Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật Luật giáo dục Việt Nam năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.16 KB, 28 trang )

Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự (hệ thống những qui phạm)
do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển phù hợp với
lợi ích giai cấp mình. Được biết đến như công cụ điều hành, quản lý xã hội
của nhà nước, pháp luật bao gồm các chức năng điều chỉnh, chức năng bảo
vệ và chức năng giáo dục.
Pháp luật được thể hiện thông qua hình thức bên trong và những hình
thức bên ngoài, cụ thể là những qui phạm pháp luật và những văn bản qui
phạm pháp luật. Trong đó, hình thức bên ngoài là những văn bản qui phạm
pháp luật đã thể hiện các quyết định pháp luật do các cơ quan nhà nước,
hoặc người có thẩm quyền ban hành theo trình tự và mang những tên gọi
nhất định. Các văn bản pháp luật được phân loại thành nhiều thành phần,
dựa trên mức độ quan trọng và phạm vi điều chỉnh. Văn bản pháp luật cơ
bản nhất, đóng vai trò văn bản “gốc” để hình thành những loại văn bản pháp
luật khác là Hiến pháp. Dưới Hiến pháp là các loại văn bản luật, cụ thể hoá
hiến pháp để điều chỉnh một loại vấn đề hay các loại quan hệ xã hội tương
ứng. Như vậy, có thể thất, có rất nhiều loại Luật hướng tới những vấn đề xã
hội hay những quan hệ xã hội khác trong cuộc sống. Một trong số những luật
qui định, điều chỉnh một khía cạnh “then chốt” trong sự phát triển của xã hội
là luật Giáo dục.
1. Khái niệm luật giáo dục
1.1. Định nghĩa luật giáo dục
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
được sửa đổi và bổ sung theo nghị quyết 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12
năm 2001 của Quốc hội khoá X, kì họp thứ 10, luật giáo dục được ban hành
và qui định về giáo dục.
1



Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

Có thể định nghĩa luật giáo dục như sau: Luật giáo dục là hệ thống
các qui phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều
chỉnh các quan hệ xã hội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục. Với cách định
nghĩa trên, luật giáo dục mang đầy đủ bản chất, vai trò cũng như chức năng
của pháp luật. Bản chất của luật giáo dục là hệ thống những qui tắc xử sự
hay những qui phạm pháp luật tương ứng với những quan hệ xã hội nhất
định. Bản chất của luật giáo dục không nằm ngoài tính giai cấp và tính xã
hội của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trò của luật giáo
dục hướng tới những đối tượng tác động, mỗi nhân tố giáo dục cụ thể. Đối
với từng loại đối tượng, luật giáo dục đưa ra những định nghĩa hay những
qui định về phạm vi ảnh hưởng thể hiện trong những chương, những điều
trong văn bản luật.
1.2. Đối tượng, phương pháp điều chỉnh và chủ thể của luật giáo dục
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật giáo dục
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là căn cứ để phân định các ngành
luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật
là những quan hệ xã hội được pháp luật tác động tới.
Mỗi ngành luật có những đối tượng điều chỉnh riêng, tương ứng với
một lĩnh vực quan hệ xã hội. Luật giáo dục cũng có đối tượng, phạm vi điều
chỉnh cụ thể để xác định ranh giới với những ngành luật khác. Đó chính là
những thành phần của hệ thống giáo dục Việt Nam và mối quan hệ tương tác
giữa những thành phần đó. Luật giáo dục qui định về hệ thống giáo dục quốc
dân, nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ
trang nhân dân cũng như các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục.

2



Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

Mỗi “đối tượng” này được qui định rõ ràng trong 9 chương và 120 điều của
luật giáo dục.
1.2.2. Phương pháp điều chỉnh của luật giáo dục
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ là căn cứ chủ yếu nhất. Để
phân định rõ ranh giới giữa các ngành luật là rất khó, do có nhiều đối tượng
trùng lặp. Trong nhiều trường hợp, có những quan hệ xã hội rất gần nhau,
nhưng để điểu chỉnh các quan hệ xã hội đó cần có những phương pháp khác
nhau. Do đó, phương pháp điều chỉnh của pháp luật là căn cứ thứ hai, bổ trợ
cho căn cứ thứ nhất là đối tượng điều chỉnh của pháp luật để xác định, phân
định một cách chính xác ranh giới của các ngành luật.
Phương pháp điều chỉnh của pháp luật là hệ thống những biện pháp,
cách thức mà nhà nước sử dụng trong pháp luật để tác động tới cách xử sự
của những chủ thể, những cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia các quan hệ xã
hội. Như vậy, phương pháp điều chỉnh của luật giáo dục bao gồm tập hợp
những phương thức, những biện pháp mà nhà nước qui định trong luật để tác
động tới hoạt động giáo dục của các thành tố trong hệ thống giáo dục Việt
Nam.
Ngoài ra, phương pháp điều chỉnh của mỗi ngành luật còn mang
những đặc trưng rất cơ bản, nhằm phân định rạch ròi phạm vi ảnh hưởng của
mỗi ngành luật. Một số đặc điểm cơ bản của luật giáo dục Việt Nam có thể
kể ra như sau:
• Hệ thống qui phạm pháp luật trong luật giáo dục qui định sự gắn bó
mật thiết của mỗi vị trí và tương ứng với nó là vai trò (bao gồm
quyền và nghĩa vụ pháp lý) của các chủ thể tham gia quan hệ giáo
dục. Những qui phạm pháp luật của luật giáo dục qui định rõ quyền

