Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12a6 và lớp 10a9 trường THPT đông sơn 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.87 KB, 19 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong sự phát triển của một quốc gia, giáo dục chính là công cụ để phát
triển chất lượng nguồn nhân lực con người. Phát triển giáo dục luôn là một động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là
điều kiện phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo
dục trung học phổ thông đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển và hình
thành những phẩm chất của người học.
Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2015 của Bộ giáo
dục và đào tạo nêu rõ: Giáo dục cấp THPT hiện hành ngoài mục tiêu củng cố
và phát huy kết quả của giáo dục THCS, còn giúp học sinh “có những hiểu biết
thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát
triển và phát huy năng lực cá nhân” [1]. Chương trình giáo dục trung học phổ
thông giúp học sinh: “ tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực của
người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học
tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích,
điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham
gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối
cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới”.[2]
Việc giáo dục học sinh là công việc không đơn giản. Giáo dục là khoa học
nhưng cũng là nghệ thuật. Trong trường học, người giáo viên gắn liền với hai
nhiệm vụ: vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích đào tạo ra những
học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Học sinh đang
ở độ tuổi trưởng thành và rất nhạy cảm. Bên cạnh những học sinh chăm ngoan,
thì cũng có một số học sinh ngang bướng, ngỗ nghịch, không chấp hành nội quy
học sinh...Những học sinh này được gọi là: Học sinh cá biệt.
Gần đây, các thông tiện thông tin báo chí, truyền hình đã đưa tin khá nhiều
về tình hình học sinh cá biệt. Vấn đề này đã trở thành mối lo ngại của xã hội, gia
đình và nhà trường. Học sinh cá biệt hầu như trường nào cũng có. Học sinh cá
biệt không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn cho sự phát triển của nhà trường.


Xã hội ngày càng phát triển thì cùng với đó là sự du nhập nhiều yếu tố thiếu
lành mạnh từ xã hội tác động đến các em. Sự buông lỏng quản lí của gia đình,
sự đua đòi bạn bè ... đã làm cho số lượng học sinh cá biệt có xu hướng gia tăng.
Vấn đề học sinh cá biệt ngày một gia tăng đặt ra nhiều câu hỏi: Làm thế
nào để giảm thiểu học sinh cá biệt? Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học
sinh cá biệt? Làm thế nào để các em hòa nhập với tập thể? Làm thế nào để hình

1


thành ở các em những năng lực và phẩm chất của một công dân tốt?.. Vấn đề
giáo dục học sinh cá biệt nhằm giúp các em trở thành công dân có ích cho xa
hội đã và đang trở thành một yêu cầu cấp thiết của xã hội đặt ra cho ngành
giáo dục nói chung và của người giáo viên nói riêng.
Là một giáo viên vừa trực tiếp giảng dạy, vừa làm công tác chủ nhiệm, bản
thân tôi cũng gặp phải một số học sinh cá biệt. Từ thực tế làm công tác chủ
nhiệm nhiều năm, qua học hỏi ở đồng nghiệp, tham khảo phương pháp giáo dục
trên các tài liệu, trên truyền hình , bản thân tôi cũng rút ra được một số kinh
nghiệm trong công tác giáo dục học sinh cá biệt. Với đề tài: “Một số biện pháp
giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12A6 và 10A9 – trường THPT Đông Sơn 1” ,
tôi mong muốn góp thêm một tiếng nói góp phần ngăn chặn, giảm thiểu số
lượng học sinh cá biệt, nâng cao chất lượng nguồn lao động tương lai cho đất
nước trước hết về tư cách đạo đức.
1. 2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu các nguyên nhân cơ bản dẫn đến hành vi sai lệch của học sinh cá
biệt, thiếu động cơ học tập. Qua đó, giúp các em định hướng được hành vi và có
động cơ học tập, rèn luyện tốt hơn.
- Tìm ra các phương pháp, kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt để các em trở
thàng người có ích cho gia đình và xã hội.
- Phương pháp đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh cá biệt.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Lớp A6(niên khóa 2013 – 2016) và lớp 10A9(năm học 2016 – 2017)
trường THPT Đông Sơn 1
- Những học sinh thuộc diện cá biệt:
Lớp A6(niên khóa 2013 – 2016):
1. Em Nguyễn Đình Dũng
2. Em Trần Văn Trường
3. Em Lê Văn Hải
4. Em Lê Viết Anh
5. Phạm Văn Dũng
Lớp 10A9 (Năm học 2016-2017) :
1. Em Nguyễn Đức Mạnh
2. Em Nguyễn Tiến Mạnh
3. Em Lê Thị Hồng Chinh
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin:

2


+ Nghiên cứu hồ sơ: Bước làm đầu tiên để tìm hiểu nét cơ bản nhất của học
sinh cá biệt.
+ Trò chuyện, trao đổi trực tiếp học sinh cá biệt, bạn bè, gia đình, thầy cô
giáo.
+ Tham khảo ý kiến đồng nghiệp, những người có kinh nghiệm.....
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, quan sát thường xuyên, toàn diện
các biểu hiện, hành vi của học sinh cá biệt.
- Phương pháp ghi chép, thống kê xử lí số liệu, đánh giá kết quả rèn luyện
của học sinh cá biệt.


