Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Môn tác phẩm kinh điển DI CHÚC của CHỦ TỊCH hô CHÍ MINH tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.7 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúc thư của một lãnh tụ thiên
tài, một nhà cách mạng lỗi lạc có tầm nhìn xa, trông rộng, một chiến sĩ cộng
sản suốt đời thương yêu, trân trọng con người, phấn đấu hy sinh vì tự do,
hạnh phúc của con người. Di chúc là bản tổng kết thực tiễn kinh nghiệm lãnh
đạo cách mạng và phương hướng phát triển của dân tộc, đồng thời thể hiện cô
đọng nhân cách của vị lãnh tụ, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà
văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Di chúc kết tinh những giá trị lịch sử, văn
hóa, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó mỗi chữ, mỗi câu, mỗi
đoạn văn được viết ra đều là kết quả của sự suy ngẫm, chắt lọc sâu sắc tư
tưởng, tình cảm và trí tuệ của Người, là một chương trình hành động trong
đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng lại đất nước sau khi nước nhà thống
nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định
thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người tin tưởng rằng đến
ngày chiến thắng, dân tộc ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn.
Thấu hiểu những gian khổ của nhân dân ta trong cách mạng và kháng
chiến, Người căn dặn Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn
hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người
nói: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta.
Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng, phải thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình...
Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".


Người nhắc nhủ: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm


chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Đối với công tác quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là nguồn sức mạnh, nguồn động viên tinh thần to lớn đối
với mỗi cán bộ, đảng viên tự giác tham gia tự phê bình và phê bình, nêu cao ý
thức trách nhiệm tính tiền phong gương mẫu của mình trước Đảng, trước
nhân dân.
Là một cán bộ đảng viên, Đảng Cộng Sản Việt Nam và là cán bộ chủ
chốt của cơ quan, bản thân em nhận thấy tầm quan trọng của việc học tập,
nghiên cứu các tác phẩm kinh điển chủ đề xây dựng Đảng nói chung và việc
đọc, nghiên cứu tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nói riêng là hết
sức cần thiết và quan trọng vì những lời Bác căn dặn giúp cho chúng ta có
những cơ sở lý luận khoa học để quán triệt sâu sắc hơn nữa những quan điểm
về xây dựng đảng, xây dựng đất nước. Qua đó phê phán những quan điểm cơ
hội, xét lại trên lĩnh vực xây dựng đảng hiện nay ở trong nước và phong trào
cộng sản quốc tế. Từ đó soi xét và vận dụng vào thực tiễn công tác của mình,
để không phụ lời căn dặn của Bác đối với toàn đảng viên, Đảng Cộng Sản
Việt Nam.


NỘI DUNG
I.

Hoàn cảnh lịch sử ra đời tác phẩm.

Ngày 15/5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản Di chúc đầu tiên. Bản
Di chúc này do Người tự đánh máy, gồm 3 trang, có chữ ký của Người và chữ
ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn, khi đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh của Chủ tịch Hồ Chí

Minh.
Năm 1966, 1967 không có bản viết riêng, chỉ có hai bản bổ sung vào Di
chúc năm 1965 do chính Hồ Chí Minh viết thêm ở phần nội dung Người viết
về Đảng. Ở khổ văn thứ nhất của nội dung này, Người viết: "Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân". Đến đây,
Người thêm các chữ "phục vụ Tổ quốc". Ở khổ văn thứ ba trong nội dung viết
về Đảng, Người viết: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên
và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát
triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng". Đến đây, Người viết thêm câu:
"Phải có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau" vào cuối khổ văn.
Năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bổ sung một đoạn gồm 6 trang
viết tay. Năm 1969, vào ngày 10/5, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lại toàn bộ
phần mở đầu Di chúc gồm 1 trang viết tay.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố năm 1969, có đề ngày 10-5
gồm 4 trang in khổ 14,5 X 22cm. Bản Di chúc này chủ yếu dựa vào bản Người
viết năm 1965, trong đó có đoạn mở đầu là bản viết năm 1969, đoạn về việc
riêng là phần đầu bản viết năm 1968.
Các bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI công bố năm
1989, vào dịp chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Người.
1. về chủ quan.
Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe
của Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75,