3



Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

và nghĩa vụ của các tổ chức, các cơ quan, các cá nhân… tham gia các
quan hệ xã hội về mặt giáo dục.
• Luật giáo dục yêu cầu mỗi chủ thể khi thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình phải xuất phát từ những lợi ích chung của tập thể, dựa trên
những qui định chung của xã hội.
• Các chủ thể của luật giáo dục không được phép thoả thuận nhằm thay
đổi các quyền và nghĩa vụ mà luật đã qui định.
• Luật giáo dục thi hành trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, kết hợp giữa
biện pháp cưỡng chế với giáo dục, hướng dẫn các chủ thể tuân thủ
các điều khoản đã qui định.
• Luật giáo dục qui định rõ những hình thức khen thưởng và xử lý
những hành vi vi phạm luật định.
1.2.3. Các chủ thể của luật giáo dục
Mỗi ngành luật có phạm vi điều chỉnh riêng, tương ứng với phạm vi
đó là tập hợp những chủ thể mà luật hướng tới. Những chủ thể của luật giáo
dục bao gồm những cá nhân, những tập thể, những cơ quan, tổ chức… có
liên quan trực tiếp đến hoạt động giáo dục. Đó là:
• Hệ thống giáo dục quốc dân: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên.
• Nhà trường, các cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân,
của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực
lượng vũ trang nhân dân: tổ chức, hoạt động của nhà trường; nhiệm vụ
và quyền hạn của nhà trường; các loại trường chuyên biệt; chính sách
đối với trường dân lập, trường tư thục; tổ chức và hoạt động của các
chính sách giáo dục khác.


4


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

• Tổ chức và cá nhân tham gia các hoạt động giáo dục: nhà giáo; người
học; nhà trường, gia đình và xã hội; quản lý nhà nước về giáo dục.
1.3. Nguồn của luật giáo dục
1.3.1. Văn bản hiện hành
- Ở Việt Nam, Luật giáo dục được Quốc hội nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kì họp thứ IV thông qua ngày
2.12.1998. Ngày 11.2.1998, chủ tịch nước đã kí lệnh công bố,
có hiệu lực từ ngày 1.6.1999.
- Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá
X, kỳ họp thứ 10.
1.3.2. Tính cấp thiết
Về phương diện pháp lý, các văn bản pháp luật được ban hành trước
khi có Luật giáo dục để điều chỉnh hoạt động giáo dục tỏ ra không đồng bộ,
chưa hữu hiệu và thực sự chưa tạo động lực phát triển giáo dục. Đứng trước
những thay đổi, đòi hỏi của kinh tế xã hội thì việc ban hành một văn bản luật
là yêu cầu cấp bách và cần thiết. Nhìn chung, có thể thấy tính cấp thiết của
luật giáo dục thường hướng tới những vấn đề sau:
- Yêu cầu về nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Đảm bảo được việc thực hiện đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục ở các
trường học, cơ quan, tổ chức đoàn thể. Tạo cở ở pháp lý cho
hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục, thanh tra.

5


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

- Bảo đảm được việc thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của người
dạy, người học, người làm công tác quản lý giáo dục, cán bộ
công nhân viên ngành giáo dục.
- Nâng cao chất lượng và đẩy mạnh hợp tác quốc tế về giáo dục
trong thời kì đất nước đang hội nhập.
1.4. Một số khái niệm cơ bản của Luật giáo dục
1.4.1. Khái niệm Luật giáo dục
- Luật giáo dục là đạo luật quy định về tổ chức và hoạt động của hệ thống
giáo dục quốc dân, bao gồm những vấn đề quan trọng nhất của việc thể
chế hoá cơ cấu và hoạt động giáo dục của một quốc gia: nền tảng tư
tưởng, nguyên tắc, cơ cấu hệ thống giáo dục, hoạt động và quản lí hệ
thống giáo dục.
- Dựa theo nguyên tắc: “Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Hoạt động giáo dục
phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường
kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Luật giáo dục được
coi là hệ thống những tư tưởng chủ đạo, cơ bản trong việc lựa chọn nội
dung, phương pháp, phương thức, hình thức tổ chức giáo dục, quản lý
giáo dục nhằm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục đề ra.

1.4.2. Mục tiêu giáo dục
Luật giáo dục hướng tới việc đào tạo con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung


6


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1.4.3. Vai trò của luật giáo dục
Luật giáo dục có vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng
giáo dục mà trong đó không thể không kể đến vai trò của nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục.
- Nhà giáo chính là những tấm gương rèn luyện tốt cho người
học, chính vì vậy mà nhà nước cũng như các tổ chức đào tạo
cần có những chính sách sử dụng đãi ngộ, đảm bảo các điều
kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để các nhà giáo thực hiện
tốt được vai trò và trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó người
học luôn phải giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà
giáo, tôn vinh nghề dạy học.
- Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ
chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục. Họ là những
người không ngừng học tập, rèn luyện và nâng cao phẩm chất
đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm
cá nhân. Nhà nước cần có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và
trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, bảo đảm phát triển sự
nghiệp giáo dục.


1.4.4. Hệ thống giáo dục quốc dân
7


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục
thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc
dân gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông.
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy
nghề.
- Giáo dục đại học và sau đại học (trong Luật gọi chung
là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học,
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
- Phương thức giáo dục chính quy và không chính quy.
1.4.5. Quyền và nhiệm vụ của nhà giáo
Nhà giáo có những quyền sau đây:
- Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo;
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
- Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở
giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực
hiện đầy đủ nhiệm vụ nơi mình công tác.
- Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự.
- Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của
Bộ luật lao động.


