Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho học sinh thông qua bài học lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu

Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 3

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trang 3 - 4
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trang 4 -5
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trang 5 - 6
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Trang7-13
IV. KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Những ý kiến đề xuất.

Trang14-15
Trang 16

1



I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có địa
-chính trị và địa - kinh tế rất quan trọng mà không phải bất kỳ quốc gia nào cũng
có. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển đảo
luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước và con người Việt
Nam. Hiện nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo rất quyết
liệt và phức tạp gây ra những nhân tố khó lường về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
và an ninh đất nước.
Xuất phát từ thực tế hiện nay khi vấn đề chủ quyền biển đảo đã và đang
được xã hội quan tâm thì bài học lịch sử lại “thờ ơ” với vấn đề này trên mọi khía
cạnh. Vì sao tôi lại khẳng định như vậy? Có thể nói qua hơn 10 năm giảng dạy
lịch sử, điều mà tôi thắc mắc là: bài học lịch sử cho học sinh biết về các vấn đề
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa xã hội… của nước ta qua các thời kỳ nhưng
không có bài học nào đề cập đến lịch sử biển, đảo của Nhà nước hay quân và
dân ta đấu tranh để bảo vệ chủ quyền biển đảo như thế nào?. Nếu có thì đó chỉ là
một vài sự kiện nhỏ trong xâu chuỗi những sự kiện lớn, ví dụ: ngày 1/9/1858
Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu quá trình xâm lược nước ta hay ngày
29/4/1975 quân ta tấn công giải phóng các đảo và quần đảo…Vì thế để hình
dung lịch sử đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo như thế nào học sinh không hề
có một chút kiến thức cơ bản nào. Hơn nữa khi vấn đề chủ quyền biển đảo trở
thành vấn đề nóng cần phải giáo dục cho mọi người thông qua nhiều hình thức
thì đối với học sinh việc tuyên truyền cũng chỉ được xem nhẹ.
Với cương vị là một giáo viên dạy lịch sử tôi thấy để làm tốt hơn nữa
công tác tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo tôi đã lồng
ghép vào bài học lịch sử để học sinh chủ động hơn, tích cực hơn và hứng thú
hơn với những hoạt động của chính bản thân. Phần nào giúp các em có những
nhận thức đúng đắn về vấn đề biển đảo, hiểu rõ hơn các khái niệm có liên quan
đến quyền và chủ quyền của nước ta trên biển từ đó hình thành ý thức bảo vệ
chủ quyền đất nước.

Mặt khác, tôi tự nhận thấy tìm hiểu về chủ quyền biển đảo bằng cách lồng
ghép trong các bài giảng lịch sử Việt Nam là cách hữu hiệu bổ sung cho lịch sử
dân tộc, khắc sâu lời dạy của Bác Hồ: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày
nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải giữ gìn lấy
nó”.
Vì vậy, việc tổ chức cho học sinh học tập tìm hiểu về biển đảo giúp các
em củng cố, hiểu sâu hơn kiến thức ở trên lớp đồng thời có cái nhìn toàn diện về
lịch sử dân tộc nói chung, giữ gìn chủ quyền biển đảo nói riêng. Từ đó tạo cho
các em lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo – một phần lãnh
thổ thiêng liêng, không thể tách rời của Tổ quốc của cha ông để lại và càng thêm
gắn bó yêu quê hương đất nước mình hơn.
2


2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này tôi mong muốn nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền
biển đảo cho học sinh. Hơn nữa giúp các em có sự hiểu biết toàn diện, rõ ràng về
lãnh thổ nước ta.
Thông qua việc thực hiện đề tài, nhằm giúp các em hiểu một cách đầy đủ
những khái niệm như: đảo chìm, đảo nổi, đường cơ sở, lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế…
Rèn luyện kỹ năng tự tìm hiểu, nghiên cứu, thuyết trình các vấn đề lịch
sử. Từ đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập,
khơi dậy tình cảm của các em để các em có thể chia sẻ những khó khăn với cuộc
sống nơi đảo xa.
3 . Đối tượng nghiên cứu
Lớp 12A3, 12A4, 12A15 Trường THPT Thạch Thành 3 - Thạch Thành –
Thanh Hóa . Trong đó lớp 12A3, 12A4 là lớp thực nghiệm, lớp 12A5 là lớp đối
chứng.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp thuyết trình, kết hợp
cho học sinh hoạt động ngoại khóa thông qua hình ảnh, tư liệu . Qua học tập, tìm
hiểu sưu tầm được tài liệu nghe kể, quan sát để tổng hợp lại và thuyết trình trên
lớp để phát huy tính tự học, tự nghiên cứu tài liệu của các em.
II.
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lý luận
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) của Đảng về “Chiến lược biển Việt
Nam đến 2020” đã xác định mục tiêu tổng quát: “Đến năm 2020, phấn đấu nước
ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ
quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo góp phần quan trọng trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh”.
Hiện nay trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển đảo rất quyết
liệt và phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và
an ninh nước ta, gây ra những nhân tố khó lường về chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ
và an ninh đất nước. Vươn ra biển, làm giàu từ biển là định hướng đúng đắn phù
hợp trong điều kiện hiện nay. Chúng ta cần tăng cường hơn nữa những khả năng
quản lý, làm chủ vươn ra biển làm động lực thúc đẩy các vùng khác trong đất liền
phát triển. Chúng ta phải có quyết tâm cao, tập trung huy động mọi tiềm năng và
lợi thế của biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng an ninh trên biển để tạo ra môi trường hòa bình, ổn định. Phải tăng cường công
tác tuyên truyền, giáo dục về chủ quyền biển đảo cho mọi tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ Việt Nam là cực kỳ quan trọng. Nhà trường phổ thông với chức
năng vừa giảng dạy vừa giáo dục đóng vai trò rất lớn trong việc thực hiện mục
tiêu này, nhất là giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho học sinh thông
qua bài học lịch sử.
3


