấn đề.
Vấn đề thứ hai cần lưu ý khi chọn nội dung thảo luận là phải nghiên cứu
xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì, sẽ suy nghĩ gì về chủ đề sẽ nêu ra.
Nội dung thảo luận có thể lấy từ sách giáo khoa Địa lí. Đó là các vấn đề
về tự nhiên, môi trường, dân số, phát triển kinh tế- xã hội của địa phương, của
đất nước. Phương pháp này sẽ thúc đẩy, nảy sinh sự hứng thú và sự tò mò giữa
các học sinh.
Khi đã chọn được vấn đề thảo luận đúng yêu cầu, giáo viên cần báo cho
học sinh chuẩn bị, ý kiến phát biểu của học sinh phải được ghi ra giấy. Từ đó,
học sinh sẽ ý thức được yêu cầu, nội dung của đề tài, các nguồn tài liệu chính,
phương pháp tiến hành, kế hoạch thực hiện và nhiệm vụ của tập thể cũng như
của từng cá nhân. Học sinh cần nghiên cứu sách báo và tài liệu có liên quan, nếu
cần thì phải tiến hành quan sát, tham quan các đối tượng cần thiết, phải thí
4
nghiệm, phải đàm thoại với những người có thể cung cấp những thông tin có
ích, phải thu thập hiện vật có thể minh họa khi thảo luận.
Trước khi tiến hành thảo luận, giáo viên phải kiểm tra tới từng chi tiết:
Học sinh chuẩn bị nội dung như thế nào? Tâm, thế đã sẵn sàng tham gia thảo
luận hay chưa? Các điều kiện khác đã được chuẩn bị ra sao? Ví dụ: Việc kê bàn
ghế, ánh sáng... [1].
Bước 2: Tiến hành thảo luận.
- Khi tiến hành thảo luận, giáo viên nên thông báo về chủ đề, nội dung cần
thảo luận, quy trình và thủ tục thảo luận.
- Giáo viên phân công nhóm học tập và bố trí vị trí hoạt động của nhóm
phù hợp theo thiết kế: Nhóm trưởng, thư kí và các thành viên. Tùy theo nhiệm
vụ có thể có các cách tổ chức khác nhau: Cặp hai học sinh, nhóm 3 học sinh
hoặc nhóm đông hơn 6- 10 học sinh.
Trong hoạt động nhóm, học sinh ngồi đối diện nhau để tạo ra sự tương
tác trong quá trình học tập, tránh trường hợp chia 2 dãy bàn một nhóm, học sinh
bàn sau chỉ nhìn vào lưng của học sinh bàn trước.
Nên chú ý tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều có thể tham gia vai trò là
nhóm trưởng, thư kí qua các hoạt động, để tạo cơ hội phát triển kĩ năng học tập
và kĩ năng lãnh đạo, điều khiển cho tất cả học sinh.
- Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm học sinh: có thể giao cho mỗi nhóm học
sinh một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ chung hoặc tất cả các nhóm
cùng thực hiện một nhiệm vụ. Giáo viên cần nêu rõ thời gian thực hiện và yêu
cầu rõ sản phẩm của mỗi nhóm.
- Hướng dẫn hoạt động của nhóm học sinh: Nhóm trưởng điều khiển hoạt
động nhóm. Học sinh hoạt động cá nhân, theo cặp, chia sẻ kinh nghiệm và thảo
luận, thống nhất kết quả chung của nhóm, thư kí ghi kết quả của nhóm, phân
công đại diện trình bày kết quả trước lớp [7].
- Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần phải chú ý:
+ Làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến thảo luận,
không cắt ngang lời học sinh, không phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận không
đúng với ý mình. Tuy nhiên, để nhằm tăng thêm hứng thú của cuộc thảo luận,
giáo viên cũng có thể đưa ra các câu hỏi hoặc nêu ra cách thảo luận để tạo không
khí sôi nổi cho buổi thảo luận (nếu cần).
+ Nên tiếp xúc với học sinh bằng ánh mắt, nụ cười và có cử chỉ thân mật
với những học sinh đang trả lời hoặc với học sinh nêu câu hỏi để khuyến khích
học sinh. Nhạy cảm đối với thái độ của lớp học, tạo sự thích nghi dễ dàng với
buổi thảo luận đó.
+ Khuyến khích sự tham gia của mỗi cá nhân học sinh, biểu thị sự hài
lòng hoặc thích thú với những câu trả lời hoặc bình luận chính xác, tập trung vào
những đóng góp tích cực của học sinh.