8


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

Nhà giáo có những nhiệm vụ sau:
- Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ
và có chất lượng chương trình giáo dục.
- Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và
điều lệ nhà trường.
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi
ích chính đáng của người học.
- Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy,
nêu gương tốt cho người học.
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
2. Một số quy phạm pháp luật và quan hệ pháp luật
2.1. Một số quy phạm pháp luật
2.1.1. Định nghĩa quy phạm pháp luật
a. Khái niệm
Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự, mang tính bắt buộc chung đối
với mọi công dân, tổ chức, cơ quan vì nó do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận.
Quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa là quy tắc xử sự (quy tắc hành
vi) mang tính bắt buộc chung do nhà nước xã hội chủ nghĩa đặt ra hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của nhà nước (cũng là của nhân dân lao động) và được
nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm đìều chỉnh các quan hệ xã hội, thực hiện

9



Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

các quan hệ trước mắt trước nhà nước. Tổng thể các quy phạm pháp luật tạo
thành hệ thống pháp luật.
Quy phạm pháp luật có những dấu hiện sau: thể hiện ý chí của nhà
nước; mang tính bắt buộc chung; được nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
trong những trường hợp cá biệt có thể do cơ quan các tổ chức xã hội ban
hành theo quy tắc uỷ quyền của nhà nước; được nhà nước đảm bảo thực
hiện.
b. Cấu trúc của quy phạm pháp luật
Quy phạm pháp luật, ngoài quy tắc xử sự, nó còn cần quy định những
trường hợp nào thì xử sự theo những quy tắc đó, và nếu xử sự sai quy tắc thì
phải bị xử lý ra sao. Tương ứng với nội dung này, cấu trúc của quy phạm
pháp luật có ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài.
-

Giả định: là bộ phận của quy phạm pháp luật, quy định địa

điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực
tế mà nếu tồn tại chúng thì phải hành động theo quy tắc mà quy phạm đặt ra.
Do đó, giả định xác định môi trường tác động của quy phạm pháp luật. Có
các loại giả định: giả định đơn giản (chỉ gồm một điều kiện tác động của quy
phạm), và giả định phức tạp (gồm nhiều điều kiện tác động của các quy
phạm); giả định xác định và giả định xác định tương đối; giả định cụ thể và
giả định trừu tượng. Giả định dù thuộc loại nào cũng phải có tính xác định
tới mức có thể được phù hợp với tính chất của loại giả định đó.
-


Quy định: quy định là bộ phận trung tâm của quy phạm vì đây

chính là quy tắc xử sự thể hiện ý chí nhà nước mà mọi người phải thi hành
khi xuất hiện những điều kiện mà phần giả định đưa ra. Có các loại quy
định: quy định điều chỉnh, bảo vệ và quy định định nghĩa; quy định xác định,
quy định tuỳ nghi (quy định xác định tương đối), quy định nguyên tắc; quy
định cấm, bắt buộc, cho phép lựa chọn, trao quyền, kiến nghị; quy định đơn
10


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

giản và phức tạp; quy định trực tiếp, quy định dẫn chiếu và mẫu hoặc quy
định kiệt kê và khái quát…
-

Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật chỉ ra những biện

pháp tác động mà nhà nước sẽ áp dụng đối với chủ thể không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu trong phần quy định
của quy phạm pháp luật. Chế tài là phần không thể thiếu, là phương tiện đảm
bảo thực hiện phần quy định của các quy phạm. Có các loại chế tài như: chế
tài xác định, chế tài xác định tương đối, chế tài lựa chọn; chế tài hình phạt,
chế tài khôi phục pháp luật; chế tài phức tạp, chế tài đơn giản…
2.1.2. Một số qui phạm pháp luật của luật giáo dục
Luật Giáo dục được lập ra căn cứ vào Hiến pháp Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, đã được sửa đổi theo , bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp
thứ 10. Luật bao gồm 9 chương, 120 điều. Luật Giáo dục là hệ thống các quy
phạm pháp luật được quy định trong giáo dục, vì thế có thể chia Luật thành

3 phần ứng với cấu trúc của quy phạm pháp luật đó là: giả định, quy định và
chế tài.
a. Phần giả định
Phần giả định được nêu trong chủ yếu trong chương I và chương IX
của Luật giáo dục. Trong chương I, giả định được nêu cụ thể nhất trong Điều
1, về phạm vi điều chỉnh của luật và được quy định trong các điều cụ thể,
bao gồm các quy định về thời gian, địa điểm, chủ thể thực hiện các quy tắc
xử sự do quy phạm pháp luật đề ra theo từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Theo đó, các quy phạm pháp luật được quy định cho hệ thống giáo dục quốc
dân; nhà trường, các cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân,
của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng
11