3


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Quan điểm giáo dục hiện đại đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ “dạy người”
song song với mục tiêu “dạy chữ”. Hiện nay nhiều trường luôn chạy đua theo
thành tích học tập mà quên đi nhiệm vụ cao cả của nghề dạy học là giáo dục
nhân cách, đạo đức cho học sinh, từng bước hoàn thiện, từ cái chưa có thành cái
có, giáo dục, cảm hóa học sinh hư hỏng, nghịch ngợm thành học sinh ngoan.
Thực trạng học sinh cá biệt đang ngày một gia tăng đang gióng lên hồi chuông
báo động về sự xuống cấp lí tưởng, đạo đức, lối sống trong thanh thiếu niên, đòi
hỏi sự quan tâm, vào cuộc của toàn xã hội.
Trước hết, chúng ta cần hiểu đúng khái niệm học sinh cá biệt. Học sinh cá
biệt là thuật ngữ thường dùng của nhà trường, thầy cô giáo chỉ :“ Những học
sinh có những thái độ, hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền thống
của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học sinh,
hoặc thiếu văn hoá, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, đồng thời
không có động cơ học nên kết quả học tập yếu, kém... được lặp lại thường xuyên
và trở thành hệ thống đuợc coi là cá biệt”[3 ].
Biểu hiện của học sinh cá biệt cũng vô cùng phức tạp: Cá biệt là do vi
phạm nội quy của Nhà trường, của lớp, mất trật tự trong giờ học, lười học bài, đi
học muộn …Cá biệt là do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học, lừa dối bố mẹ,
thầy cô.
Cá biệt là do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, hỗn láo với thầy cô giáo, cha
mẹ, hay nói tục chửi bậy. Cá biệt là do vi phạm pháp luật, đánh bạn, trộm cắp,
trấn lột, cờ bạc…Cá biệt là do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè,
hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ (nhóm học sinh cá biệt này đang có
xu hướng gia tăng trong xã hội hiện nay).
Học sinh cá biệt thường rất nghịch ngợm, hiếu động, không làm chủ được

bản thân, dễ bị lôi cuốn , bị tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, những tác động
tiêu cực từ bên ngoài xã hội , dẫn đến tình trạng bỏ học giữa chừng và có nguy
cơ phạm tội là nỗi day dứt của nhà trường, gia đình và xã hội .
Vì vậy, chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cá
biệt là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục
học sinh cá biệt có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với xã hội: Thành công trong
giáo dục học sinh cá biệt sẽ góp phần vào giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, cung
cấp cho xã hội những công dân tốt. Đối với gia đình: Đem lại niềm hạnh phúc
cho phụ huynh, giúp họ tránh được nỗi bất hạnh lớn nhất là con cái hư hỏng. Đối
với tập thể lớp: đảm bảo cho lớp ổn định, trật tự, nề nếp. Để làm được điều này

4


đối với giáo viên chủ nhiệm là một nhiệm vụ không dễ dàng. Công tác này đòi
hỏi người thầy không chỉ có tâm, mà còn phải khéo léo, tinh tế, nghệ thuật ứng
xử phù hợp, biện pháp, hình thức giáo dục thích hợp, mang lại hiệu quả cao
nhất.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi
Trường THPT Đông Sơn 1 là ngôi trường có bề dày truyền thống hơn 50
năm. Hằng năm, công tác giảng dạy và giáo dục của nhà trường đều đạt được
những thành tích đáng mừng. Bên cạnh mục tiêu “dạy chữ”, thì việc giáo dục
đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà
trường. Hạn chế được những đối tượng học sinh yếu về mặt đạo đức là góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Vì vậy, công tác này
luôn được sự quan tâm của Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường .
Địa bàn sinh sống của đa số học sinh là ở gần trường, gia đình thuần nông
là chủ yếu. Tuy cuộc sông còn nhiều khó khăn, nhưng nhiều phụ huynh rất quan
tâm đến việc học tập của các em.

Công tác trong ngành giáo dục 23 năm, bản thân tôi đã từng trải qua công
tác chủ nhiệm hơn 20 năm, tôi nhận thấy rằng không có học sinh nào là cá biệt
vĩnh viễn. Nếu gần gũi các em, ta sẽ thấy rằng các em hoàn toàn có thể thay đổi
theo chiều hướng tích cực. Thậm chí, có thể là những học sinh rất thông minh
và một khi giáo viên biết lắng nghe, học sinh được vị tha và yêu thương, các em
sẽ trở thành những học sinh tốt.
2.2.2. Khó khăn
Lớp A6 (niên khóa 2013-2016) và lớp 10A9 ( năm học 2016-2017) do
tôi làm chủ nhiệm là một lớp có chất lượng đầu vào ở mức độ trung bình.
Bên cạnh nhiều học sinh trong lớp ngoan, có ý thức học tập thì có khá
nhiều em là học sinh cá biệt, lưu ban. Biểu hiện của học sinh cá biệt thường rất
phức tạp. Mỗi học sinh cá biệt có những hành vi, biểu hiện không dễ nắm bắt. Vì
vậy, việc tìm giải pháp thích hợp với từng em để giáo dục cũng không hề đơn
giản.
Nhiều em học sinh là con của những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố
mẹ đi làm xa, các em phải ở với ông bà, hoặc anh em họ hàng. Không được bố
mẹ trực tiếp nuôi dạy và giáo dục, lại chịu trực tiếp những tác động tiêu cực từ
xã hội bên ngoài nên nhiều em dễ bị bạn bè lôi kéo và sa ngã. Các em hay bỏ
học đi chơi, tụ tập bạn bè, la cà quán xá, gây gổ đánh nhau. Một số em còn vô lễ
với giáo viên...
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến hành vi của học sinh cá biệt?