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
a. Về phía giáo viên

Để hiểu được thực trạng tôi đã tiến hành trao đổi, dự giờ của một số đồng
nghiệp trong và ngoài nhà trường. Qua đó tôi nhận thấy: có rất ít nội dung được
các thầy cô giáo nói chung, giáo viên lịch sử nói riêng nói về vấn đề chủ quyền
biển đảo nhất là đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, hoặc nếu có thì bộ
môn địa lý chỉ cho học sinh thấy vai trò tiềm năng của biển nhưng cũng chỉ qua
loa. Còn môn lịch sử thì chỉ là những sự kiện nhỏ không mang tính quá trình
cũng không có nội dung về vấn đề đấu tranh và bảo vệ biển đảo như thế nào.
Hiện nay việc giảng dạy lịch sử đã được đổi mới, các nhà trường tự điều
chỉnh phân phối chương trình trên cơ sở phân phối của Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã phần nào giúp giáo viên làm tốt hơn công tác dạy học lịch sử nói chung, giáo
dục bảo vệ chủ quyền biển đảo nói riêng. Hơn nữa, hiện nay các tài liệu và hình
thức tuyên truyền về biển đảo vô cùng phong phú, đa dạng qua nhiều kênh thông
tin khác nhau giúp giáo viên có thể thuận lợi trong việc tiếp nhận các nội dung
nêu trên. Song thực tế vẫn còn không ít thầy, cô coi nhẹ việc giáo dục nhận thức
chủ quyền biển đảo thông qua bài giảng lịch sử nên chưa đáp ứng được mục tiêu
đề ra.
b. Về phía học sinh
Tình trạng thiếu hiểu biết, thờ ơ với lịch sử dân tộc nói chung, về vấn đề
chủ quyền biển đảo nói riêng là một thực tế đáng lo ngại ở các trường phổ
thông. Vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát ở sự hiểu biết của học sinh về các nội
dung liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo, trọng tâm là vấn đề chủ quyền
của Việt Nam với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bài khảo sát này được
thực hiện đối với cả 3 lớp 12A3, 12A4, 12A5. Với cách thức các em học sinh
viết bài ở nhà và chọn một trong 3 chủ đề sau:
1. Tìm hiểu và sưu tầm tư liệu về di tích lịch sử Thành Nhà Hồ
2. Từ 1954-1975 nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Mĩ như thế nào
3. Tầm quan trọng của biển đảo Việt Nam nói chung, hai quần đảo
Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng đối với sự phát triển của đất nước.
Sau khi thu bài viết của học sinh, tôi đọc và nhận thấy:
- Có 93,7% số học sinh chọn vấn đề 1,2. Còn lại 6,3% số học sinh chọn

vấn đề 3.
- Bài viết về các vấn đề 1,2 là các vấn đề học sinh đã được học vì vậy
phần nào giúp các em trình bày có nội dung và kiến thức cụ thể. Hơn nữa, tư
liệu cho các em sẵn có. Trong bài viết các em có ảnh và tư liệu minh họa, góp
phần làm cho bài viết phong phú và khi được hỏi tại sao các em chọn vấn đề 1,2
nhiều em hào hứng trả lời vì em được thể hiện tình cảm của mình với địa
phương, được làm “hướng dẫn viên du lịch”. Ngược lại với các học sinh chọn
vấn đề 3, mặc dù hiện nay công nghệ thông tin phát triển các em có thể tìm hiểu
nội dung qua mạng nhưng đa phần các bài viết đều sơ sài không rõ ý, chỉ dựa
4


trên cơ sở bài học địa lý. Các em học được gì thì viết đấy, khi được hỏi vì sao
chọn vấn đề 3 đa phần các em đều trả lời là vấn đề cần biết nhưng không được
học và không biết phải bắt đầu từ đâu. Thậm chí khi viết về vai trò và tầm quan
trọng của biển đảo các em đều viết chung chung, không rõ ràng đặc biệt có
những bài không nói gì về đến vai trò quân sự chỉ nói đến vấn đề kinh tế.
Để có thêm cơ sở khẳng định tôi tiến hành khảo sát đối chứng ở lớp
12A3, 12A4, 12A5.
Qua khảo sát thực tế tôi nhận thấy: học sinh theo học khối tự nhiên chỉ
coi trọng các môn học tự nhiên. Các môn xã hội không được chú ý, thậm chí các
em không thích học, không có hứng thú và niềm say mê. Tuy nhiên nếu bài học
có đề cập đến các vấn đề xã hội mang tính thời sự thì cũng nhận được sự hưởng
ứng tương đối nhiệt tình. Từ thực tế đó, tôi thiết nghĩ vấn đề chủ quyền biển đảo
được lồng ghép vào bài học lịch sử sẽ là vấn đề thú vị đối với học sinh.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
a . Công tác chuẩn bị:
* Về phía giáo viên:
- Xác định rõ mục tiêu kiến thức để giảng dạy có trọng tâm, trọng điểm,
cung cấp đầy đủ kiến thức cho học sinh về chủ quyền biển đảo, đặc biệt đối với