+ Một số học sinh cố tình đưa ra những thông tin ngoài lề hoặc những sự
kiện không thích hợp, hoặc hỏi những câu hỏi ngờ nghệch, giả vờ thú vị. Giáo
viên nên nhanh chóng làm cho học sinh nhận thức được sự không phù hợp của
những hành động đó mà không làm tổn thương đến cảm xúc của học sinh.
5
+ Khi thảo luận, giáo viên phải chú ý nghe những điều học sinh nói để họ
hiểu họ định nói gì. Nếu không sẽ rất khó nhớ để tổng kết các ý kiến thảo luận
của học sinh. Nên ghi chép lại những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để phát hiện
những mâu thuẫn trong các ý kiến phát biểu, kịp thời nêu vấn đề cho học sinh
giải quyết, tránh được tình trạng thảo luận miên man ngoài lề.
- Tổ chức học sinh báo cáo kết quả và đánh giá:
Giáo viên yêu cầu mỗi nhóm sẽ hoàn thiện kết quả của nhóm và cử đại diện
nhóm báo cáo kết quả chia sẻ kinh nghiệm với nhóm khác, yêu cầu học sinh
khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung. Giáo viên hướng dẫn học sinh lắng nghe và
phản hồi tích cực.
- Tổng kết thảo luận:
Sau khi học sinh nhận xét, phản hồi, giáo viên chốt lại kiến thức cơ bản,
tránh tình trạng giáo viên giảng lại toàn bộ các vấn đề học sinh đã trình bày làm
mất thời gian.
+ Có những ý kiến chưa thống nhất thì giáo viên có thể cho học sinh sắp
xếp thời gian, thảo luận tiếp vào giờ tự học và việc tổng kết sẽ để vào buổi thảo
luận sau.
+ Giáo viên đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét về tinh thần, thái độ làm
việc chung của tập thể hoặc của nhóm, của cá nhân.
+ Cuối cùng, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi ở cuối bài học hoặc các đề
thi học sinh giỏi, yêu cầu những học sinh có học lực khá giỏi trả lời, để học sinh
khắc sâu những kiến thức cơ bản và trọng tâm của bài học.
Như vậy, việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm có ý nghĩa rất to lớn.
Muốn sử dụng có hiệu quả thì cần phải thực hiện đầy đủ các bước trên. Bởi tất
cả các thao thao tác đó luôn luôn gắn bó với nhau, là những yếu tố quyết định
cho sự thành công của buổi thảo luận.
2.3.2. Tổ chức thực hiện:
Trong quá trình giảng dạy, để học sinh không bị nhàm chán, gò bó khi tiếp
thu kiến thức, thì trong mỗi bài giảng giáo viên cần tìm ra các phương pháp dạy
học tích cực, phù hợp. Ở mỗi bài lại phải lựa chọn từng phần, từng mục nên sử
dụng phương pháp nào đem lại hiệu quả cao nhất.
Với quan điểm, dạy học không phải là truyền thụ kiến thức một chiều,
thiên về lí thuyết, xa rời thực tiễn, mà dạy học phải thực sự quan tâm đến việc
hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, phát triển tư duy, sáng tạo,
năng lực giải quyết vấn đề cho người học.
Trong mỗi bài giảng, giáo viên không chỉ là người mang kiến thức đến
cho học sinh mà cần dạy cho học sinh cách tìm kiếm, chiếm lĩnh kiến thức để
đảm bảo cho việc tự học suốt đời.
Để minh chứng cho những điều nói trên, tôi xin đưa ra một số kinh
nghiệm về việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự
học, tự khai thác kiến thức trong bài 16: Sóng. Tuỷ triều. Dòng biển tại khối lớp
10, năm học 2016- 2017.
Trước hết, giáo viên phải xác định được mục tiêu bài học, chuẩn bị của
giáo viên và học sinh, các hình thức tổ chức học tập.
6
Khi dạy bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng biển, thì tôi sử dụng hai phương
pháp dạy học tích cực chủ yếu ở mỗi phần là: Phần I (Sóng biển)- sử dụng
phương pháp hoạt động nhóm. Phần II (Thuỷ triều)- sử dụng phương pháp đặt
và giải quyết vấn đề. Phần III (Dòng biển)- sử dụng phương pháp đặt và giải
quyết vấn đề, hoạt động nhóm.