5


Thứ nhất phải kể đến xuất phát từ gia đình. Gia đình thiếu sự quan tâm hay
quá tin tưởng, chiều chuộng các em; những éo le trong cuộc sống gia đình cũng
ảnh hưởng rất lớn đến học sinh.
Thứ hai là từ xã hội: Sự phát triển của công nghệ thông tin, mặt trái của cơ
chế thị trường đã đem đến nhiều cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực đến học sinh.

Thứ ba, nhà trường chưa tạo được nhiều sân chơi, chưa tổ chức được đa
dạng các hoạt động ngoại khóa để các em tham gia mà chủ yếu là chú trọng giáo
dục tri thức.
Thứ tư, bản thân học sinh lại ở giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi, từ
tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình
nhưng hiểu biết, chưa hoàn thiện, đôi khi do bản năng hoặc đua đòi. Khi đạo đức
yếu kém thì học lực cũng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả là các
em bị hổng kiến thức căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp các
em mặc cảm đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học, cuối cùng
là nảy sinh tâm lý bỏ học.
Thứ năm, một số em có niềm tin sai về giá trị của con người và cuộc sống,
chán nản, chưa có mục đích học tập rõ ràng, chưa nhận thức được trách nhiệm,
bổn phận của bản thân.
Những yếu tố trên tạo nên những khó khăn không nhỏ trong quá trình giáo
dục học sinh cá biệt.
2.3. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt hiệu quả
Trong quá trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm nên tôi đã
gặp một số học sinh cá biệt. Hơn bao giờ hết, giáo dục học sinh cá biệt đòi hỏi
người giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, phải kiên trì, phải thực sự có
tấm lòng bao dung, yêu thương và biết cảm thông. Trong quá trình làm công tác
giáo dục học sinh cá biệt, tôi luôn đảm bảo sự mềm dẻo, linh hoạt, giữa nghiêm
khắc và mềm mỏng, giữa nguyên tắc và linh động trong nguyên tắc. Tôi đã tìm
tòi, nghiên cứu và sử dụng một số phương pháp, kỹ năng giáo dục học sinh cá
biệt và thấy có hiệu quả nhất định. Sau đây tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm
mang lại thành công cho tôi trong việc giáo dục các học sinh cá biệt.
2.3.1. Nhanh chóng nắm bắt thông tin và kịp thời tìm hiểu nguyên nhân
các biểu hiện của học sinh cá biệt
Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành cá biệt, đó là hậu quả của các vết
thương tâm lý mà do vô tình người lớn gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống
trong môi trường gia đình như: bố mẹ bỏ nhau, bố mẹ hay uống rượu, cãi vã,

đánh đập... Bên cạnh đó, cũng có thể do gia đình khó khăn, do bố mẹ đi làm ăn
xa hoặc quá chú tâm vào việc kiếm tiền mà không quan tâm đến sự phát triển

6


của con cái để trẻ bị lôi kéo bởi những kẻ xấu, lông bông… Nắm rõ hoàn cảnh
gia đình của từng học sinh, nhất là học sinh cá biệt giúp chúng ta nhanh chóng
tìm ra giải pháp có hiệu quả hơn. Việc nắm bắt thông tin và kịp thời tìm hiểu
nguyên nhân các biểu hiện của học sinh cá biệt được tôi thu thập qua học sinh
trong lớp, nhất là những học sinh gần nhà, cán sự lớp.
Bên cạnh đó, giáo viên bộ môn đóng một vai trò cực kì quan trọng trong
giáo dục nhân cách học sinh. Việc nắm bắt thông tin kịp thời từ giáo viên bộ
môn là vô cùng cần thiết. Khi học sinh có các biểu hiện cá biệt, tôi trực tiếp gặp
giáo viên bộ môn để trao đổi, tìm hiểu.
Ngoài ra, tôi dành thời gian nhất định theo dõi mạng xã hội mà học sinh sử
dụng. Có một thức tế là học sinh cá biệt rất thích mạng xã hội. Các em xem đó
cũng chính là nơi để thể hiện mình qua những trạng thái được đăng và chia sẻ
công khai. Đôi khi mầm mống của những mâu thuẫn, những kế hoạch hay dự
định “nổi loạn” được thông báo mà không hề giấu giếm. Những thông tin này
giúp chúng ta có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành động sai trái, tránh được
những hậu quả đáng tiếc.
Từ những thông tin thu thập được, tôi ghi vào sổ tay chủ nhiệm của mình
hoàn cảnh và thường xuyên cập nhật các biểu hiện của từng em. Nắm vững đặc
điểm này, tôi có các biện pháp phù hợp để giáo dục đối với từng học sinh.
Biểu hiện cụ thể và hoàn cảnh của từng học sinh được thống kê như sau:
STT

1


2

3

4

Họ và tên

Biểu hiện cá biệt
Hay bỏ học, xin tiền
Nguyễn Đình Dũng
đóng góp rồi chi dùng
(Lớp A6 – niên khóa
vào các mục đích riêng,
2013 - 2016)
cắm đồ, thậm chí mượn
đồ của bạn để cắm…
Trần Văn Trường
Hay bỏ học, ham mê chơi
(Lớp A6 – niên khóa điện tử…
2013 - 2016)

Hoàn cảnh
Bố mẹ đều bận đi
làm, học lực yếu.

Học sinh lưu ban, bố
mẹ ít có thời gian
quan tâm, nhà xa…,
học lực yếu.