Người thuộc lóp "xưa nay hiếm". Tuy cảm thấy "Tinh thần vẫn sáng suốt,
thân thể vẫn khỏe mạnh", nhưng Người dự báo "Ai đoán biết tôi sẽ sống và
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng mấy năm mấy tháng nữa". Rõ ràng, Hồ
Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại. Từ dự
cảm đó, Người viết: "Vì vậy tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc

thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn
anh khác thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột
ngột".
Đến năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự cảm thấy "sức khỏe có kém
so với vài năm trước đây". Chủ tịch Hồ Chí Minh bình tĩnh, chủ động nhận
biết quy luật của tự nhiên, khi Người viết: "Năm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là
hạng người "xưa nay hiếm"... Khi người ta đã ngoại 70 xuân, thì tuổi tác càng
cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ".
Vì vậy, Người đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và
những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy
sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình
yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, toàn dân tộc, với
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
2. về khách quan.
Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc. Đúng thời
điểm này, chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ ở miền Nam
nước ta bị thất bại hoàn toàn. Ngoan cố và liều lĩnh, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa
quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, thực hiện chiến lược "Chiến tranh cục bộ"
hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực của Quân giải phóng miền Nam, đồng thời mở
rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ đánh
phá hủy diệt miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta không bất ngờ trước việc
đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ở Việt Nam. Ngay trong tháng 3 - 1964, căn
cứ


Điều 67 của Hiến pháp và trước âm mưu của đế quốc Mỹ đang đẩy
mạnh và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
triệu tập và chủ trì Hội nghị chính trị đặc biệt tại Hà Nội. Người khẳng định:
nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh đụng đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ bị thất bại

thảm hại. Người kêu gọi đồng bào miền Bắc ra sức thi đua "mỗi người làm
việc bằng hai để đền đáp cho đồng bào miền Nam ruột thịt". Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã thay mặt toàn dân thể hiện ý chí của toàn dân tộc ta sẵn sàng chiến
đấu chống đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh để bảo vệ miền Bắc và chi viện
tích cực cho cách mạng miền Nam. Đến tháng 3 - 1965, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 11 đã hạ quyết tâm: quyết
chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc chiến tranh cục bộ mà quân Mỹ là nòng cốt diễn ra ở miền Nam
qua hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 và chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng không quân, hải quân Mỹ đã đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn.
Trong thế thắng đó, Đảng ta chủ trương bồi một đòn chiến lược vào ý đồ xâm
lược của đế quốc Mỹ.
Thực hiện chủ trương chiến lược này, Tết Mậu Thân 1968, ta mở cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường miền Nam. Thắng lợi của
cuộc Tổng tiến công đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược" "Chiến tranh cục
bộ" của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc,
chấp nhận đàm phán với ta tại Pari. Tuy nhiên, do bản chất xâm lược và hiếu
chiến, ngoan cố, chúng bắt đầu áp dụng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh
ở miền Nam”.
Trên thế giới, phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã
hội của nhân dân thế giới và nhất là phong trào phản đối chiến tranh xâm lược
của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam
phát triển rất mạnh mẽ.
Cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đến thời điểm đó,


mặc dù còn nhiều khó khăn gian khổ, nhưng khả năng thắng lợi "đánh cho
Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" đã thể hiện rõ. Trong bài thơ mừng Xuân 1969,
Bác đã viết:

"Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào,
Tiến lên! Chiến sỹ, đồng bào,
Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hon!"
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết trong thời điểm bản lề của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng dù còn khó khăn, song
đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân với niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng.
II.

Những nội dung cơ bản của Di chúc.