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

vũ trang nhân dân; tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động giáo dục. Quy
định về phạm vi điều chỉnh được áp dụng cho tất cả các điều khoản của luật.
Ngoài ra, trong từng điều khoản cụ thể, phần giả định được nêu ra những
tình huống nhất định để áp dụng luật. Chẳng hạn, trong Điều 8, chương I,
quy định về Văn bằng, chứng chỉ có nêu: “ Văn bằng, chứng chỉ của hệ
thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp cấp học
hoặc trình độ đào tạo theo quy định của Luật này…”. Trong đó, “ sau khi tốt
nghiệp cấp học hoặc trình độ đào tạo theo quy định của Luật này” là phần
giả định quy định hoàn cảnh văn bằng, chứng chỉ được cấp cho người học.
Hay như trong điều 10, chương I quy định quyền và nghĩa vụ học tập của
công dân có nêu: “Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín
ngưỡng, nam, nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều
bình đẳng về cơ hội học tập”. Trong đó, “ không phân biệt dân tộc, tôn giáo,
tín ngưỡng, nam, nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế...”

là điều kiện, tình huống để công dân có quyền “bình đẳng về cơ hội học
tập”.
Phần giả định còn được nêu trong chương 9 với điều 119 (quy định
hiệu lực thi hành) và điều 120 (quy định Hướng dẫn thi hành). Theo điều
119, Luật giáo dục có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2006,
thay thế cho luật giáo dục năm 1998. Theo điều 120, Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật này.
b. Phần quy định
Luật Giáo dục bao gồm những quy định hết sức cụ thể cho từng nội
dung của hệ thống giáo dục quốc dân và ngoài quốc dân, quy định đối với
các chủ thể của hoạt động giáo dục. Ngoài một số điều quy định chung trong
chương I, phần quy định cho từng đối tượng và hoàn cảnh, tình huống áp

12


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

dụng được nêu cụ thể trong các chương II, chương III, chương IV, chương V,
chương VI và chương VII.
Các chương này nêu lên những quy định cụ thể đối với hệ thống giáo
dục quốc dân với các bộ phận: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục thường xuyên; quy định đối
với Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác; đối với nhà giáo, luật quy định
quyền hạn và nghĩa vụ của nhà giáo, các chính sách đối với nhà giáo…;đối
với người học, luật đưa ra những quy định về quyền hạn và nghĩa vụ cũng
như các chính sách mà người học được hưởng; quyền hạn của gia đình, nhà
trường và xã hội cũng được quy định hết sức chi tiết; ngoài ra, luật còn đưa
ra những quy định hết sức cụ thể về hoạt động quản lý giáo dục của Nhà
nước.

Với vai trò là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật, các quy
định luôn được chú ý xem xét. Trong phạm vi của Luật Giáo dục, các quy
định được nêu ra có thể được nhìn nhận theo nhiều khía cạnh như: vai trò
điều chỉnh quan hệ xã hội, mức độ xác định của quy tắc hành vi, phương
pháp, cách thức tác động lên các quan hệ xã hội…
Xét đến vai trò của quy định trong điều chỉnh các quan hệ xã hội có
các loại quy định: quy định điều chỉnh, bảo vệ và quy định định nghĩa. Một
số quy định điều chỉnh có trong Luật này có thể kể tới như: các quy định về
nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường (trong mục 2, chương III). Trong đó
quy định cụ thể nhà trường có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ như: tổ
chức hoạt động dạy và học, tuyển dụng và quản lý nhà giáo, tuyển sinh và
quản lý người học, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học… (Điều
59, mục 2, chương III). Hay các quy định cụ thể về nhiệm vụ và quyền hạn
của trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học trong nghiên cứu
khoa học, phục vụ xã hội (điều 60, mục 2, chương III); quy định quyền tự
13


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

chủ và tự chịu trách nhiệm của trường trung cấp, trường cao đẳng và trường
đại học (điều 61, mục 2, chương III). Theo như các quyền hạn và nhiệm vụ
của nhà trường đựơc quy định, nhà trường xác định được mối quan hệ của
mình với các đối tượng khác như người dạy, người học, các tổ chức kinh tế,
giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao khác… Nhà trường thiết lập và duy trì
mối quan hệ với các đối tượng này phải tuân theo những điều khoản đã quy
định như: quan hệ về tổ chức tuyển sinh/ tuyển dụng và quản lý đối với
người học và người dạy, quan hệ hợp tác với các tổ chức khác theo quy định
của Chính phủ… Loại quy định tiếp theo có thể kể tới các quy định bảo vệ,
các quy định này có thể được hiểu là các quy định mang tính chất duy trì và

đảm bào các quan hệ được thực hiện giữa các đối tượng. Chẳng hạn, các quy
định về Chính sách đối với nhà giáo (mục 3, chương IV), điều 80 của Luật
có ghi: “Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp
vụ để nâng cao nghiệp vụ và chuẩn hoá nhà giáo. Nhà giáo được cử đi học
nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ được hưởng lương và
phụ cấp theo quy định của Chính phủ”. Điều khoản này quy định các chính
sách mà nhà giáo đựơc hưởng từ phía nhà trường và Chính phủ, việc thực
hiện quy định này đảm bảo mối quan hệ về quản lý và hỗ trợ nhà giáo giữa
nhà trường và nhà giáo đựoc thực hiện. Đối với loại quy định định nghĩa, có
thể được hiểu là loại quy định về cách hiểu, các đặc tính để nhận biết hay
các loại đối tượng áp dụng của luật... Trong Luật giáo dục, các loại đối
tượng áp dụng luật được định nghĩa hết sức rõ ràng và cụ thể. Chẳng hạn,
theo quy định định nghĩa về nhà trường trong Hệ thống giáo dục quốc dân
(điều 48, mục 1, Chương III), nhà trường trong Hệ thống giáo dục quốc dân
bao gồm: trường công lập do Nhà nước thành lập, trường dân lập do cộng
đồng dân cư ở cơ sở thành lập và trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập. Nhiều
14