Nguyễn Viết Anh
Thường xuyên bỏ học, Học lực yếu.
(Lớp A6 – niên khóa ham mê chơi điện tử…
2013 - 2016)
Lê Văn Hải
Thường xuyên bỏ học, Ở với bà nội đã cao
(Lớp A6 – niên khóa nhất là các buổi chiều, tuổi, bố mẹ đi làm xa
2013 - 2016)
mê chơi điện tử…
nên thiếu sự sát sao
của bố mẹ.
7


Phạm Văn Dũng
Thường xuyên bỏ học, Ở với bà ngoại đã cao
5 (Lớp A6 – niên khóa mê chơi điện tử, liên tục tuổi, sống thiếu bố từ
2013 - 2016)
bị ghi vào sổ đầu bài…
nhỏ, mẹ đi làm xa .
Nguyễn Đức Mạnh
Hay bỏ học, không chịu Gia đình có điều
6 Lớp 10A9
học bài, thường xuyên bị kiện , nhưng được
(năm học 2016-2017) ghi vào sổ đầu bài.
nuông chiều.
Nguyễn Tiến Mạnh
Hay bỏ học, nói chuyện Bố mẹ li thân, mẹ đi
7 Lớp 10A9
riêng, không chịu học làm xa.

(năm học 2016-2017) bài.
Lê Thị Hồng Chinh
Không chú ý học, hay sử Bố mẹ ít quan tâm ...
8 Lớp 10A9
dụng điện thoại, trang
(năm học 2016-2017) điểm lòe loẹt, yêu sớm ...
2.3.2. Xây dựng quan hệ tin cậy, tôn trọng, thân thiện vớí học sinh cá
biệt. Xây dựng một tập thể lớp biết đoàn kết, tương trợ lẫn nhau.
Xây dựng môi trường lớp học thân thiện nhằm đáp úng các nhu cầu được
yêu thương, đuợc tôn trọng và có giá trị của từng thành viên trong tập thể lớp,
đặc biệt là đối với những học sinh chán nản, chậm tiến. Bời vì môi trường thân
thiện chứa đựng sự cảm thông, chia sẻ, hợp tác, yêu thương, tôn trọng, được
thừa nhận, không phân biệt đổi xử với tất cả học sinh thuộc các thành phần xã
hội khác nhau. Giúp học sinh nhận thấy mình có giá trị, mình có khả năng, mọi
người yêu quý, tôn trọng và tin tưởng mình sẽ thay đổi. Cuộc sống và tương lai
của bản thân, của gia đình đang rất cần sự cố gắng vầ thay đổi của chính các em.
Khi tập thể lớp có tinh thần đoàn kết cao, có ý thức xây dựng , nề nếp tốt
sẽ có vai trò tích cực trong giáo dục học sinh cá biệt. Bên cạnh việc lựa chọn cán
sự lớp, đặc biệt là lớp trưởng - cánh tay đắc lực của mình thì tôi cũng quan tâm
đến việc sắp xếp chỗ ngồi . Tôi luôn sắp xếp cho một cán sự lớp ngồi cạnh và
chịu trách nhiệm kèm cặp học sinh cá biệt. Ví dụ: Tôi xếp em Nguyễn Đức
Mạnh ngồi cạnh lớp phó học tập là Trần Thị Minh Châu vì Châu học giỏi, có
khả năng thuyết phục người khác; Tôi xếp em Lê Thị Hồng Chinh ngồi cạnh
Nguyễn Văn Toàn vì Toàn điềm đạm, biết lắng nghe, chia sẻ ; Phạm Văn Dũng
ngồi cạnh Nguyễn Trọng Hải –lớp trưởng – vì 2 em từng là bạn học cấp 2, lại
gần nhà nhau…
Thường lứa tuổi HọC SINH dễ bị ảnh hưởng những thói hư tật xấu nhưng
cũng dễ tiếp thu những điều hay lẽ phải, dễ hòa mình vào những trò chơi có tính
tập thể, tính giáo dục cao. Do đó , việc phân công một nhóm bạn tốt, cùng hoàn
cảnh, cùng sở thích, uớc mơ ... sinh hoạt, học tập với học sinh cá biệt dần dần

lôi kéo các em hòa nhập vào các cuộc chơi bổ ích, từ đó xóa bỏ các mặc cảm là

8


học sinh hư để rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể vững
mạnh .
Mặt khác, thông qua nhóm bạn tốt, giáo viên chủ nhiệm giao cho học sinh
cá biệt thực hiện một số công việc, tạo những điều kiện để những HọC SINH
này hoàn thành và động viên khích lệ các em, để các em xóa những tự ti, mặc
cảm là học sinh cá biệt để hòa mình với bạn bè. Ngoài ra , tôi vận động gia đình
của nhóm bạn tốt tham gia vào việc giúp đỡ những học sinh này bằng cách tạo
cho các em tâm lý xem gia đình của bạn như gia đình mình, tạo điều kiện cho
các em cùng tham gia học tập với con em mình để tách dần ra khỏi nhóm bạn
chưa ngoan.
2.3.3. Luôn sát sao, gần gũi, quan tâm và yêu thương với học sinh cá biệt
Với các học sinh cá biệt, việc áp dụng cứng nhắc các quy chế, quy định chỉ
mang lại kết quả ngược lại. Do đó, về giải pháp, trước hết vẫn phải là tình cảm
yêu thương học sinh thực sự, cố gắng giúp các em vượt qua những biến cố, vấn
đề xảy ra trong quá trình sống, thuyết phục học sinh băng lời lẽ có lý, có tình,
bằng tình cảm và khen, chê đúng lúc; tìm cách tác động lên nhận thức và tình
cảm của học sinh thông qua trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt.
Tôi gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình. Thái
độ phải bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, có tình, mức độ nguy hại
của khuyết điểm, thức tỉnh các em bằng những câu chuyện đạo đức để cảm
phục.
Tôi luôn dành thời gian để nói chuyện riêng với mỗi học sinh cá biệt có khi
trực tiếp, cũng có khi qua điện thoại, bằng tin nhắn. Đây là một trong những
biện pháp đặc biệt hiệu quả để được các em chia sẻ, đưa ra lời khuyên mà các
em sẵn sàng tiếp thu. Qua đó, để hiểu các em hơn, để các em có cảm giác gần