2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
- Nắm vững một số kiến thức cơ bản về chủ quyền biển đảo nhất là
Trường Sa và Hoàng Sa để giới thiệu cho học sinh để học sinh thấy đựơc ý
nghĩa thiêng liêng, to lớn về chủ quyền biển đảo, từ đó nâng cao nhận thức và
góp phần thiết thực trong việc bảo vệ, giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam.
- Tra cứu thông tin, chuẩn bị các tư liệu tranh ảnh để bài học thêm sinh
động.
* Về phía học sinh:
- Căn dặn các em tìm đọc các cuốn sách:
+ Những điều cần biết về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do Cục
Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân biên soạn năm 2011.
+ Tôi kể em nghe chuyện Trường Sa, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2013.
+ Lẽ phải - luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, Nhà xuất bản Trẻ, 2012
+ Theo dõi thông tin qua báo đài, truyền hình về vấn đề chủ quyền biển
đáo
b. Quá trình thực hiện
Để việc giáo dục, học tập và tuyên truyền về vấn đề chủ quyền biển đảo
có hiệu quả cao tôi thực hiện các giải pháp sau:
- Bước 1: Yêu cầu học sinh tìm hiểu
+ Các khái niệm có liên quan đến vấn đề biển đảo như: Đường cơ sở, lãnh
hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế....

5


+ Khái quát lịch sử 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong các thế kỷ từ
XVI đến nay.
Nhằm nâng cao ý thức tự học, khả năng tìm tòi khám phá những điều mới

lạ gây hứng thú cho học sinh khi tìm hiểu các vấn đề mang tính thời sự. Tôi đã
yêu cầu học sinh tìm hiểu trước ở nhà và cung cấp các thông tin về tài liệu để
các em có thể tìm đọc như đã trình bày ở phần trên.
- Bước 2: Yêu cầu học sinh trình bày các nội dung đã được yêu cầu tìm
hiểu bằng phương pháp thuyết trình để học sinh có cái nhìn tổng quan và bao
quát về hai quần đảo cũng như vấn đề chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo.
- Bước 3: Tôi tiến hành lồng ghép vấn đề chủ quyền biển đảo qua các tiết
học. Cụ thể:
Phần 1: Khẳng định chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa trong các
thế kỷ XVI - XVIII.
Phần này được giới thiệu sau khi học sinh học hết bài 20: Cuộc kháng chiến
chống Pháp kết thúc thắng lợi. Vì theo tôi ở bài này các em được học nội dung
của Hiệp định Giơnevơ mà vấn đề đầu tiên Hiệp định đề cập tới là vấn đề quyền
dân tộc cơ bản hay còn gọi là quyền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ [ 1]. Qua đó có thể liên hệ với vấn đề toàn vẹn lãnh thổ đối với biển
đảo.
Phần 2: Vấn đề chủ quyền biển đảo trong các thế kỷ XIX - XX
Tôi tiến hành lồng ghép vào bài 22: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu
chống đế quốc Mĩ xâm lược. Nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất
(1965 - 1973). Khi học sinh tìm hiểu Hiệp định Pari 1973 với nội dung Hoa Kỳ
và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam [1]. Như vậy một lần nữa vấn đề chủ quyền lại tiếp tục được
khẳng định.
Phần 3: Giới thiệu về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vấn đề chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Tôi giới thiệu cho học sinh sau khi các em học song bài 24: Việt Nam trong
những năm đầu sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm
1975. Vì sau bài này học sinh đã thấy được nước ta hoàn thành nhiệm vụ thống
nhất cả về lãnh thổ và nhà nước. Từ đó học sinh dễ dàng nhận thấy việc khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là có

đầy đủ bằng chứng pháp lý phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế.
Phần 4: Nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên biển của ta.
Trước khi thực hiện phần lồng ghép nội dung này tôi tiến hành thăm dò ý
kiến của học sinh bằng câu hỏi “ để giải quyết vấn đề xâm chiếm trái phép chủ
quyền biển, đảo nước ta của Trung quốc Đảng và Nhà nước ta chủ trương như
thế nào?”. Sau khi nhận được các thông tin từ phía học sinh tôi tiến hành giảng
dạy ở bài 25: Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc
(1976 - 1986). Đây là bài giảm tải theo hướng dẫn của Bộ giáo dục. Vì vậy tôi
có thể giành hết thời gian để cho học sinh thảo luận và rút ra sự đúng đắn, khôn
6