Cụ thể được áp dụng vào bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng biển
(các phương pháp được nêu rõ ở từng phần trong bài giảng)
Bài 16: SÓNG. THUỶ TRIỀU. DÒNG BIỂN.
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
- Trình bày khái niệm về sóng biển và nguyên nhân chủ yếu gây ra sóng
biển, sóng thần.
- Hiểu rõ tương quan giữa vị trí giữa Mặt Trăng, Mặt Trời và Trái Đất đã
ảnh hưởng tới thủy triều như thế nào.
- Nhận biết được đặc điểm phân bố của các dòng biển trên Trái Đất [2].
2. Kĩ năng:
- Biết phân tích hình vẽ, tranh ảnh và bản đồ để đi đến nội dung của bài
học.
- Sử dụng bản đồ các dòng biển để trình bày về các dòng biển lớn (tên, vị
trí, nơi xuất phát, hướng chảy của chúng) [6].
3. Thái độ:
- Biết được tác hại của sóng thần, biết cách làm giảm nhẹ và phòng tránh
các thiệt hại do sóng thần gây ra.
- Nhận thức được nguyên nhân sinh ra thủy triều biết được cách vận
dụng hiện tượng này trong cuộc sống.
4. Định hướng phát triển năng lực:
- Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực tự giải quyết vấn đề, năng
lực hợp tác, năng lực giao tiếp, năng lực sử dụng công nghệ thông tin, năng lực
sử dụng ngôn ngữ.
- Năng lực chuyên biệt: Năng lực tư duy tổng hợp theo lãnh thổ, năng lực
sử dụng bản đồ, tranh ảnh, năng lực khảo sát thực tế.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH.
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Các hình trong sách giáo khoa.
- Tranh ảnh, video về sóng biển, sóng thần...
- Bản đồ các dòng biển trên thế giới.
2. Chuẩn bị của học sinh:
Sưu tầm các hình ảnh, thông tin về sóng biển, sóng thần, hiện tượng thuỷ
triều, dòng biển ở Việt Nam và trên thế giới.
III. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP.
1. Ổn định lớp: (1 phút)
2. Kiểm tra bài cũ: (5 phút)
Câu 1: Trình bày các vòng tuần hoàn của nước trên Trái Đất.
Câu 2: Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến chế độ nước sông.
3. Tiến trình bài học:
7
Mở bài: (1 phút)
Thỉnh thoảng ta vẫn nghe nói “ Biển lặng”. Vậy có bao giờ biển hoàn
toàn tĩnh lặng? Và những ngày Trăng tròn và không trăng, trăng lưỡi liềm thì có
hiện tượng gì sẽ sảy ra? Mặt Trời lúc đó nằm ở vị trí nào so với Trái Đất và Mặt
Trăng... Vậy bài học hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu [2].
HOẠT ĐỘNG 1: Tìm hiểu về sóng biển. (8 phút)
- Mục tiêu: Học sinh trình bày khái niệm về sóng biển và nguyên nhân chủ yếu
gây ra sóng biển, sóng thần.
- Phương pháp/Kĩ thuật: Hợp tác.
- Hình thức tổ chức hoạt động: Thảo luận nhóm.
- Phương tiện dạy học: Một số hình ảnh, video về sóng biển, sóng thần [10]
Hình 1- Sóng biển
Hình 2- Sóng Bạc Đầu
Hình 3- Sóng thần
8
Hình 4- Hình ảnh về động đất và núi lửa phun ngầm dưới đáy biển
Hình 5- Hậu quả của sóng thần.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG
Bước 1:
I. Sóng biển
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm. Các nhóm đọc SGK
và quan sát các hình ảnh, vi deo trên màn hình do GV
trình chiếu để trao đổi các nội dung sau:
- Nhóm 1: Sóng là gì ? Nguyên nhân gây ra sóng?
(Quan sát hình 1, vi deo về sóng biển).
- Nhóm 2: Thế nào là sóng bạc đầu ?
(Quan sát hình 2)
- Nhóm 3: Thế nào là sóng thần ? Nguyên nhân gây ra
sóng thần và hậu quả của nó?
(Quan sát hình 3, hình 4 và hình 5 và vi deo về sóng
thần)
- Nhóm 4: Mô tả đôi nét về sóng thần
Bước 2:
- Các nhóm tiến hành thảo luận các nội dung trên trong
thời gian 3 phút.