1. Hồ Chí Minh nói về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm
lưọ’c.
Năm 1965, Hồ Chí Minh dự đoán: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể
sẽ kéo dài mấy năm nữa".
Năm 1969, mở đầu Di chúc, Người viết: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hon nữa, song nhất
định thắng lợi hoàn toàn. Đó là điều chắc chắn".
Nhận định về thời gian "cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo
dài", dự liệu "Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người", nhưng
Người khẳng định một quyết tâm lớn của Người và của cả dân tộc là: "Dù sao
chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn". Từ quyết tâm
đó, Người tin tưởng chắc chắn rằng "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi
nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ
sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng
đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào
phong trào giải phóng dân tộc".



Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã khẳng định một quan điểm, giành độc
lập tự do của Tổ quốc là để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập và giàu mạnh. Người truyền niềm tin đó cho nhân dân qua câu
thơ:
Còn con, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
2. Lời dặn của Hồ Chí Minh về Đảng.
Nói về Đảng là lời dặn đầu tiên của Hồ Chí Minh.
Người khẳng định: vấn đề đoàn kết có tầm quan trọng hàng đầu của
công tác xây dựng Đảng. Đoàn kết là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt
Nam là dưới sự đoàn kết trong Đảng đem lại. Người viết: "Nhờ đoàn kết chặt
chẽ" mà "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu
tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
Người khẳng định, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân ta. Người tâm huyết căn dặn: "Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
người của mắt mình".
Đe thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu
phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng ta
thật sự trong sạch, vững mạnh. Người căn dặn: "Trong Đảng thực hành dân
chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình". Theo
Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng.
Bằng chính tấm gương sáng ngời của đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định tình cảm giai cấp và đồng chí trong Đảng, coi đó là một nhân
tố quan trọng để đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu, trong Đảng "phải có
tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhân tố đạo đức khi Đảng



trở thành đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng cầm quyền là bước chuyển
trọng đại trong sinh hoạt Đảng. Đảng cầm quyền có sứ mạng lãnh đạo giai
cấp và dân tộc xây dựng thành công xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Đe hoàn
thành sứ mạng đó, Đảng ta phải "là đạo đức, là văn minh".
3.

về đoàn viên thanh niên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu
thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn
viên, thanh niên là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước.
Trải qua thực tiễn cách mạng, Người nhận xét: "Đoàn viên và thanh niên ta
nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có
chí tiến thủ". Người nhấn mạnh, thế hệ trẻ mới là người xây dựng thành công
xã hội mới ở Việt Nam. Để họ hoàn thành vai trò lịch sử của mình, Người yêu
cầu "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa
"chuyên".
4.

Với nhân dân lao động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có một tình cảm đặc biệt và niềm tin mãnh liệt
vào nhân dân. Người nêu rõ: " Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở
miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp
bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh
hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi
theo Đảng, rất trung thành với Đảng".

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra các trách nhiệm to lớn của Đảng với nhân
dân là "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa,
nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
5.

về phong trào cộng sản thế giới.

Trước sự bất hòa đang tồn tại trong phong trào cộng sản quốc tế, Hồ
Chí Minh rất day dứt. Với trách nhiệm của người cộng sản chân chính, Người


tự sự: "Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn
mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng
đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em". Đó chính là
một hình thức
gián tiếp, Người gửi tới những người cộng sản chân chính trên thế giới
quan điểm và trách nhiệm của mình vì sự đoàn kết quốc tế của những người
cộng sản.
Với chủ nghĩa quốc tế trong sáng và phương pháp tư tưởng tuyệt vời,
Hồ Chí Minh không bày tỏ "lời khuyên" hay sự nhận xét đúng sai với người
này, người khác, mà người xác định trách nhiệm của Đảng ta đối với sự bất
hòa ấy. Trong Di chúc, Người viết: "Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt
động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng
anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có
lý, có tình". Người bày tỏ niềm tin "các đảng anh em và các nước anh em nhất
định sẽ phải đoàn kết lại".
6. Công việc sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Là một nhà chiến lược thiên tài, nắm vững quy luật và cục diện của
cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước nhất định sẽ thắng lợi. Trong thời điểm viết Di chúc, dù