khéo, trong đường lối giải quyết các tranh chấp trên biển của Đảng và Nhà nước
ta. Từ đó định hướng cho hành động của các em trong việc thể hiện tinh thần
yêu nước và ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
4 . Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau đây là những bằng chứng cụ thể về các giải pháp nhằm nâng cao ý
thức bảo vệ chủ quyền biển đảo thông qua bài học lịch sử mà tôi đã thực hiện
trong năm học vừa qua.
a. Phần thực hiện trên lớp của học sinh
Học sinh trình bày những nội dung đã tìm hiểu theo hướng dẫn. Hầu hết
các em đều hiểu được những khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề biển đảo
và chủ quyền của nước ta ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Cụ thể các
vùng biển của Việt Nam như sau:
* Nội thủy: Là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nội thủy được coi như lãnh thổ trên đất liền, đặt
dưới chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối của quốc gia Việt Nam [3]
Đường cơ sở: là đường dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và
các vùng biển khác. [3]

*Lãnh hải: Lãnh hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng
12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở nối liền các đểm nhô ra nhất của bờ biển và
các điểm ngoài cùng của các đảo ven bờ tính từ ngấn nước thủy triều thấp nhất
trở ra. [3],[6]
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ
và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình, cũng như đối với vùng trời, đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
* Vùng tiếp giáp lãnh hải: Là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải
Việt Nam có chiều rộng 12 hải lý hợp với lãnh hải thành một vùng biển rộng 24
hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm
soát cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an ninh, bảo vệ
các quyền lợi về hải quan, thuế khóa, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế,
về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam. [3]. [6]
* Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng tiếp liền lãnh hải của Việt Nam và
hợp với lãnh hải Việt nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền toàn vẹn về việc
thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật
và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam: có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các
hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò, khai thác vùng đặc quyền kinh tế
nhằm mục đích kinh tế, có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
7


Nam có thẩm quyền bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam. [3],[6]
* Chủ quyền: chủ quyền của một quốc gia ven biển là quyền tối cao của

quốc gia được thực hiện trong phạm vi từng vùng biển của quốc gia đó. Các
quốc gia ven biển có chủ quyền đối với vùng nước nội thủy và lãnh hải của mình
cũng như đối với vùng trời bên trên, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
các vùng nước đó. [3]
* Thềm lục địa: Bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần
kéo dài tự nhiên của lục địa mở rộng ra ngoài lãng hải Việt Nam cho đến bờ
ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải Việt nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy
mở ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở. (Cũng theo công ước của Liên hợp quốc về
luật biển năm 1982 thì nước nào có thềm lục địa tự nhiên quá rộng thì thềm lục
địa có thể mở rộng ra tới không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở).
Nước ta có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và
quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loại
định cư ở thềm lục địa Việt Nam. [3], [6]
Ở phần này tôi nhận thấy được sự tích cực và hăng say của các em khi các
em tìm được rất nhiều hình ảnh minh họa để giải thích khái niệm, hình ảnh nói
về cuộc sống của những người lính đảo với vai trò canh giữ biển, trời của Tổ
quốc . Như vậy các em không chỉ thuyết trình “suông“ mà còn minh họa để
người nghe dễ dàng hiểu khái niệm, thông cảm, chia sẻ và khâm phục những
người lính “Cụ Hồ” hơn.

Hình ảnh thuyết trình của học sinh trong buổi học
8


b. Phần lồng ghép các nội dung về chủ quyền biển, đảo
*. Khẳng định chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa trong các
thế kỷ XVI - XVIII.
- Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các hòn đảo vô chủ cho đến thế kỷ

XVII. Theo hiểu biết địa lý lúc bấy giờ, hai quần đảo được thể hiện liền một dải,
bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa, ban đầu được người Việt gọi chung
một tên nôm là Bãi Cát Vàng. [2]
- Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “Đội Hoàng Sa” lấy
người từ xã An Vĩnh huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra Quần đảo Hoàng Sa
thâu lượm hàng hóa, khí cụ trên các tàu mắc cạn và đánh bắt hải sản quý hiếm
mang về dâng nộp. Chúa Nguyễn lại tổ chức thêm “Đội Bắc Hải” lấy người thôn
Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận, cấp giấy phép ra quần đảo
Trường Sa với cùng một nhiệm vụ như đội Hoàng Sa. Các hoạt động này được
ghi nhận trong nhiều tài liệu lịch sử như: “Toàn tập thiên nam tứ chí lộ đồ thư”
của Đỗ Bá tự Công Đạo (1686), “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn (1776),
“Lịch triều Hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1821), “Đại Nam thực
lục tiền biên” (1844-1848), “Đại Nam thực lục chính biên” (1844-1848), “Đại
Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn (1910), Dư địa
chí “Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ”, “Quốc Triều chính biên toát yếu”
(1910). Đồng thời hai quần đảo và các hoạt động của triều đình phong kiến Việt
Nam trên đó cũng được nhắc đến trong các tác phẩm nước ngoài như: “Hải
ngoại ký sự” (1696), “An Nam đại quốc họa đồ” (1838), “Nhật ký Batavia”
(1936)…[4]
Cùng với nhiệm vụ khai thác hải sản và hàng hóa trên quần đảo, nhà
Nguyễn còn tổ chức đo đạc, khảo sát, dựng bia, cắm mốc, trồng cây trên đảo …
liên tục trong các năm 1834,1835, 1836. Thông qua việc tổ chức khai thác tài
nguyên trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa liên tục hàng thế kỷ, trên thực
tế cũng như về pháp lý, nhà Nguyễn đã làm chủ hai quần đảo từ khi hai quần đảo
này còn chưa thuộc về lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào và biến hai quần đảo từ
vô chủ thành bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam.
Qua phần kiến thức được tiếp cận học sinh đã hiểu được: Biển nước ta
được ví như mặt tiền, sân trước, cửa ngõ quốc gia; biển, đảo, thềm lục địa và đất
liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến
phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử dân tộc đã ghi nhận có tới 2/3 cuộc