- GV quan sát, theo dõi học sinh thảo luận.
- Đại diện học sinh các nhóm lên trình bày. Các học
sinh khác theo dõi, nhận xét về trình bày
của bạn.
9
Bước 3.
1. Khái niệm:
Giáo viên chuẩn xác kiến thức và bổ sung các câu hỏi Sóng biển là hình
sau:
thức dao động của
- Em biết gì về đợt sóng thần gần đây nhất của nhân loại nước biển theo chiều
và những hậu quả của nó ?
thẳng đứng.
GV nêu: Đợt sóng thần ngày 26/12/2004 như Thái Lan, 2. Nguyên nhân:
Indonesia, sóng thần tấn công Nhật Bản 14h 46 ngày Chủ yếu do gió, gió
11/3/2011, trận động đất 9 độ Richter xảy ra ngoài khơi càng mạnh, sóng càng
Nhật Bản. 15h55 cùng ngày, sóng thần bắt đầu tấn công to.
bờ biển Đông Bắc nước này. Ở thành phố biển Miyako, 3. Sóng bạc đầu:
tỉnh Iwate, của Nhật Bản bị nhấn chìm bởi con sóng Những giọt nước biển
thần, gây thiệt hại nặng nề cho đất nước này [6].
chuyển động lên cao,
- Làm thế nào để nhận biết sóng thần sóng thần sắp xảy khi rơi xuống va đập
ra?
vào nhau, vỡ tung toé
GV mô tả: Cảm thấy đất rung nhẹ dưới chân khi đứng ra tạo thành bọt trắng,
trên bờ, sau đó nước biển sủi bọt, một thời gian sau đó là sóng bạc đầu.
nước biển đột ngột rút ra rất xa bờ, cuối cùng một bức 4. Sóng thần: là loại
tường nước khổng lồ sẽ đột ngột tiến nhanh vào bờ, tàn sóng có chiều cao và
phá tất cả những gì trên đường chúng đi qua [2].
tốc độ rất lớn.
Bước 4.
- Nguyên nhân: Do
- HS đánh giá kết quả làm việc giữa các nhóm.
động đất, núi lửa
- GV đánh giá, cộng điểm nhóm nắm bài tốt.
phun ngầm dưới đáy
Chuyển ý: Các em có biết không, mối quan hệ giữa biển hoặc bão.
Mặt Trăng, Mặt Trời và Trái Đất đã tạo nên một hiện - Hậu quả: Có sức tàn
tượng kỳ diệu trên biển cả, vậy hiện tượng kỳ diệu đó là phá ghê gớm.
gì chúng ta qua mục II.
HOẠT ĐỘNG 2: Tìm hiểu về thuỷ triều. (10 phút)
Mục tiêu: Học sinh trình bày khái niệm, nguyên nhân và đặc điểm của thuỷ
triều.
-Phương pháp/Kĩ thuật: Đặt và giải quyết vấn đề..
- Hình thức tổ chức hoạt động: Cá nhân/ Cả lớp.
- Phương tiện dạy học: Hình ảnh, các hình trong sách giáo khoa: hình 16.1,
16.2, 16.3 [10].
Hình 6: Thuỷ triều lên- xuống.
10
Hình 16.1- SGK- chu kì tuần trăng.
Hình 16.2 và 16.3- SGK.
11
Hình 7- Giao thông vận tải.
Hình 8- Đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản
Hình 9- Sản xuất điện
Hình 10- Làm muối
12
Hình 11- Năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng nhờ lợi dụng chu kì lên xuống của thủy triều.
Hình 12- Các tuyến đường giao thông ở Thành phố Hồ Chí Minh bị nhập nước
do thuỷ triều dâng.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG
Bước 1:
II. Thủy triều.
GV yêu cầu học sinh đọc và nghiên cứu kỹ các
hình trong sách giáo khoa, trả lời các câu hỏi sau:
- Thuỷ triều là gì? (Quan sát hình 6)
- Nguyên nhân hình thành thuỷ triều?
- Khi nào dao động thuỷ triều lớn nhất? Lúc đó ở
Trái Đất sẽ nhìn thấy mặt trăng như thế nào?
(Quan sát hình 16.1 và 16.2- SGK)
- Khi nào dao động thuỷ triều nhỏ nhất? Lúc đó ở
Trái Đất sẽ nhìn thấy mặt trăng như thế nào?