gũi. Thái độ trò chuyện chân thành, xem các em như em, như con mình đã giúp
tôi đưa các em ra khỏi thế giới ảo hoặc những buổi lang thang lêu lổng, các em
biết lắng nghe, trở nên hòa đồng hơn …
Muốn thay đổi hành vi của học sinh cá biệt một cách hiệu quả, giáo viên
cần có sự hợp tác của học sinh. Do đó, chủ động tiếp xúc với các em để nắm bắt
về điều kiện và hoàn cảnh, tâm tư, sức khỏe... của học sinh; động viên, an ủi
giúp cho các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc ốm đau, bệnh tật cố gắng
yên tâm học tập và biết vượt khó, vươn lên.
Tôi sắp xếp thời gian cùng cán bộ lớp tới thăm gia đình các học sinh cá
biệt. Với những học sinh khó khăn về kinh tế , tôi cố gắng huy động sự ủng hộ
từ nhiều phía như: Đề xuất lên Hội chữ thập đỏ nhà trường xin cứu trợ thường
xuyên (hoặc cứu trợ đột xuất cho các em) , quyên góp “ Tết vì bạn nghèo” mỗi
9


dịp Tết đến, xuân về...Tôi cũng chia sẽ với phụ huynh về tâm lí lứa tuổi của các
em để phụ huynh gần các em hơn.
2.3.4. Tạo điều kiện để các em phát huy sở trường, đam mê, đồng thời
khích lệ, động viên, khen thưởng kịp thời.
Các em học sinh cá biệt tuy học lực yếu nhưng bù lại lại có những năng
khiếu đặc biệt như văn nghệ, thể dục, thể thao, vi tính,… Những khả năng này,
nhà trường có thể phát huy để các em có thể góp sức vào phong trào hoạt động
của nhà trường và từ đó có thể định hướng cho các em theo đúng sở trường…
Giáo dục học sinh cá biệt chỉ có thể : “Bớt lời, nới tay” mới hiệu quả.
Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của học sinh cá biệt.
Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho học sinh cá
biệt tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự
thể hiện mình. Công tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm
cảm, tự ti. Các em sẽ mạnh bạo, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện. Cho
các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng

sống để các em tiến bộ.
Với các hoạt động Văn hóa, văn nghệ, TDTT của nhà trường, tôi luôn tạo
điều kiện và khích lệ các em tích cực tham gia. Cá nhân tôi cũng là người luôn
quan tâm, tư vấn , giúp đỡ các em trong các cuộc thi văn nghệ, thể dục thể thao
chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày
thành lập Đoàn 26/3...Tôi phải thường xuyên giám sát, kiểm tra và động viên kịp
thời khi học sinh đạt được thành tích dù là nhỏ nhất. Tôi trích một phần quỹ lớp
để mua quà thưởng cho các học sinh đạt điểm cao trong các đợt thi đua. Điều
này, có ý nghĩa khuyến khích học sinh rất lớn.
Mỗi học sinh luôn có những thế mạnh riêng. Học sinh cá biệt cũng vậy.
Phát hiện và tạo điều kiện để các em được phát huy sở trường, đam mê của mình
cũng là một biện pháp giúp các em hòa nhập với lớp, tự tin hơn để khẳng định
bản thân. Ví dụ: học sinh Nguyễn Đức Mạnh là một học sinh tham gia rất nhiệt
tình các hoạt động văn nghệ. học sinh Nguyễn Tiến Mạnh lại rất có năng khiếu
diễn kịch. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp của Đoàn trường, của lớp, hay sinh
hoạt câu lạc bộ văn học dân gian, tôi đều động viên để các em tham gia biểu
diễn. Được tin tưởng, các em đã làm rất tốt. Hòa đồng vào các hoạt động tập thể
chính là cách để hạn chế việc bỏ học, vui chơi bên ngoài của các em. Hoạt động
tập thể luôn là lực hút kéo các em lại với nhau. Khi được khen, hoặc khi các em
trực tiếp tham gia hoạt động tập thể có kết quả tốt, các em vô cùng hào hứng,
vui vẻ.

10


Đối với học sinh cá biệt, khi đã có sự tiến bộ dù là rất nhỏ hoặc mới chỉ là
dấu hiệu của sự tiến bộ, cần phải ghi nhận, khích lệ, động viên các em. Từ đó, để
các em thấy rằng nếu mình cố gắng thì vẫn chưa muộn.
2.3.5. Khen, chê đúng thời điểm. Áp dụng quy định thưởng, phạt “phân minh,
nghiêm túc, công bằng” để học sinh cá biệt có động lực mục tiêu phấn đấu.