chiến tranh, kẻ thù đã sử dụng đường biển để tấn công xâm lược nước ta. Chiến
công hiển hách ở Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785 của Quang Trung là minh
chứng ghi đậm dấu ấn không bao giờ mờ phai trong lịch sử dân tộc.
* Vấn đề chủ quyền biển đảo trong các thế kỷ XIX – XX
Từ những năm 1925 và 1927, Pháp đã tổ chức điều tra trên Hoàng Sa và duy
trì tuần tra trên quần đảo. Liên tục từ năm 1930-1933, Pháp đưa quân đội ra đóng ở

9


Trường Sa. Năm 1933, Pháp sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa và đến
năm 1938 đã thành lập đơn vị hành chính ở Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Bên cạnh các hoạt động đó, Pháp còn cho đặt cột mốc, xây hải đăng, trạm khí
tượng, trạm vô tuyến điện trên 2 quần đảo. Trong quan hệ quốc tế, Pháp đã nhiều
lần lên tiếng phản đối việc Trung Quốc nêu yêu sách chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa. [5]

Binh lính người Việt cùng gia đình đào giếng
lấy nước sinh hoạt tại quần đảo Hoàng Sa năm 1938
Theo bản đồ Nhà Thanh xuất bản năm 1825 và tái bản năm 1910 thì biên giới
của Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Trong sách giáo khoa của Trung Quốc xuất
bản năm 1946 viết: biên giới phía Nam của Trung Quốc đến 18013’ Bắc. Đầu năm
1921 Trung Quốc mới có quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào đảo Hải Nam. Từ đó
mới có sự tranh chấp giữa Pháp và Trung Quốc về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1935, lần đầu tiên Trung Quốc công bố trên bản đồ quần đảo Hoàng Sa là
của Trung Quốc [4]

Bức An Nam đại quốc họa đồ được thực hiện năm 1838

10



Như vậy, nếu không có chiến tranh thế giới lần thứ II (năm 1939 Nhật chiếm
đóng 3 quần đảo) thì chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là liên tục và thực tế từ thế kỷ thứ XVII.
Tháng 11/1943, trong Hội nghị thượng đỉnh giữa Anh, Mỹ, Trung Quốc tại
Cairô (Ai-cập) của các lãnh đạo của các bên có bàn về lãnh thổ Nhật chiếm đóng của
Trung Quốc từ năm 1939 - 1943. Trong tuyên bố có khẳng định: Các vùng lãnh thổ
Nhật chiếm đóng của Trung Quốc phải trả lại cho Trung Quốc gồm: Mãn Châu, Đài
Loan và quần đảo Bạch Hổ, không hề nói tới 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ba
người đứng đầu của Mỹ, Anh, Trung Quốc, trong đó người đứng đầu Trung Quốc là
Tưởng Giới Thạch đều thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không phải của
Trung Quốc. [1], [4]
Ngày 7/8/1945, trong tuyên bố của Hội nghị Posđam, với sự tham gia của 4
nước Mỹ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô, đã viết: Các điều khoản của tuyên bố
Cairô được thi hành, nghĩa là các vùng đất của Trung Quốc bị Nhật chiếm đóng sẽ
được giao cho Trung Quốc gồm: Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bạch Hổ (4
cường quốc trong đó có cả Trung Quốc đều thừa nhận 2 quần đảo Trường Sa và
Hoàng Sa không phải của Trung Quốc). [4]
Ngày 14/10/1950, Pháp chính thức chuyển giao lại việc quản lý quần đảo
Hoàng Sa cho Chính phủ Bảo Đại. Đáng chú ý là tại Hội nghị San Fancisco
(1951), với sự tham gia của 51 nước, Liên Xô có đề nghị trao 2 quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ với 46 phiếu
chống. Tại hội nghị này, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao chính phủ Bảo
Đại, ông Trần Văn Hữu đã khẳng định chủ quyền lâu đời của Việt Nam đối với
hai quần đảo mà không gặp phải ý khiến phản đối nào. Như vậy, cộng đồng
quốc tế đã thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là chủ quyền của Việt
Nam. [4]
Về hành chính, năm 1956, chính phủ Việt Nam Cộng hoà quyết định quần đảo
Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy và chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên

về tỉnh Quảng Nam quản lý (1961).
Năm 1974, lợi dụng Mỹ rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam, Trung Quốc đã
đưa quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (chỉ trong 37 phút, Trung Quốc dùng 11
tàu khiêu khích và quân nguỵ Sài Gòn mắc mưu, Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa). Trước sự kiện này, chính quyền Sài Gòn đã lên tiếng phản đối
Trung Quốc rất gắt gao.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã giải phóng và tiếp quản 6 đảo thuộc
quần đảo Trường Sa do quân đội Sài Gòn đóng giữ, gồm: Trường Sa, Sơn Ca, Nam
Yết, Song Tử Tây, Sinh Tồn, An Bang. Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. [4]