(Quan sát hình 16.1 và 16.3- SGK)
Bước 2:
- Học sinh trình bày kiến thức
- GV theo dõi học sinh trả lời và đặt câu hỏi phát 1. Khái niệm:
13
vấn.
Thuỷ triều là hiện tượng
- Các học sinh khác theo dõi, nhận xét về trình dao động thường xuyên, có
bày của bạn và bổ sung kiến thức.
chu kỳ của các khối nước
Bước 3.
trong các biển và đại
Giáo viên chuẩn xác kiến thức và hướng dẫn học dương.
sinh trả lời các câu hỏi sau:
2. Nguyên nhân:
- Nghiên cứu về thuỷ triều có ý nghĩa như thế Do sức hút của Mặt Trăng,
nào đối với sản xuất và quân sự?
Mặt Trời.
+ Đối với sản xuất: Hoạt động giao thông vận 3. Đặc điểm:
tải, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản, làm - Khi Mặt Trời, Mặt Trăng
muối, sản xuất điện...(Hình 7,8,9,10)
và Trái Đất cùng nằm trên
+ Trong lĩnh vực quân sự : Liên hệ năm 938, Ngô một đường thẳng thì dao
Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch động thuỷ triều lớn nhất
Đằng nhờ lợi dụng chu kì lên xuống của thủy
(triều cường).
triều (Hình 11)
=> Lúc đó ở trái đất sẽ
Tuy nhiên, thủy triều cũng có những ảnh hưởng nhìn thấy mặt trăng ở vị trí
không tốt, chẳng hạn như việc triều đã làm ngập số 1 (không trăng) và vị trí
úng ở thành phố Hồ Chí Minh (Hình 12).
số 3 (trăng tròn).
Bước 4.
- Khi Mặt Trời, Mặt Trăng
- HS tự đánh giá kết quả làm việc của mình.
và Trái Đất nằm vuông góc
- GV đánh giá cho từng HS khi trả lời.
với nhau thì dao động thuỷ
Chuyển ý: Khi nhắc đến khái niệm “dòng sông” triều nhỏ nhất (triều kém).
chúng ta sẽ hình dung ngay đến những dòng sông => Lúc đó ở trái đất sẽ
xinh đẹp ở lục địa, hôm nay chúng ta sẽ được tìm nhìn thấy mặt trăng ở vị trí
hiểu những "dòng sông” không chảy trên lục địa số 2 (trăng khuyết) và vị trí
mà chảy ngay trong biển cả, giới thiệu phần III.
số 4 ( trăng khuyết).
HOẠT ĐỘNG 3: Tìm hiểu về dòng biển. (15 phút)
- Mục tiêu: Nhận biết được đặc điểm phân bố của các dòng biển trên Trái Đất
-Phương pháp/Kĩ thuật: Đặt câu hỏi/ Hợp tác.
- Hình thức tổ chức hoạt động: Cả lớp/ thảo luận nhóm.
- Phương tiện dạy học: Bản đồ các dòng biển trên thế giới [10].
14
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
Bước 1:
- GV yêu cầu cả lớp trình bày khái niệm và phân loại về
dòng biển.
- Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm (giáo viên phát phiếu
học tập cho từng nhóm). Các nhóm nghiên cứu kiến thức
sách giáo khoa, quan sát các hình 16.4- SGK, hình 22.4
thảo luận, hoàn thành phiếu học tập sau (thời gian thảo
luận: 5 phút)
Nhóm 1: Hoàn thành phiếu học tập số 1
Bán Tính chất
Tên
Nơi xuất
Hướng
cầu dòng biển
gọi
phát
chảy
Bắc
Nóng
Nhóm 2: Hoàn thành phiếu học tập số 2
Bán Tính chất
Tên
Nơi xuất
Hướng
cầu dòng biển
gọi
phát
chảy
Bắc
Lạnh
Nhóm 3: Hoàn thành phiếu học tập số 3
Bán Tính chất Tên
Nơi xuất
Hướng chảy
cầu dòng biển
gọi
phát
Nam
Nóng
Nhóm 4: Hoàn thành phiếu học tập số 4
Bán
Tính chất
Tên Nơi xuất
Hướng
cầu
dòng biển
gọi
phát
chảy
Nam
Lạnh
Bước 2:
- Các nhóm tiến hành thảo luận các nội dung trên.
- GV quan sát, theo dõi học sinh thảo luận.