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

định nghĩa về các đối tượng khác cũng được hết sức cụ thể như các quy định
định nghĩa về: các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học, giáo dục thường xuyên, định nghĩa về Hiệu trưởng, Nhà giáo, người
học…
Ngoài ra, nếu xem xét các quy định theo phương pháp, cách thức tác
động lên các quan hệ xã hội, có các loại quy định như quy định cấm, bắt
buộc, cho phép lựa chọn, trao quyền, kiến nghị. Chẳng hạn, một số quy định
cấm được nêu trong Luật Giáo dục như: điều 19, chương I về Không truyền

bá tôn giáo trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác; điều 20, chương I
về Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục. Quy định trao quyền như các quy
định về quyền hạn của Nhà trường (chương VI), quy định về quyền hạn và
trách nhiệm của Hiệu trưởng (điều 54, mục 1, chương VI), quy định về
quyền hạn và trách nhiệm của Thanh tra giáo dục (điều 112, mục 4, chương
VII)…
c. Chế tài
Phần chế tài được nêu cụ thể và riêng biệt trong toàn bộ chương VIII,
bao gồm các quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm. Phần khen thưởng
bao gồm các quy định về phong tặng danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo
ưu tú (điều 114), khen thưởng đối với các cá nhân có thành tích tốt trong
giáo dục (điều 115), khen thưởng đối với người học (điều 116), phong tặng
danh hiệu tiến sĩ danh dự (điều 117). Phần xử lý vi phạm bao gồm các nội
dung được nêu trong điều 118, trong đó nêu ra 10 hành vi nếu người nào vi
phạm một trong số đó tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý theo các mức: kỷ luật, xử
lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nêu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2.2. Một số quan hệ pháp luật
15


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

2.2.1. Quan hệ pháp luật
a. Khái niệm
Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của các quan hệ xã hội. Hình
thức pháp lý này xuất hiện trên cơ sở sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật
đối với quan hệ xã hội tương ững và các bện tham gia quan hệ pháp luật đó
(tức là các chủ thể của quan hệ pháp luật) đều mang những quyền và nghĩa
vụ pháp lý được quy phạm pháp luật quy định.

Như vậy, quy phạm pháp luật chỉ đặt cơ sở cho sự xuất hiện của quan
hệ pháp luật, chứ không mặc nhiên sinh ra ngay quan hệ pháp luật tương
ứng. Quan hệ pháp luật và quan hệ xã hội có mối quan hệ hữu cơ, tồn tại
song song với nhau. Điều này thể hiện cụ thể qua các đặc điểm của quan hệ
pháp luật như sau :
-

Quan hệ pháp luật mang tính ý chí, bởi nó chỉ xuất hiện trên
cơ sở quy phạm pháp luật - thể hiện tập trung ý chí của nhà
nước.

-

Quan hệ pháp luật là một loại quan hệ tư tưởng thuộc kiến
trúc thượng tần xã hội

-

Quan hệ pháp luật xuất hiện trên cơ sở quy phạm pháp luật

-

Các bên tham gia (chủ thể) quan hệ pháp luật mang những
quyền và nghĩa vụ pháp lý mà quy phạm pháp luật dự kiến
trướng

-

Quan hệ pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước


-

Quan hệ pháp luật mang tính xác định cụ thể

b. Điều kiện xuất hiện quan hệ pháp luật
Để xuất hiện quan hệ pháp luật, ngoài điều kiện cơ bản là có quy
phạm pháp luật cụ thể còn cần hai yếu tố chủ thể của quan hệ pháp luật và sự
kiện pháp lý.
16


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

- Chủ thể của quan hệ pháp luật: theo lý luận về pháp luật, chủ thể của quan
hệ pháp luật phải có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng
lực hành vi.
Năng lực pháp luật được xem là khả năng của chủ thể có được các
quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý mà nhà nước thừ nhận bằng cách quy
định trong pháp luật. Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể, khả năng
này cũng được nhà nước thừa nhận, bằng các hành vi của mình, thực hiện
trên thực tế các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý.
Mọi cơ quan nếu đã có năng lực pháp luật thì đồng thời cũng sẽ có
năng lực hành vi. Đối với công dân, có năng lực pháp luật chưa hẳn đã có
năng lực hành vi. Những người mất khả năng nhận thức được cọi là người
không có năng lực hành vi, hoặc mắc một số bệnh được coi là năng lực hành
vi hạn chế như thiểu năng trí tụê. Pháp luật xác định độ tuổi của chủ thể
pháp luật.
- Sự kiện pháp lý: là những hoàn cảnh, tình huống của đời sống thực tế
khách quan được dự kiến trước trong phần giả định của quy phạm pháp luật,
mà nhà làm luật gắn sự phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ

pháp luật cụ thể với sự tồn tại của nó.
Sự kiện pháp lý có thể là hành vi (sự kiện phụ thuộc vào ý chí con
người) hoặc sự biến (sự kiện nói chung không phụ thuộc hoặc không trực
tiếp phụ thuộc vào ý chí con người như: thiên tai, chiến tranh, chết…). Ý
nghĩa quan trọng của sự kiện pháp lý chủ yếu thể hiện ở chỗ nó là căn cứ
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
2.2.2. Một số quan hệ pháp luật của luật giáo dục
Các quan hệ trong Luật giáo dục được xác định cụ thể giữa các chủ
thể bao gồm: nhà trương, nhà giáo, người học, hiệu trưởng, thanh tra giáo
17