11


Chiến sỹ đặc công Hải Quân kéo cờ trên đảo Song Tử Tây
Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật quan trọng về biển nói chung và về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
nói riêng, như:
+ Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh
hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam năm
1977. [6]
+ Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam năm 1982.[6]
+ Hiến pháp năm 1992; Nghị quyết Quốc hội Khóa IX, Kỳ họp thứ 5 năm
1994 về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982. .[6]
Khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt các đảo phía Đông quần đảo Hoàng
Sa (4/1956), các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa (1/1974) và một số bãi đá ngầm
ở quần đảo Trường Sa, chính quyền Việt Nam trong mỗi thời kỳ đều đã cực lực lên

án và kiên quyết phản đối. Các mốc nổi bật là:
+ Ngày 20/1/1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam đã
ra tuyên bố 3 điểm phản đối hành động dùng vũ lực của Trung Quốc ở Hoàng
Sa. .[6]
+ Ngày 12/4/1975, Bộ Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Cộng hoà (chính
quyền Sài Gòn) công bố “Sách trắng” khẳng định các quyền lịch sử và pháp lý của
Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. .[6]
+ Ngày 14/3/1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ra tuyên bố lên án Trung Quốc gây xung đột vũ trang và chiếm đoạt một số
bãi đá ngầm tại Trường Sa. .[6]
+ Trong các năm 1979, 1981, 1988, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã 3 lần công bố Sách trắng về 2 quần đảo. .[6]
12


+ Về quản lý hành chính: Năm 1982, Chính phủ đã quyết định thành lập
huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc
tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. [6]
Qua phần này học sinh hiểu được ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc, Chính
phủ Pháp đã có nhiều hoạt động củng cố chủ quyền Việt Nam trên 2 quần đảo với
tư cách là người kế thừa chủ quyền của triều đình phong kiến Việt Nam.
c. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp trên biển của ta [7]
Yêu cầu, mục tiêu của ta: Kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh
thổ, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của ta, đồng thời giữ gìn
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn;
tránh để xảy ra đụng độ, không để đổ vỡ quan hệ Việt - Trung.
Phương châm của ta: Chủ động theo sát, nắm vững tình hình, phối hợp
tốt giữa các bộ, ban, ngành, các địa phương, lực lượng; hết sức tỉnh táo, tránh sơ
hở; sử dụng biện pháp hòa bình, lấy đấu tranh ngoại giao, pháp lý là chính, cố
gắng duy trì, thúc đẩy quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Bám sát Thỏa thuận

10/2011.
* 4 tránh:
- Tránh xung đột quân sự.
- Tránh đối đầu kinh tế.
- Tránh bị cô lập về ngoại giao.
- Tránh để bị lệ thuộc vào chính trị.
Phải nắm vững nguyên tắc cốt yếu: “đem sức ta mà giải phóng cho ta”,
trông vào nội lực là chính, kết hợp phát huy ngoại lực.
Chủ trương cụ thể:
Các giải pháp cụ thể với biển Đông = “3 C + 1 T + 6 K”
* 3 C: - Công khai (vi phạm, thủ đoạn, âm mưu… )
- Công luận: trong nước và quốc tế, ở Trung Quốc.
- Công luật: UNCLOS 1982, DOC 2002 tiến tới COC
* 1 T: Theo thực địa, không để mất chủ quyền
* 6 K: - Kiên quyết
- Kiên trì
- Khôn khéo
- Không khiêu khích
- Không mắc mưu khiêu khích
- Không để xảy ra xung đột.
Chúng ta có thể giữ vững được chủ quyền biển đảo bằng cách:
- Dựa vào sức mạnh tổng hợp về chính trị, kinh tế - xã hội, quân sự và
cả khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền đường lối đúng đắn của Đảng.
- Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn), đến
9/9/2013 đã có 6.037 tàu cá của 20/28 tỉnh thành ven biển được phê duyệt đủ
điều kiện tham gia hoạt động trên các vùng biển xa theo quy định.