- Đại diện nhóm lên trình bày kết hợp với chỉ hình 22.4.
NỘI DUNG
III. DÒNG BIỂN
1. Khái niệm và
phân loại:
a. Khái niệm:
Dòng biển là dòng
nước chuyển động
trong
các
đại
dương.
b. Phân loại: có 2
loại dòng biển.
- Dòng biển nóng.
- Dòng biển lạnh.
(Phiếu học tập ở
phần phụ lục).
2. Phân bố:
- Dòng biển nóng:
Thường phát sinh ở
hai bên đường xích
đạo
chảy
theo
hướng Tây, gặp lục
địa chuyển hướng
chảy về cực.
- Dòng biển lạnh:
Xuất phát từ vĩ
tuyến 30 - 400 gần
bờ đông các đại
dương chảy về xích
đạo.
Dòng biển nóng,
15
- Các học sinh khác theo dõi, nhận xét về trình bày của
bạn.
Bước 3.
Giáo viên chuẩn xác kiến thức và hướng dẫn học sinh trả
lời các câu hỏi sau:
- Tác động của dòng biển nóng, lạnh đối với khí hậu ven
bờ nơi nó chảy qua?
GV: Dòng nóng kết hợp với gió gây mưa lớn, dòng lạnh
kết hợp với gió gây nghịch nhiệt làm thời tiết khô hơn,
giáo viên liên hệ với thời tiết khu Đông Bắc vào mùa
Đông của Việt Nam với thời tiết lạnh khô.
- Chứng tỏ các dòng biển thường chảy đối xứng qua 2
bên bờ đại dương? Rút ra kết luận về quy luật dòng biển
ở 2 bán cầu .
- Tại sao hướng chảy của các vòng hoàn lưu lớn ở bán
cầu Bắc theo chiều kim đồng hồ, còn ở bán cầu Nam thì
ngược lại? (do lực coriolit, hướng gió tác động, Bắc bán
cầu lục địa nhiều...)
Bước 4.
- HS đánh giá kết quả làm việc giữa các nhóm.
- GV đánh giá, cộng điểm nhóm nắm bài tốt.
lạnh hợp lại thành
vòng hoàn lưu ở
mỗi bán cầu. Ở vĩ
độ thấp hướng chảy
của các vòng hoàn
lưu Bắc Bán Cầu
cùng chiều kim
đồng hồ, Nam Bán
Cầu ngược chiều.
- Ở Bắc Bán Cầu có
dòng biển lạnh xuất
phát từ cực men
theo bờ Tây các đại
dương chảy về xích
đạo.
- Các dòng biển
nóng, lạnh đối xứng
nhau qua bờ đại
dương.
- Vùng có gió mùa,
dòng biển đổi chiều
theo mùa.
IV.TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP (5 phút)
1. Tổng kết:
GV đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức của học sinh.
Câu 1. Sóng biển là
A. hình thức dao động của nước biển theo chiều thẳng đứng.
B. hình thức dao động của nước biển theo chiều nằm ngang.
C. hình thức chuyển động của nước biển theo chiều thẳng đứng.
D. quá trình chuyển động của nước biển theo chiều thẳng đứng [10].
Câu 2. Nguyên nhân chủ yếu tạo nên sóng là
A. núi lửa phun dưới biển.
B. động đất.
C. gió.
D. dòng biển [10].
Câu 3. Dao động thủy triều lớn nhất khi
A. Mặt Trăng, Mặt Trời, Trái Đất nằm trên cùng một mặt phẳng.
B. Trái Đất ngả bán cầu Bắc về phía Mặt Trời.
C. Mặt Trăng, Mặt Trời, Trái Đất nằm thẳng hàng.
D. Trái Đất nằm ở vị trí gần Mặt Trời nhất [10].
Câu 4. Đặc điểm nào sau đây đúng với dòng biển nóng?
A. Xuất phát ở những khu vực gió mùa.
B. Xuất phát từ các vùng cực chảy về phía xích đạo.
C. Xuất phát từ 30-40 vĩ độ chảy về xích đạo.
D. Xuất phát từ 2 bên xích đạo, chảy về cực [10].
Câu 5: Các dòng biển lạnh thường
A. xuất phát ở vĩ độ 30-40 chảy về phía xích đạo.
16
B. phát sinh ở hai bên xích đạo chảy về hướng Tây.
C. xuất phát từ cực chảy về xích đạo.
C. men theo theo bờ Tây các đại dương từ cực về xích đạo [10].
Đáp án: 1-A, 2-C, 3-C, 4-D, 5-A.