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

dục… Các chủ thể này hình thành mối quan hệ pháp luật với nhau trong các
hoàn cảnh cụ thể được coi như sự kiện pháp lý chung nhất khi các chủ thể
này tham gia vào hoạt động giáo dục (như đã nêu trong điều 1, chương I).
Quan hệ pháp luật được thiết lập dựa trên các quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia. Chẳng hạn, khi xét mối quan hệ pháp luật giữa nhà trường
và người học, mối quan hệ này dựa trên quyền và nghĩa vụ của cả hai bên, từ
đó luật mới đưa ra các quy định cụ thể dành cho mỗi bên tham gia. Điều 87,
chương V về Nghĩa vụ làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà nước
có nêu: “ Người học các chương trình đại học nếu được học bổng, chi phí
đào tạo do Nhà nước cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký kết
với Nhà nước thì sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm việc có
thời hạn của Nhà nước; trường hợp không chấp hành thì phải bồi hoàn học
bổng, chi phí đào tạo”. Như vậy, trong ví dụ trên, “người học các chương
trình đại học”, “Nhà nước” và các tổ chức nước ngoài là các chủ thể của
quan hệ pháp luật trong đó một bên là “ người học các chương trình đại học”
bên kia là “Nhà nước” và các tổ chức nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký

kết với Nhà nước. Mối quan hệ này được thiết lập trên cơ sở của sự kiện
pháp lý đó là: người học “ nếu được học bổng, chi phí đào tạo do Nhà nước
cấp hoặc do nước ngoài tài trợ theo hiệp định ký kết với Nhà nước”.
Các quan hệ pháp luật được xác định ở luật này chủ yếu được xây
dựng theo tính chất nghĩa vụ tức là dựa trên các quy định về quyền hạn,
trách nhiệm cụ thể của các đối tượng tham gia vào quan hệ pháp luật.
3. Một số chế định cơ bản của Luật Giáo dục
3.1. Chương I - Những quy định chung
Ở chương I, Luật Giáo dục quy định những yếu tố nền tảng của hệ
thống giáo dục Việt Nam, bao gồm: phạm vi điều chỉnh luật; mục tiêu giáo
18


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

dục; tính chất và nguyên lý giáo dục; hệ thống giáo dục quốc dân; yêu cầu
về nội dung và phương pháp giáo dục; chương trình giáo dục; ngôn ngữ
dùng và được giảng dạy trong các nhà trường, các cơ sở giáo dục khác; văn
bằng chứng chỉ. Ngoài ra, trong chương này, luật còn quy định những điều
luật chung thuộc về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân, vai trò và trách
nhiệm của nhà giáo và của các cán bộ quản lý giáo dục; những quy định
chung về phổ cập giáo dục, phát triển giáo dục, đầu tư cho giáo dục, xã hội
hoá sự nghiệp giáo dục; về việc nghiên cứu khoa học; về vai trò của nhà
nước trong quản lý giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục; đồng thời
nêu rõ những quy định cấm trong giáo dục (không truyền bá tôn giáo trong
nhà trường và trong cơ sở giáo dục khác, cấm lợi dụng hoạt động giáo dục).
Có thể thấy một số điều luật nổi bật trong chương này như điều thứ 6
quy định về chương trình giáo dục, trong đó có đề cập đến hình thức đào tạo
theo tín chỉ đối với giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học. Đào tạo
theo học chế tín chỉ là 1 trong 7 bước đi quan trọng trong lộ trình đổi mới

giáo dục đại học giai đoạn 2006-2020. Theo chủ trương của bộ Giáo dục và
Đào tạo, ngay trong năm học 2006-2007, các trường phải tập trung triển khai
đào tạo học chế tín chỉ và phải hoàn thành vào năm 2010. Hay điều thứ 17
trong chương này quy định về kiểm định chất lượng giáo dục - là biện pháp
chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung
giáo dục đối với nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Ví dụ: trong điều 13,
tiêu chuẩn 9 về thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chật khác (theo
Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học, ban hành kèm
theo Quyết định số 38/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 2/12/2004 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo) có quy định trường đại học phải đảm bảo các điều
kiện về thư viện, trang thiết bị học tập và cơ sở vật chất khác để triển khai

19


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, nhằm đạt được các mục tiêu
và nhiệm vụ giáo dục đề ra. Cụ thể trong mục 1 của điều này có đưa ra
những tiêu chuẩn đối với thư viện của trường đại học, gồm 2 mức: mức 1 có thư viện, phòng đọc sách báo, tài liệu để phục vụ giảng dạy và nghiên cứu
khoa học, đảm bảo 60-105 số đầu sách cho một ngành đào tạo (đối với các
trường đại học kĩ thuật, kinh tế, nông lâm ngư nghiệp) và 70-122 đầu sách
đối với các ngành khác; mức 2 - hệ thống thư viện được tin học hoá và có
các tài liệu điện tử, thư viện của trường được nối mạng, liên kết khai thác tài
liệu với các trường đại học khác, thường xuyên cập nhật các tài liệu mới, có
biện pháp khuyến khích người học, giảng viên, các cán bộ quản lý khai thác
có hiệu quả các tài liệu của thư viện. Tỉ lệ độc giả đến thư viện hàng năm
trên tổng số người học và giảng viên của trường đạt cao.
3.2. Chương II - Hệ thống giáo dục quốc dân
Chương này khái quát toàn bộ các loại hình giáo dục trong hệ thống

giáo dục quốc dân của Việt Nam, bao gồm: giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục thường xuyên.
Đối với mỗi loại hình giáo dục đó, Luật đều nêu ra những quy định cụ thể về
số năm đào tạo, về đối tượng và điều kiện được hưởng đối với từng hình
thức giáo dục, về mục tiêu của giáo dục, yêu cầu về nội dung và phương
pháp giáo dục, chương trình và giáo trình giáo dục cũng như cơ sở giáo dục
và việc cấp các văn bằng, chứng chỉ giáo dục cho từng loại hình giáo dục
tương ứng.