khẳng định cuộc kháng chiến "còn kéo dài", Hồ Chí Minh đã nhìn xa đến các
nhiệm vụ sau khi kháng chiến thắng lợi. Người căn dặn các công việc phải
làm sau chiến tranh để đạt mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta là:
Ngay sau khi kháng chiến thắng lợi, công việc đầu tiên mà toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta phải ra sức làm là hàn gắn vết thương chiến tranh
nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra. Theo Người, đó là một công việc cực kỳ
to lớn, phức tạp và khó khăn. Người đề nghị Đảng ta phải "có kế hoạch sẵn
sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm".
Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, theo Hồ Chí Minh, "việc cần phải
làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên,


mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm,
toàn ý phục vụ nhân dân". Người khẳng định, "làm được như vậy, thì dù công
việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi".
Với niềm tin vào nhân dân, vào con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: "Đầu tiên là công việc đối với con người". Người căn dặn Đảng và Nhà
nước
phải quan tâm tới mọi đối tượng trong xã hội, không quên bất cứ ai. Sự
quan tâm của Người thể hiện tình thương yêu bao la của Người với mọi tầng
lóp nhân dân. Hồ Chí Minh dặn lại:
"Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng,
Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên
ổn, đồng thời phải mở những lóp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có
thể dần dần "tự lực cánh sinh".
Đối với các liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: Mỗi địa phương
(thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh
anh dũng của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân
ta.

Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động
và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm
ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Với những người trẻ tuổi tham gia bộ đội, thanh niên xung phong là
những người đã được rèn luyện trong chiến đấu, có lòng dũng cảm và tương
lai của họ còn dài, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và Chính phủ cần chọn một số
ưu tú nhất, cử họ đi học thêm các ngành, các nghề, đào tạo họ thành những
người có chuyên môn giỏi, có tư tưởng tốt và lập trường vững chắc. Người
cho rằng, họ sẽ là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta phải tiếp tục thực hiện sự


nghiệp giải phóng phụ nữ. Người đánh giá cao công lao của phụ nữ trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đất nước hòa bình, cần thực hiện hai điều để
tiếp tục giải phóng phụ nữ.
-

Đảng và Chính Phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi

dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ phụ nữ, để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ
trách mọi công việc, kể cả việc lãnh đạo.
-

Đồng thời, bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên.

Theo người, thực hiện được hai điều này là "một cuộc cách mạng đưa
đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ".
Với nông dân, lực lượng cách mạng đông đảo nhất, Hồ Chí Minh
khẳng định: nông dân nước ta luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và

Chính phủ ta. Trong cách mạng cũng như trong kháng chiến, nông dân ra sức
góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người đề
nghị Chính phủ, khi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng hãy "miễn
thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ
hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất".
Với những người trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... Hồ Chí Minh
coi đó là nạn nhân của chế độ xã hội cũ. Bởi vậy, Nhà nước phải vừa giáo
dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao
động lương thiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là những nhiệm vụ phải thực hiện sau
chiến tranh; là những công việc rất to lớn, nặng nề, phức tạp, nhưng cũng rất
vẻ vang. Theo Người, công việc này là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại
những cái cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người nhắn
nhủ, để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu này phải động viên toàn dân, tổ
chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
7.

về việc riêng.

Cuối Di chúc, Hồ Chí Minh mới đề cập đến "việc riêng", những nghi
thức sau khi Người về với "thế giới người hiền", qua đó thể hiện rõ những


phẩm chất đạo đức vô cùng cao quý.
Người đề nghị "chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí
thì giờ và tiền bạc của nhân dân".
Người đề nghị hỏa táng thi hài bởi như thế vừa "tốt về mặt vệ sinh, lại
không tốn đất" và căn dặn "Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn", "Ai đến
thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm". "Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt
cho phong cảnh và có lợi cho nông nghiệp".

Người có tâm nguyện"Gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam".
Năm 1968, Người bổ sung thêm: "Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp
sành. Một hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền
Nam. Đồng bào mỗi miền cho chọn quả đồi mà chôn hộp tro đó".