13



Số lượng tàu cá đăng ký tham gia hoạt động trên các vùng biển xa đã tăng
cao so với kế hoạch dự kiến. Mục tiêu tăng sự hiện diện của tàu cá và ngư dân
Việt Nam trên các vùng biển xa đã đạt được.
Theo số liệu quan sát năm 2010 có 5.623 lượt tàu, năm 2011 có 8.867 lượt
tàu, đến năm 2012 tăng lên 17.782 lượt tàu. Và đến tháng 7/2013 đã quan sát
được 12.918 lượt tàu hoạt động trên vùng biển Trường Sa.
Đến ngày 30/6/2013 cả nước đã hỗ trợ cho ngư dân khoảng 760 tỉ đồng,
trong đó hỗ trợ nhiên liệu 673 tỉ đồng, hỗ trợ bảo hiểm 10 tỉ đồng, hỗ trợ máy
thông tin liên lạc 69,7 tỉ đồng... ( nguồn Intenet)
- Dựa vào những lợi thế trong hội nhập với cộng đồng thế giới
ARF,APEC… bằng khai thác từ chính cấu trúc an ninh và kinh tế trên thế giới:
Các nước khác nhau, đan xen lợi ích với nhau, móc xích với nhau cho nên khi
cần phải có trách nhiệm chung. - tạo sự đan xen.
- Dựa vào sức mạnh thực lực nhất định.
Lực lượng Hải quân được Đảng, Nhà nước ta xây dựng tiến thẳng lên hiện
đại, với nhiều vũ khí đủ sức bảo vệ Tổ quốc .
* Nhận xét chung:
Ở lớp thực nghiệm (12A3, 12A4): Sau khi học xong các vấn đề này qua
lồng ghép vào nội dung lịch sử tôi nhận thấy các em rất tích cực và chú ý lắng
nghe. Có thể do đây là vấn đề “nóng” mà các em chưa bao giờ được nghe một
cách đầy đủ, cụ thể. Nhưng hơn thế tất cả các em đều nhận thấy đây là một vần
đề lịch sử mang tính xã hội cần phải được đưa vào chương trình lịch sử cho tất
cả các khối.
Đặc biệt các em còn nhận thức rất rõ không phải đi theo các hoạt động biểu
tình phản đối các hành động của Trung Quốc mới là thể hiện trách nhiệm bảo vệ
Tổ quốc và tinh thần yêu nước. Đó có thể là hoạt động của những kẻ lợi dụng cơ
hội gây rối trật tự trị an. Yêu nước là cần phải học tập tốt, thực hiện theo đúng chủ
chương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Nhiều em còn chỉ ra rằng chúng ta
phải thể hiện hành động vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn như bài học đấu tranh chống
thực dân Pháp và quân Trung Hoa Dân Quốc năm 1946. Qua đó các em nhận thức

sâu sắc hơn tuổi trẻ cần phải yêu nước «bằng một trái tim nóng và một cái đầu
lạnh » như thế nào
Ở lớp đối chứng (12A5): Do không được học một cách bài bản nên đa số
chưa hiểu rõ ràng các khái niệm về chủ quyền của nước ta trên biển và vấn đề
khẳng định chủ quyền biển đảo qua các thời kỳ lịch sử. Tuy nhiên cũng có một
số em nắm được vai trò vị trí, tầm quan trọng của biển đảo cũng như vấn đề
chủ quyền biển đảo đang bị Trung Quốc xâm phạm song cũng chưa đầy đủ.
Thực tế này đã phản ánh được tác dụng của việc nâng cao ý thức bảo vệ
chủ quyền biển đảo thông qua bài học lịch sử đồng thời phát huy tính sáng tạo,
tích cực, chủ động của học sinh.
Bằng phiếu khảo sát môn học đã phản ánh sở thích học tập bộ môn lịch
sử thay đổi tăng lên đáng kể so với đầu năm, nhất là ở các lớp thực nghiệm.
14


Còn ở lớp 12A5 có tăng nhưng không đáng kể. Ở cả ba lớp mà tôi thực hiện đề
tài thì tất cả các em đăng ký thi tốt nghiệp môn lịch sử năm học 2016 -2017 .
Đó là tín hiệu đáng mừng vì điều mà tôi mong muốn ở các em là các em hiểu
lịch sử dân tộc, yêu lịch sử dân tộc, hiểu cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của
cha ông ta. Qua đó các em thấy được vai trò “tiếp lửa truyền thống” của bản
thân và thế hệ trẻ đối với dân tộc.
2. Kết quả học tập môn lịch sử năm học 2016 – 2017
Lớp

Sĩ số

12A3
12A4
12A5


37
39
37

Yếu
SL %
0
0
0

Trung bình
SL
%
3
8
5
12
16
44

Khá
SL
30
28
20

%
81
73
54


Giỏi
SL
%
4
11
6
15
1
2

Ghichú
Lớp thực nghiệm
Đối chứng

III . KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo cho học sinh thông qua bài
học lịch sử là một việc làm rất cần thiết đối với thực trạng xã hội hiện nay đồng
thời góp phần làm cho bài học lịch sử sinh động đầy đủ trên nhiều phương diện.
Vì bài học lịch sử không chỉ dạy cho học sinh quá trình dựng nước và giữ nước
đối với đất liền mà còn là sự khẳng định tính toàn vẹn lãnh thổ ở cả phần biển,
đảo. Từ đó xây dựng cho học sinh ý thức bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nước ta. Hơn thế nữa với phần tự tìm hiểu của học sinh đã góp phần tạo
nguồn hứng khởi cho các em, phát huy tối ưu khả năng tìm tòi, sáng tạo trong
nhận thức các vấn đề lịch sử, đặc biệt là những vấn đề mang tính thời sự, xã hội.
Qua việc thực hiện đề tài này tôi nhận thấy một số vấn đề như sau:
1. Muốn việc nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho học sinh
thông qua bài học lịch sử có hiệu quả cao, trước hết đòi hỏi mỗi giáo viên cần
phải lựa chọn những tài liệu, kiến thức lịch sử về biển, đảo, những khẳng định