3.3. Chương III - Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các
loại hình sau đây: trường công lập; trường dân lập; trường tư thục. Nhà

20


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành
lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo
dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng cốt trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
Những người có thẩm quyền nhất định thì có quyền đưa ra quyết định
với những loại trường nhất định. Người có thẩm quyền thành lập hoặc cho
phép thành lập thì có thẩm quyền quyết định đình chỉ hoạt động, sáp nhập,
chia, tách, giải thể nhà trường. Ví dụ: Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền
quyết định đối với trường đại học, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có
thẩm quyền quyết định đối với trường cao đẳng, dự bị đại học… Nhà trường
được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Giáo Dục và điều lệ nhà
trường.Ví dụ: một trong những nội dung của điều lệ nhà trường là quy định

nhiệm vụ và quyền của người học. Ngoài những điều đã được quy đinh
trong Luật Giáo dục, mỗi nhà trường có thể xây dựng cho mình những quy
định riêng như cấm học sinh nhuộm tóc, ăn mặc lố lăng khi đi học, không
nói tục chửi bậy…và thể hiện thành nội quy học sinh. Các cá nhân và tổ
chức điều hành hoạt động của nhà trường: hội đồng trường, hiệu trưởng, hội
đồng tư vấn trong nhà trường, tổ chức Đảng trong nhà trường, đoàn thể và
các tổ chức xã hội trong nhà trường. Ví dụ: hiệu trưởng có nhiệm quản lí
toàn bộ hoạt động của nhà trường, tổ chức Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo nhà
trường hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà trường có những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định và được quy
định rất rõ ràng. Trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học, các loại
trường chuyên biệt, trường dân lập và tư thục đều có những nhiệm vụ và
quyền hạn nhất định. Ví dụ: nhà trường có nhiệm vụ tổ chức giảng dạy, học
tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục;
xác nhận hoặc cấp văn bằng. chứng chỉ theo thẩm quyền; tuyển sinh và quản
21


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

lí người học, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện
đại hóa…
Ngoài ra còn có các cơ sở giáo dục khác như: nhóm trẻ, nhà trẻ, các
lớp độc lập, trung tâm kĩ thuật tổng hợp – hướng nghiệp, trung tâm dạy
nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng, viện
nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo tiến sĩ và phối hợp với các
trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ. Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo
ban hành quy chế, quy định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động và các
nguyên tắc phối hợp đào tạo của các cơ sở giáo dục khác.
3.4. Chương IV- Nhà giáo

Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường
hoặc các cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy các trường mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp được gọi là giáo viên; ở các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp được gọi là giảng viên. Giáo sư, phó giáo sư là
chức danh của nhà giáo đang giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học. Nhà giáo
phải có những tiêu chuẩn, những quyền và nhiệm vụ nhất đinh, có những
hành vi nhà giáo không được làm. Ví dụ: tiêu chuẩn của nhà giáo là phải có
phẩm chất đạo đức tốt, đạt trình độ chuẩn, đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề
nghiệp, lí lịch bản thân rõ ràng. Nhiệm vụ của nhà giáo là giáo dục, giảng
dạy theo đúng chương trình chuẩn, gương mẫu thực hiện pháp luật và điều lệ
của nhà trường…Quyền của nhà giáo là được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ, được hưởng ngày nghỉ phép theo đúng quy định… Luật Giáo Dục
quy định ngày 20 tháng 11 là ngày Nhà giáo Việt Nam. Nhà giáo phải được
đạo tạo theo trình độ chuẩn. Nhà nước quy định những chính sách đối với
Nhà giáo như chính sách về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chính sách
tiền lương đồng thời quy định những chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, cán
22


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

bộ quản lí giáo dục ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn. Ví dụ: các chính sách ưu đãi của Nhà nước như là chính
sách về chế độ phụ cấp, chính sách về việc chính quyền địa phương tạo điều
kiện về chỗ ở, phương tiện đi lại… cho những nhà giáo hoạt động ở những
cơ sở giáo dục đặc biệt
3.5. Chương V – Người học
Người học là người đang học tập tại cơ sở giáo dục của hệ thống giáo
dục quốc dân. Trong số đó, trẻ em đang theo học tại các trường mầm non có
những quyền đặc biệt được quy định trong những chính sách nhất định. Ví

dụ: một trong những chính sách dành cho trẻ em trong độ tuổi mầm non đã
được thực hiện rất rộng rãi đó là trẻ em dưới 6 tuổi được khám và chữa bệnh
miễn phí tại các cơ sở y tế công lập. Người học có những quyền, nhiệm vụ
và nghĩa vụ nhất định, có những hành vi người học không được làm. Ví dụ:
người học có quyền được cấp văn bằng, chứng chỉ sau khi tôt nghiệp, được
tham gia các hoạt động của các đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường…
có nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch học tập của nhà
trường, giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường… Một số chính sách của Nhà
nước đối với người học như: học bổng và trợ cấp xã hội, chế độ tuyển cử, tín
dụng giáo dục, miễn giảm phí dịch vụ công cộng cho học sinh, sinh viên. Ví
dụ: các sinh viên theo học tại các trường đại học nếu đạt điểm tổng kết cao
sẽ được nhận mức học bổng tương ứng, các sinh viên là người dân tộc thiểu
số, gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có hoàn cảnh khó khăn được hưởng
trợ cấp xã hội, sinh viên được giảm tiền vé tàu…
3.6. Chương VI - Nhà trường, gia đình và xã hội