Khen ngợi trước, phê bình sau:
Những học sinh cá biệt thường hay mắc lỗi, nhiều khi là lỗi nghiêm trọng.
Nếu phê bình ngay cũng không nên vì sẽ làm tổn thương đến lòng tự trọng của
học sinh và đôi khi gây nên sự phản kháng ở các em. Sự phê bình, trách cứ nặng
nề sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn. Nhưng khi các em mắc lỗi quá
nhiều thì không thể không phê bình, uốn nắn. Vậy nên tôi chọn cách khen ngợi
trước, phê bình sau .
Thường thì học sinh cá biệt luôn muốn làm điều gì đó để được người khác
chú ý đến mình. Vấn đề là trước khi phê bình, giáo viên chủ nhiệm phải tìm ra
được lí do để khen ngợi. Bắt đầu bằng một sự khen ngợi sẽ làm cho học sinh dễ
tiếp thu sự phê bình hơn.
Phê bình gián tiếp, khéo léo, tế nhị
Khi bất ngờ bắt gặp học sinh cá biệt mắc lỗi , không nên phê bình, trách
mắng ngay. Phê bình hay quát mắng ngay lúc đó sẽ làm cho các em xấu hổ, làm
tổn thương đến lòng tự trọng của học sinh. Trong tình huống đó, tôi nhắc nhở
nhẹ nhàng. Những học sinh cá biệt sẽ hiểu thiện ý của giáo viên, không những
các em vui vẻ tiếp thu mà còn cảm phục cách ứng xử khéo léo của thầy, cô giáo.
Từ đó, mới thu phục được các em.
Giữ thể diện cho học sinh cá biệt, không nên ra lệnh cho học sinh.
Học sinh cá biệt vẫn có thể diện của mình. Nhiều khi , có giáo viên kết tội
lỗi lầm của học sinh cá biệt, đe dọa các em, chê bai các em trước mặt bạn bè,
không để ý đến thể diện của các em, xem đó là chuyện bình thường. Nhưng theo
tôi, đó là một sai lầm nghiêm trọng. Ví dụ : nếu có hai học sinh tranh cãi về một
vấn đề và kéo mình vào cuộc làm trọng tài. Đương nhiên, em nào cũng muốn
phần thắng thuộc về mình. Trong tình huống đó, tôi phải xem xét cẩn thận và
tìm ra những điểm có lí của mỗi bên. Không nên kết luận ngay ai đúng, ai sai.
Nên giữ thể diện cho học sinh trước mặt đối phương, sau đó có thể gặp từng em
để trao đổi.
Học sinh cá biệt không thích bị ra lệnh và làm theo mệnh lệnh của giáo
viên. Thay vì ra lệnh cho học sinh làm một việc gì đó thì tôi để học sinh cá biệt

chọn làm một việc bất kì và tự rút ra bài học kinh nghiệm từ những sai sót của
mình. Đó là cách mà học sinh cá biệt vẫn giữ được thể diện trước bạn bè,

11


Mệnh lệnh không phù hợp, giáo viên có thể gây ra cho học sinh phản ứng
ngay lập tức, cho dù đó là mệnh lệnh giúp các em sửa lỗi. Ví dụ: Thấy một xe
đạp của học sinh dựng ngang chắn hết lối đi, cản trở giao thông. Thay vì quát
hỏi: “ Ai dựng xe giữa đường thế này? Dựng xe ra chỗ khác ngay , nếu không
tôi cho người lôi đi ngay bây giờ! ”, thì ta hỏi : “ Em nào để xe giữa đường thế
này nhỉ ?” rồi nhắc các em để xe gọn lại để không làm ảnh hưởng đến người
khác. Chắc chắn học sinh sẽ vui vẻ làm theo .
2.3.6. Tận dụng hiệu quả tối đa các tiết sinh hoạt lớp, các buổi họp phụ
huynh.
Ngoài việc giáo dục Học sinh thông qua giờ sinh hoạt tập thể dưới cờ, giờ
sinh hoạt lớp rất quan trọng trong vấn đề giáo dục học sinh cá biệt. Bởi vì thông
qua giờ sinh hoạt lớp, giáo viên chủ nhiệm và cán bộ lớp kịp thời uốn nắn những
sai trái khuyết điểm của học sinh khi bị vi phạm, lấy tình cảm bạn bè, lấy nghĩa
thầy trò làm cho các em thấy được khuyết điểm của mình. Đồng thời với sự
chân thành của giáo viên chủ nhiệm, học sinh trong lớp thì học sinh khi vi phạm
sẽ sớm nhận ra lỗi lầm của mình mà sửa chữa .
Tổ chức cho Học sinh thảo luận nội qui nhà trường . Để cho học sinh nắm
bắt được việc đánh giá xếp loại hạnh kiểm , tức là những chuẩn mực các em đạt
được trong quá trình rèn luyện hạnh kiểm của mình. Tôi thông báo cho các em
biết được các mức độ xếp loại hạnh kiểm ( tốt, khá, trung bình, yếu ) theo Thông
tư 40, Điều lệ trường phổ thông. Hiểu được thì các em sẽ tránh được vi phạm mà
các em mắc phải, để rồi các em khỏi phải bị xếp loại hạnh kiểm yếu, khỏi phải
liệt vào danh sách học sinh cá biệt.
Trong khi giáo dục các em, giáo viên chủ nhiệm không nên nặng về kiểm

điểm, phê bình, mà phải tìm ra và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến
các em làm cho các em mắc sai lầm, vi phạm, vận dụng những điều khoản trong
nội qui, trong qui định xếp loại của Thông tư 40 làm cho các em thấy được
phạm vi vi phạm ở mức độ nào và nêu ra hướng cho các em khắc phục. Giáo
viên chủ nhiệm nêu những việc làm tốt, những cố gắng nỗ lực của các thành
viên trong lớp để xây dựng tập thể lớp thành lớp tiên tiến … với thành tích như
vậy thì không được bất cứ thành viên nào trong lớp phá vỡ. Ngoài ra, cần phải
đánh giá nhận xét chu đáo, nêu gương người tốt, việc tốt để các em noi theo, hạn
chế những vi phạm nội qui lớp học, trường học .
Các tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm, tôi để cho lớp trưởng, tổ trưởng thực hiện
công việc tổng kết công tác tuần, thông qua các kết quả thi đua đã được đánh giá
dựa vào tiêu chí cho điểm, xếp loại. Sau đó, tôi sẽ đưa ra các hình thức thưởng
phạt hợp lí. Thông thường, khi các học sinh cá biệt vi phạm, tôi trực tiếp gặp gỡ