mang tính pháp lý quốc tế về chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Từ đó giúp học sinh hiểu rõ hơn về quá trình đấu tranh bảo vệ
chủ quyền biển, đảo qua các thời kỳ lịch sử, đồng thời các em nắm được cuộc
đấu tranh của nhân dân ta là cuộc đấu tranh chính nghĩa được luật pháp quốc tế
ủng hộ.
2. Đề tài này vừa mang tính lịch sử vừa mang tính thời sự, có nội dung
tuyên truyền. Vì thế giáo viên phải chú ý nguyên tắc trong tuyên truyền (với tôi
trong đề tài này tôi không viết về cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo ở
các năm 1956 và 1988. Nhưng để học sinh có cái nhìn tổng quan, bao quát đầy
đủ hơn về việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo thì tôi đã trình bày một cách
ngắn gọn nhất về cuộc chiến đấu của lực lượng Ngụy quyền Sài gòn để bảo vệ
Hoàng Sa và cuộc chiến đấu anh dũng của lực lượng hải quân để bảo vệ đảo Gạc
Ma… )
3. Việc nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo phải được giáo viên
tiến hành thường xuyên và đối với cả 3 khối 10, 11, 12. Nhất thiết phải có phần
15


giành cho học sinh tự tìm hiểu và trình bày ở trên lớp để tăng sự tự tin, tạo điều
kiện cho các em thể hiện quan điểm của mình đối với các vấn đề xã hội. Từ đó
giáo viên mới có thể định hướng hành động cho các em trong việc thể hiện tinh
thần yêu nước đúng cách, đúng với chủ chương, đường lối của Đảng và Nhà
nước, tránh bị kẻ xấu lợi dụng, kích động.
4. Quá trình tìm tài liệu chính thống cung cấp cho học sinh tự hiểu lúc
đầu có thể gặp khó khăn nhất là giao cho học sinh tìm hiểu và trình bày vấn đề
nào để tránh gây tình trạng “chán nản” cho các em. Vì vậy đòi hỏi sự cố gắng
của cả thầy và trò, đối với trò tôi lấy bài thuyết trình của các nhóm để tính điểm
hệ số một và cố gắng khuyến khích. Đây cũng được coi như là một động lực để
các em làm việc tốt hơn.
Đặc biệt tôi nhận thấy với đề tài này việc xây dựng hình ảnh, tư liệu và

sử dụng công nghệ thông tin cũng góp phần nâng cao hiệu quả của đề tài. Tuy
nhiên trong năm học vừa qua tôi mới chỉ thực hiện đối với khối 12 đây là một
hạn chế trong việc nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho học sinh phổ
thông. Tôi sẽ cố gắng để khắc phục trong năm học tới.
2. Những ý kiến đề xuất:
Hiện nay trong chương trình sách giáo khoa không có phần nào dành cho
nội dung dạy về chủ quyền biển, đảo. Vì vậy việc bố trí các tiết học về những
nội dung này còn gặp nhiều khó khăn nên tôi rất mong có sự hướng dẫn cụ thể
của cấp trên để việc giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho học sinh có
hiệu quả tốt nhất.
Nếu có thể rất mong Sở Giáo dục Đào tạo Thanh Hóa tổ chức cho các
đồng chí giáo viên lịch sử một chuyến đi thực tế về biển, đảo để chúng tôi có
thêm những tư liệu “sống” phục vụ tốt hơn cho việc giảng dạy.
Tôi rất mong Nhà trường, Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa cung cấp
sách, báo liên quan tới các vấn đề này về thư viện nhà trường để phục vụ tốt hơn
nữa cho học sinh cũng như giáo viên trong quá trình tìm hiểu.
Đề tài “Nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho học sinh thông
qua bài học lịch sử ” mà tôi thực hiện trong năm học vừa qua không tránh khỏi
những hạn chế, khiếm khuyết. Rất mong được sự trao đổi góp ý của thấy cô, bạn
bè, đồng nghiệp cơ quan quản lý chuyên môn của Sở Giáo dục và Đào tạo
Thanh Hóa để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM
HIỆU

Thanh Hóa , ngày 15 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

Tác giả

Hồ Thị Hương
16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Lịch sử 12
2. Những điều cần biết về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do Cục
Chính trị Bộ Tư lệnh Hải quân biên soạn năm 2011.
3. Hoàng Sa - Trường Sa: Hỏi và đáp, Nhà xuất bản Trẻ, 2011.
4. Hoàng Sa - Trường Sa: Luận cứ và Sự kiện, Nhà xuất bản Thời đại, 2012.
5. Tôi kể em nghe chuyện Trường Sa, Nhà xuất bản Kim Đồng, 2013.
6. Lẽ phải - luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, Nhà xuất bản Trẻ, 2012
7. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2012

17


18



×