23


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

Chương này bao gồm sáu điều tác động lên những chủ thể pháp luật: nhà
trường, gia đình hoặc người giám hộ của học sinh, ban đại diện cha mẹ học
sinh, cơ quan, tổ chức xã hội, công dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh… Các quan hệ pháp luật chủ yếu là
giữa gia đình, xã hội và nhà trường (điều 93, 95, 97), giữa gia đình, xã hội,
nhà trường với người học (điều 94, 97). Chương này chú ý đặc biệt tới
quyền và trách nhiệm của gia đình trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho
người học phát huy hết khả năng của mình. Trong gia đình, cha mẹ và người
lớn tuổi phải là tấm gương tốt cho con em học tập. Điều này khi áp dụng vào

thực tế được thể hiện trong các phong trào như "Gia đình văn hoá", "Mẹ
đảm đang, con học tốt"… Một điểm đáng nói trong chương luật này nữa là
mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình- 2 môi trường giáo dục quan trọng
nhất đối với người học. Mối quan hệ này được thể hiện và củng cố thông qua
Ban phụ huynh học sinh và cuốn sổ liên lạc (đối với cấp tiểu học và trung
học). Ban phụ huynh học sinh thường được họp sau mỗi học kì nhằm thực
hiện quyền và nghĩa vụ của hai bên với nhau. Cụ thể là phụ huynh sẽ được
biết rõ về tình hình học tập của con em mình và yêu cầu những điều cần thiết
có ảnh hưởng tới việc học hành, của con em mình. Ví dụ như phụ huynh có
thể kiến nghị nhà trường tổ chức các buổi ngoại khóa để học sinh tăng vốn
hiểu biết thực tế. Ngược lại, cha mẹ học sinh cũng phải thực hiện những
trách nhiệm nhất định, ví dụ như: đóng góp các khoản xây dựng trường lớp,
tham gia đầy đủ các buổi họp phụ huynh… Còn đối với xã hội nói chung,
nhà nước khuyến khích các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ và
góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục. Điều luật này đã thể hiện được tính
hiệu quả trong thực tế, ví dụ như các chương trình "Công nghệ thông tin và
truyền thông cho giáo dục năm 2008" của tập đoàn Intel với Bộ Giáo dục &
Đào tạo, các chương trình cấp học bổng hằng năm của Honda Việt Nam đối
24


Bài tiểu luận Xã hội học pháp luật - Luật giáo dục Việt Nam

với sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên cả nước. Tóm lại, chương VI
của luật Giáo dục đã lấy người học làm trọng tâm trong tam giác gia đìnhnhà trường-xã hội.
3.7. Chương VII - Quản lí Nhà nước về Giáo dục
Chương này gồm có 4 mục và 15 điều qui định các vấn đề về nội dung và
cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục, đầu tư giáo dục, hợp tác quốc tế và
thanh tra giáo dục. Đáng chú ý nhất là mục 1 với các điều luật về quản lí nhà
nước về giáo dục. Điều đặc biệt trong chương luật này là nhà nước đóng vai

trò làm chủ thể pháp luật với phạm vi quyền hạn trong giáo dục được qui
định rất rõ ràng. Quyền lực này được thực hiện và phân bổ từ trên xuống
theo thứ tự: Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo- Bộ và các cơ quan ngang
Bộ, Uỷ ban Nhân dân các cấp. Mỗi cấp lại có những chức năng riêng, trong
đó Chính phủ có trách nhiệm phải trình những quyết định trước Quốc hội,
Bộ Giáo dục & Đào tạo phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ, còn Ủy ban
Nhân dân thực hiện quản lí nhà nước theo sự phân công của Chính phủ để
xây dựng các cơ sở giáo dục ở địa phương. Nội dung quản lí nhà nước về
giáo dục gồm 12 ý, liên quan tới những vấn đề về: chính sách, kế hoạch phát
triển giáo dục, chất lượng giáo viên, sách giáo khoa, chương trình học, qui
chế thi cử… Xin lấy ví dụ về việc quyết định chất lượng giáo viên: Vừa mới
đây, Bộ trưởng Giáo dục & Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân vừa kí ban hành
"Qui định về đạo đức nhà giáo". Bên cạnh những yêu cầu cụ thể về phẩm
chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, Qui định cũng cụ thể hoá các yêu cầu về
"Giữ gìn, bảo vệ truyền thống đạo đức nhà giáo, bao gồm 11 "không".
Mục 2 là các qui định về đầu tư cho giáo dục. Năm 2007, ngân sách nhà
nước đầu tư cho giáo dục là hơn 20% và con số này sẽ tiếp tục được duy trì
trong những năm tới, thể hiện sự ưu ái của nhà nước đối với ngành giáo dục,
25


×