12


các em trước, trao đổi với các em, tìm hiểu nguyên nhân và để các em được lựa
chọn một hình phạt đưa ra vào tiết sinh hoạt đầu tuần sau. Như vậy, các em sẽ
chấp nhận chứ không phản kháng.
Trong các tiết sinh hoạt, tôi thường đưa ra các tình huống và yêu cầu các
em thảo luận để giải quyết. Đó có thể là những tình huống xảy ra trong thực tế,
cũng có thể là những câu chuyện tôi đọc được trong một cuốn sách, trên một
trang mạng nào đó. Những học sinh cá biệt thường được tôi lựa chọn để nêu
quan điểm đầu tiên. Tôi để các em được thảo luận nêu ý kiến của mình. Sau đó,
nhẹ nhàng uốn nắn suy nghĩ và hành vi của các em.
Đôi khi, tôi tổ chức các tiết sinh hoạt theo giới. Những vấn đề nổi cộm
trong mỗi giới được tôi đưa ra để khuyên bảo, nhắc nhở. Nhờ vậy, kĩ năng sống
của các học sinh cá biệt nói chung và của học sinh lớp tôi được trang bị khá tốt.
Bên cạnh đó, trước mỗi buổi họp phụ huynh tôi chuẩn bị nội dung rất kĩ

càng. Tôi không chỉ chia sẻ với cha mẹ học sinh những kiến thức giáo dục con
cái mà còn tạo được sự thống nhất những quan điểm giáo dục với cha mẹ học
sinh.Trao đổi thẳng thắn, chân thành đối với cha mẹ học sinh để hiểu được hoàn
cảnh gia đình, tính cách của học sinh cá biệt. Đây là hoạt động rất quan trọng
bởi hầu hết những học sinh cá biệt đều do ảnh hưởng từ nền tảng giáo dục của
gia đình. Tôi thường xuyên trao đổi, gọi điện liên hệ với gia đình học sinh để từ
đó hiểu rõ hơn về học sinh. Tôi cho mỗi học sinh viết một lá thư, nói lên suy
nghĩ, nguyện vọng của mình (chỉ để mình tôi đọc). Qua đó tâm sự để phụ huynh
hiểu con mình hơn, quan tâm lắng nghe các em hơn. Các học sinh cá biệt khi
được bố mẹ quan tâm, lắng nghe thì cũng trở nên ngoan ngoãn hơn.
2.3.7. Phối hợp tốt với gia đình, giáo viên bộ môn, ban nề nếp và nhà
trường
Trước hết, tôi gặp gỡ các giáo viên bộ môn, nói cho thầy cô nghe về đặc
điểm của từng học sinh cá biệt, nhờ thầy cô quan tâm tới các em, thông tin kịp
thời cho tôi các biểu hiện của các em.
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên giữ liên lạc với gia đình. Bất kể một thông
báo nào mới của nhà trường về lịch học, lịch nghỉ, lịch thi, các khoản đóng
góp… đều được tôi thông báo đến phụ huynh bằng tin nhắn. Riêng những biểu
hiện cá biệt của học sinh được tôi trao đổi trực tiếp, cùng thảo luận với phụ
huynh để đề ra phương hướng giải quyết. Với các phụ huynh thiếu sự quan tâm
đến con em, tôi thẳng thắn phê bình và phân tích hậu quả. Nhờ vậy, phụ huynh
và các em có sự gắn kết nhiều hơn.
Ngoài ra, trước những vấn đề phức tạp, tôi luôn tìm sự cố vấn từ Ban giám
hiệu, ban nề nếp của nhà trường. Sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu hay ban

13


nề nếp cũng góp phần lớn vào thành công của tôi trong công tác giáo dục học
sinh cá biệt.

2.4. Hiệu quả khi sử dụng những biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở
lớp 12A6 và 10A9 – Trường THPT Đông Sơn 1.
Các biện pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau đã và đang được tôi thực
hiện. Tôi cũng hiểu rằng: Thực tiễn giáo dục học sinh cá biệt là rất khó khăn và
không phải học sinh cá biệt nào cũng giáo dục thành công. Dù vậy, tôi vẫn đang
hàng ngày nỗ lực, cố gắng, học hỏi để thực hiện tốt công việc này.
Qua học hỏi bạn bè đồng nghiệp, bằng kinh nghiệm của bản thân, tôi đã áp
dụng các biện pháp trên trong quá trình làm công tác chủ nhiệm và giáo dục học
sinh cá biệt. Kết quả đạt được rất khả quan. Các phong trào bề nổi của lớp luôn
được đánh giá cao tạo được hiệu quả tích cực trong việc khuyến khích học sinh
phát triển các kĩ năng sống, giúp học sinh cá biệt hòa đồng hơn và tiến bộ rõ rệt
về học tập, rèn luyện.
Bảng thống kê kết quả xếp loại các lớp chủ nhiệm theo thời điểm:
Hạnh kiểm học sinh qua các năm học
(SL: số lượng học sinh; TL: tỉ lệ %)
Tốt

Lớp

Khá

HK1

11

TL
(%)
29

13


TL
(%)
34,2

11A6
HK2
(2014-2015)
CN

16

42,1

16

16

42,1

HK1

24

HK2
12A6
(2015-2016)
CN

TB


Yếu

8

TL
(%)
21

42.1

4

16

42.1

63,2

10

30

78.9

30

HK1
10A9
HK2

(2016-2017)
CN

Học sinh
cá biệt
TL
SL
(%)
6
15.8

6

TL
(%)
15.8

10,5

2

5.3

2

5.3.