2. Hướng dẫn học tập.
- Trả lời câu hỏi và bài tập sau bài học.
- Sưu tầm các hình ảnh, bài viết về hiện tượng sóng biển, sóng thần, thuỷ
triều, dòng biển qua sách báo và Internet.
- Đọc trước bài 17.
V. PHỤ LỤC: Thông tin phản hồi [2].
Bán
Tính
Tên gọi
Nơi xuất
Hướng chảy
cầu
chất
phát
dòng
biển
1. Dòng biển Bắc Thái Bình Xích đạo
Chảy về hướng
Nóng Dương.
Tây, khi gặp lục
2. Dòng biển Gulfsteam
địa thì chảy lên
3. Dòng biển Ghine.
hướng Bắc.
4. Dòng biển theo gió mùa.
Bắc
5. Dòng biển Bắc xích đạo.
Lạnh 1.Dòng biển Califonia
Khoảng vĩ Men theo bờ
2. Dòng biển Labrado
tuyến 30Tây của các đại
0
3. Dòng biển Canary.
40 B hoặc dương chảy về
4. Dòng biển Oiasivo
từ cực
xích đạo
1. Dòng biển Brazil.
Xích đạo
Chảy về hướng
Nóng 2. Dòng biển Mozambich.
Tây,khi gặp lục
3. Dòng biển Đông Úc.
địa thì chuyển
4. Dòng biển Nam xích đạo.
hướng về phía
Nam
Nam cực.
Lạnh 1. Dòng biển theo gió Tây.
Khoảng vĩ Chảy về phía
2. Dòng biển Peru
tuyến 30xích đạo
0
3. Dòng biển Benghela.
40 Nam
4. Dòng biển Tây Úc.
Như vậy, việc sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong mỗi
bài, mỗi phần là rất cần thiết. Vì qua đó, mới phát triển ở người học năng lực
sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, đề cao vai trò của người học đó là học bằng
hoạt động. Thông qua hoạt động của chính người học, để chiếm lĩnh kiến thức,
hình thành năng lực và những phẩm chất của người lao động. Giáo viên giữ vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt cho học sinh có thể
thực hiện các hoạt động học tập một cách hiệu quả.
2.4. Kết quả nghiên cứu:
- Qua việc sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn
học sinh tự học, tự khai thác kiến thức trong bài 16: Sóng. Thuỷ Triều. Dòng
biển, tôi thấy đã đạt được những kết quả tích cực sau:
Đối vói hoạt động giáo dục:
17
- Qua thực tiễn đề tài giúp cho hoạt động giáo dục thực hiện tốt việc đổi
mới phương pháp dạy học trong từng bài, từng phần, từng nội dung kiến thức.
- Hướng dẫn học sinh biết cách tự học, tự khai thác kiến thức một cách
hiệu quả nhất.
- Từ việc sử dụng phương pháp đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp
hoạt động nhóm sẽ giúp giáo viên đánh giá tốt hơn việc tiếp thu kiến thức của
từng học sinh.
- Vận dụng các phương pháp này trong quá trình dạy và học bộ môn Địa lí
ở trường phổ thông.
Đối vói bản thân:
- Khi áp dụng các phương pháp dạy và học tích cực vào bài giảng, bản
thân thấy giờ giảng trở nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa hơn.
- Trong quá trình giảng bài không còn bị gò bó với lượng kiến thức lớn,
mà bài giảng trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn.
Đối vói đồng nghiệp:
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài còn là tư liệu cần thiết cho đồng
nghiệp tham khảo.
- Tổ nhóm chuyên môn có thể dự giờ, đánh giá, cùng trao đổi chuyên môn
để rút ra kinh nghiệm cần thiết trong quá trình dạy và học.
Đối vói Nhà trường:
Khi giáo viên áp dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực này, sẽ giúp
cho chất lượng giáo dục của Nhà trường được nâng cao.
. Đối với học sinh:
- Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực sẽ giúp học sinh biết
cách tự học, tự khai thác kiến thức qua việc hướng dẫn của giáo viên, học sinh
sẽ phát huy được tính sáng tạo, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, bỏ được
thói quen học thụ động,
- Học sinh ngoài việc tự học còn biết trao đổi thảo luận với bạn trong
nhóm, trên lớp, đề xuất ý kiến, biết quản lí thời gian khi hoạt động nhóm, tự tin
khi trình bày một vấn đề địa lí.