4

10,5


2

5.3

2

5.3.

26,4

3

7.8

1

2,6

1

2,6

8

21.1

0

0


0

0

0

0

78.9

8

21.1

0

0

0

0

0

0

16

36.4


23

52.1

3

6.9

2

4.6

0

2

22

50

19

43.1

3

6.9

0


0

0

0

22

50

19

43.1

3

6.9

0

0

0

0

SL

SL


SL

SL

14


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Ở cấp học , bậc học nào hầu như cũng có học sinh cá biệt. Nhưng có lẽ bậc
học THPT là có nhiều nhất vì các em đang độ tuổi trưởng thành, tập làm người
lớn, nhưng lại chưa chín chắn trong suy nghĩ và hành động nên dễ sa ngã. Tạo
sự chuyển biến tích cực ở học sinh cá biệt không phải điều dễ dàng, cũng không
thể nóng vội một vài lần trò chuyện không được là thẳng tay phạt các em. Công
tác giáo dục học sinh cá biệt đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải cực kì kiên trì.
Giáo dục học sinh cá biệt là một quá trình, không thể một sớm một chiều có thể
thay đổi được. Công tác giáo dục học sinh cá biệt luôn là một thử thách rất lớn
đối với mỗi giáo viên chủ nhiệm, song làm tốt được điều này thì mới thực sự trở
thành một nhà giáo dục theo đúng nghĩa.
Thầy cô luôn là tấm gương về đạo đức, về lối sống, về trình độ chuyên
môn. Đồng thời thầy cô chủ nhiệm phải luôn có tình cảm yêu thương, niềm tin
động viên học sinh bởi “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức được tấm lòng”. Giáo
viên cần phải khéo léo, linh hoạt, trong mỗi trường hợp cụ thể, biết tập hợp và
sử dụng sức mạnh của các yếu tố giáo dục nhằm giáo dục học sinh cá biệt.
Với đề tài “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 12A6 và
10A9 – Trường THPT Đông Sơn 1”, sáng kiến của tôi mong muốn góp thêm
một tiếng nói, một kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn trong công tác giáo dục
hiện nay. Đề tài của tôi chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn,

đồng thời bản thân tôi cũng có thêm được những kinh nghiệm quý báu trong
công tác “trồng người” vinh quang mà hết sức gian nan này.
3.2. Kiến nghị
Giáo viên là người trực tiếp giảng dạy và làm công tác giáo dục học sinh,
chịu trách nhiệm trước Ban giám hiệu và Hội đồng giáo dục nhà trường về chất
lượng giảng dạy và đạo đức của học sinh. Mang trên vai trọng trách quan trọng
đó, nên để công tác giáo dục học sinh cá biệt đạt kết quả tốt nhất, tôi xin được
đưa ra một số kiến nghị sau đây :
- Công tác quản lý của Nhà trường nên thường xuyên quan tâm, chú ý đến
công tác giáo dục học sinh cá biệt và ghi nhận kết quả giáo dục học sinh cá biệt
của Giáo viên chủ nhiệm. Sự quan tâm của nhà trường sẽ động viên Giáo viên
chủ nhiệm hoàn thành tốt được nhiệm vụ này.
- Đối với Đoàn trường: cần tăng cường và đổi mới các hoạt động tập thể,
xây dựng môi trường thân thiện, xây dựng cơ sở vật chất , khu vui chơi giải trí,
thể thao ...cho học sinh tham gia .
- Bên cạnh đó, cần tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính,
giáo dục sức khỏe vị thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các
15


em có đủ hành trang bước vào cuộc sống. Khi gặp phải những tình huống bất
ngờ các em không bỡ ngỡ mà bết bình tĩnh xử lí một cách khéo léo, hiệu quả tốt
nhất.
- Đối với phụ huynh học sinh : Giữ mối liên hệ và hợp tác chặt chẽ với giáo
viên trong quá trình giáo dục con em mình.
- Lồng ghép các bộ môn như giáo dục công dân, giáo dục quốc phòng, giáo
dục thể chất, ngữ văn,… để giáo dục nhận thức cho học sinh. Trong các giờ dạy,
các thầy cô luôn đặt ra các tình huống sư phạm, tình huống đời thường để học
sinh giải quyết. Phương pháp nhà trường là gắn thực tiễn vào bài học, phát huy
khả năng tư duy độc lập, tập cho học sinh làm quen với những kỹ năng mềm

trong cuộc sống./.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết SKKN

Trịnh Thị Hương

16


Tài liệu tham khảo
1. Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể năm 2015 của Bộ giáo dục
và Đào tạo.
2. Nguồn Internet – Báo mới.com (Ngày 13/4/2017)
3. Tài liệu BDTX môđun 3 THPT năm học 2016 – 2017.

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Hương
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Tổ trưởng tổ Sử - Địa – GDCD.


TT
1.

Tên đề tài SKKN
Hoạt động ngoại khóa trong
dạy học Lịch Sử ở trường
THPT Đông Sơn 1

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Sở GD và
C
2007 - 2008
ĐT

----------------------------------------------------

18


19




×