- Học sinh được giải trí với các câu thơ, bài hát, những câu hỏi đố vui mà
các bạn và cô giáo cung cấp.
- Giờ học trở nên nhẹ nhàng nhưng khắc sâu được kiến thức, học sinh
thuộc bài tại lớp.
Từ chỗ không thích học thì nay nhiều em đã hăng say, hứng thú học tập và
xung phong trả lời các câu hỏi phát vấn mỗi khi giáo viên đưa ra.
Do đó, khi kiểm tra khảo sát thực tế ở 2 nhóm lớp khối 10 khi dạy bài 16:
Sóng. Thuỷ triều. Dòng biển, bằng phương pháp truyền thống và phương pháp
dạy học tích cực, thì kết quả có sự khác nhau: Nhóm lớp sử dụng phương pháp
dạy học tích cực (10A2, 10A3), thì số học sinh khá, giỏi chiếm tỉ lệ cao hơn; còn
nhóm lớp sử dụng phương pháp truyền thống (10A7, 10A9), số học sinh trung
bình và yếu chiếm tỉ lệ còn nhiều.
Lớp 10A2, 10A3: Sử dụng phương pháp dạy học tích cực.
Lớp 10A7, 10A9: Sử dụng phương pháp truyền thống.
*Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
18
So sánh
Lớp
Tổng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
số
SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
Lớp thực 10A2 44
11 25 % 23 52,27% 10 22,73% 0
0
nghiệm 10A3 47
8 17,1% 24 51,0% 15 31,9%
0
0
Lớp đối 10A7 38
1 2,63% 10 26,32% 25 65,79% 2 5,26%
chứng
10A9 34
0
0
5 14,70% 26 76,47% 3 8,83%
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận:
Qua quá trình giảng dạy tại trường THPT Vĩnh Lộc, bản thân tôi đã rút ra
được những bài học bổ ích, những kinh nghiệm quý báu từ việc “Sử dụng một
số phương pháp dạy học tích cực để hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác
kiến thức trong bài 16: Sóng. Thuỷ triều. Dòng biển- Địa lí 10”.
Bởi thông qua đó, bước đầu đã hình thành cho các em tính tự lực trong
việc lĩnh hội tri thức, tạo điều kiện cho các em học cách chia sẻ, giúp đỡ và tôn
trọng lẫn nhau, tăng cường sự tham gia và nâng cao hiệu quả học tập.
Qua việc nghiên cứu đề tài, còn giúp cho bản thân và các thầy cô giáo
giảng dạy bộ môn Địa lí có thể ứng dụng ngay trong các bài giảng.
3.2. Kiến nghị:
Đối với Sở GD và ĐT:
Tăng cường các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học để giáo
viên áp dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Đối với Nhà trường:
Trong điều kiện Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc sử dụng một
số phương pháp dạy học tích cực là rất cần thiết. Để thực hiện tốt được các
phương pháp này trong mỗi bài giảng thì cần phải có đủ cơ sở vật chất, thiết bị
cần thiết để phục vụ bài giảng. Do vậy, Nhà trường cần trang bị thêm các
phương tiện, thiết bị, đồ dùng dạy học...để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho giáo
viên trong việc thực hiện phương pháp này.
Đối với giáo viên:
- Phải thực sự có tinh thần trách nhiệm cao trong việc dạy học, luôn yêu
nghề và hết lòng với công việc được giao.
- Phải đầu tư thời gian cho bài soạn để các hoạt động trong tiết dạy đạt
được mục tiêu của bài học.
- Phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực trong
từng bào, từng phần để hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức qua
bài giảng.
- Bản thân luôn phải có ý thức học hỏi, không ngừng nâng cao trình độ
chuyên môn để đáp ứng được yêu cầu dạy học trong thời đại mới.
Trên đây là những ý kiến chủ quan của cá nhân tôi từ thực tiễn giảng
dạy. Trong quá trình làm đề tài cũng không tránh khỏi những thiếu sót và khiếm
khuyết. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của Hội đồng khoa học
ngành Giáo dục Tỉnh, các thầy giáo, cô giáo và đồng nghiệp để cho đề tài của tôi
được đầy đủ và hoàn thiện hơn, cũng như có thể thực hiện tốt hơn các đề tài lần
sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
19
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết
Phạm Thị Bình
20