8. về lời vĩnh biêt của Chủ tich Hồ Chí Minh cuối Di chúc.
••

Những dòng cuối Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lời vĩnh biệt, thể
hiện tình yêu thương bao la và khát vọng của mình.
Trước hết, Người ''để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Tiếp đó, Người "gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và
các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".
Cuối cùng, Người thể hiện mong muốn tột cùng, mục đích sống và mục
tiêu phấn đấu suốt cuộc đời mình, đó là: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Phần thứ ba:


KẾT LUẬN



Ý nghĩa của tác phẩm.
1 . Giá trị tư tưởng.
Giá trị tư tưởng của tác phẩm chính là sự tổng kết toàn bộ tinh thần, tư
tưởng Hồ Chí Minh, làm nền tảng, kim chỉ nam cho sự phát triển cách mạng
Việt Nam.

Những tư tưởng lớn, những phẩm chất đạo đức trong sáng tuyệt vời và
chủ nghĩa nhân văn cộng sản tỏa sáng từ Di chúc lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mãi mãi là nguồn sức mạnh tinh thần dẫn dắt toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta trên con đường xây dựng Tổ quốc Việt Nam theo mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
2. Giá tri thưc tiễn.
Tác phẩm định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng, phát triển đất
nước trong tương lai.
Khẳng định tầm quan trọng của nhân tố đạo đức đối với đảng cầm
quyền, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Đảng ta là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân.
Đối với công tác quán triệt, triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là nguồn sức mạnh, nguồn động viên tinh thần to lớn đối
với mỗi cán bộ, đảng viên tự giác tham gia tự phê bình và phê bình, nêu cao ý
thức trách nhiệm tính tiền phong gương mẫu của mình trước Đảng, trước
nhân dân.
Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người
nói: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta.


Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng, phải thực hành
dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình...
Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau".
Người nhắc nhủ: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và

cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Bác Hồ đặt trọn niềm tin vào sức mạnh và vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước. Bác căn dặn Đảng
phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo thanh niên thành những
người kế tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng vừa chuyên".
Phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là nhiệm vụ rất
quan trọng và rất cần thiết.
Bác căn dặn Đảng phải không ngừng chăm lo cải thiện và nâng cao đời
sống, khoan thư sức dân, bảo đảm việc làm, học tập, thực hiện tốt các chính
sách xã hội đối với từng đối tượng: thương binh; liệt sĩ; gia đình thương binh,
liệt sĩ; những người trẻ tuổi đã tham gia kháng chiến; phụ nữ; các nạn nhân
của chế độ cũ... Làm như vậy là để tất cả mọi người có điều kiện phát huy hết
năng lực của mình trong công cuộc kiến thiết, bảo vệ Tổ quốc.
Di chúc thể hiện tình thương yêu bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với tất cả mọi người, từ mỗi người dân Việt Nam cho đến những bạn bè trên
thế giới. Từ trái tim mình, Bác viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân
yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và
nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn,và các
cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".
Kết thúc bản Di chúc, Bác nói đến điều mong muốn cuối cùng: "Toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự


nghiệp cách mạng thế giới".
Khắc sâu những lời thề trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ta do đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn tuyên đọc trước anh linh của
Người, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã

đoàn kết một lòng, đem hết tinh tần và nghị lực, vượt qua khó khăn, thách
thức, đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực theo di huấn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc,
quyết chiến, quyết thắng, đã anh dũng tiến lên, đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ. Bằng một cuộc tổng tiến công và nổi dậy chưa từng có,
quân và dân ta đã làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975, hoàn toàn giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân trong cả nước.
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mở ra một thời kỳ mới
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta, qua các kỳ Đại hội, từ
Đại hội IV (1986) đến Đại hội XI (2011) đã không ngừng tìm tòi, khám phá
con đường đi lên nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, "xây dựng đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn", như Bác Hồ mong muốn. Công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay
là một công trình sáng tạo lớn. Trải qua hơn 20 năm phấn đấu bền bỉ, phải
vượt qua biết bao khó khăn thử thách, dù trong hoàn cảnh thời cơ và nguy cơ
đan xen nhau, có lúc nguy cơ lấn át cả thời cơ, công cuộc đổi mới đã giành
được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt đất nước có sự thay
đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống
chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính
trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta
trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, sức mạnh tổng họp của quốc


gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế mới và lực mới để đất nước tiếp tục đi lên
với triển vọng tốt đẹp. Đó là những thành tựu rất đáng tự hào.
Song, nước ta hiện nay vẫn là một nước có tiềm lực kinh tế, công nghệ

hạn chế, năng lực cạnh tranh chưa cao; khoảng cách phát triển giữa nước ta và
các nước trong khu vực và trên thế giới còn lớn. Kinh tế nước ta có bước phát
triển nhanh nhưng chưa vững chắc, nhiều vấn đề xã hội còn rất bức xúc. Thực
trạng đó đang đặt ra cho chúng ta những trách nhiệm nặng nề, đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải phát huy hơn nữa sức mạnh của toàn dân
tộc, tận dụng các cơ hội để vượt qua thách thức, xây dựng ý chí tự cường dân
tộc, động viên mọi người vươn lên làm giàu chính đáng cho mình, cho cộng
đồng và toàn xã hội, quyết tâm thực hiện bằng được mục tiêu xây dựng một
xã hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh", đưa nước ta
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong khi lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã dành sự
chú trọng đặc biệt đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xác định đây là
nhiệm vụ then chốt, là điều kiện có tính quyết định để bảo đảm thắng lợi sự
nghiệp cách mạng. Những kết quả bước đầu quan trọng trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng, được thể hiện bằng việc thực hành ngày càng tốt hơn dân chủ trong
Đảng và trong xã hội, thúc đẩy việc phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, nâng
cao tính tích cực của nhân tố con người. Cuộc đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí đã có chuyển biến tích cực, hoạt động tự phê bình và
phê bình trong Đảng từ Trung ương đến các chi bộ có những kết quả nhất
định. Vào những lúc khó khăn hay khi thuận lợi, Đảng đều chỉ đạo tăng
cường công tác tư tưởng, lý luận nhằm khẳng định những vấn đề có tính
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của
Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ. Thông qua những thành tựu và cả những


bài học thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, Đảng ta kịp thời bổ sung, điều chỉnh
bước đi phù hợp với sự phát triển. Đó là cơ sở quan trọng nhằm bảo đảm sự

thống nhất về tư tưởng trong Đảng và sự đồng thuận của xã hội.
Tuy nhiên, trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, sự
tác động của mặt trái cơ chế thị trường, đã và đang có một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị và đạo đức, phai nhạt lý
tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu, kém ý thức tổ chức kỷ luật,
tha hóa về lối sống, quan liêu, xa rời quần chúng. Một số đảng bộ, chi bộ vẫn
còn tình trạng mất dân chủ, hoạt động tự phê bình và phê bình còn nặng hình
thức, để cho chủ nghĩa cá nhân chi phối, nội bộ mất đoàn kết, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đây là một nguy cơ tiềm tàng của Đảng
cầm quyền, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục thực hành những biện pháp đồng bộ, có
hiệu quả nhằm khắc phục và loại trừ, bảo đảm Đảng ta thật trong sạch, vững
mạnh.
Đối với lớp trẻ, thực hiện Di chúc của Bác, Đảng ta đã đề cập nghiêm
túc công tác giáo dục, bồi dưỡng, chăm sóc thanh niên và thiếu niên, coi
thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đặt vấn đề thanh niên ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân
tố và nguồn lực con người. Đảng quan tâm chỉ đạo xây dựng tổ chức Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, xứng đáng là cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng.
Trong quan hệ với bên ngoài, Đảng và Nhà nước ta đã thực thi đường
lối và chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời, mở rộng quan hệ quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình
họp tác quốc tế và khu vực. Mục tiêu của chúng ta là: "Giữ vững môi trường
hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh và phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,


xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh

chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội".
Thực hiện đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn ấy, chúng ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng thể hiện không chỉ ở bước trưởng thành
và sự phát triển nhanh của quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, mà
còn ở cả việc nâng cao không ngừng vai trò, vị thế và tiếng nói của nước ta
trên thế giới và khu vực. Đó là điều mà cộng đồng quốc té thực lòng ghi nhận
và có sự đánh giá công bằng.
Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới có nhiều thời cơ, thuận lợi,
đồng thời cũng đứng trước không ít khó khăn ,thách thức. Bên cạnh những
thành tựu to lớn đã giành được trong gần một phần tư thế kỉ đổi m ớ i , chúng
ta đang phải đối mặt với tình trạng phát triển kinh tế thấp lại đang trong giai
đoạn suy giảm và thiếu ổn định; bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính
trị còn chưa thật tinh giản, hiệu quả, hiệu lực chưa cao ; tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, coi thường kỉ cương, phép nước và các tệ
nạn xã hội khác đang gây bức xúc trong xã hội. Trên thế giới và khu vực, tình
hình còn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Quá trình toàn cầu
hoá và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh; hoà bình, họp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt
động can thiệp lật đổ, chủ nghĩa khủng bố... đang là mối đe doạ đối với nhiều
quốc gia, dân tộc. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu cho đến nay
vẫn chưa có hồi kết.
Lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta phải nhận biết thật rõ và đánh giá
thật đúng tình hình, đâu là khó khăn, thách thức, đâu là thuận lợi, thời cơ.
Những khó khăn và thách thức mà chúng ta phải đối mặt hiên nay không thể
so sánh với những khó khăn và thách thức trong cuộc khánh chiến chống Mỹ
cứu nước mà Bác Hồ nói tới khi viết Di chúc. Những thuận lợi và thời cơ mà
đất nước có được ngày hôm nay cũng lớn hơn nhiều so với những thuận lợi và



thời cơ trong những năm tháng chiến tranh ác liệt trước kia. Đứng trước tình
hình đó, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhất định đoàn kết một lòng, kiên định
con đường cách mạng : Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế
giới.
Để góp phần vào hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, thực
hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mỗi cán bộ
đảng viên nói chung và bản thân em nói riêng phải không ngừng nâng cao
nhận thức đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của Đảng, chống mọi chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, xây dựng, phát triển
và bảo vệ chủ nghĩa Mác — Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mọi mặt như
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trước hết là trong cơ quan mình công tác và
trong Chi bộ, Đảng bộ nơi mình sinh sống. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay
việc tiếp tục học tập, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Mác, Ăngghen,
Lênin nói chung và tác phẩm Di chúc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh nói riêng có
ý nghĩa to lớn, sẽ là cơ sở cốt yếu để giúp cho những người đảng viên, những
người làm công tác đảng hiểu rõ hơn của các nhà lý luận mácxít và tư tưởng
Hồ Chí Minh, để có thêm những cơ sở lý luận, kinh nghiệm để bổ sung và
vận dụng linh hoạt sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh phát triển của đất nước
ta, nhằm thực hiện thắng lợi được các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra là xây
dựng một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh”, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giới thiệu tác phẩm của C.Mác, Ph.Angghen, V.I.Lênin, Hồ Chí


Minh về Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền — Khoa Xây dựng Đảng, Hà Nội, 2012;
2.

Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Giáo trình Xây dựng Đảng, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội,
2008;
3.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011;
4.

Một số bài viết tại Website Đảng cộng sản Việt Nam, Tạp chí

Xây dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................3

II.Những nội dung cơ bản của Di chúc.............................................................6
1.Hồ Chí Minh nói về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lưọ’c...........6
2.Lời dặn của Hồ Chí Minh về Đảng................................................................7
3. về đoàn viên thanh niên................................................................................8
4. Với nhân dân lao động..................................................................................8

5. về phong trào cộng sản thế giới....................................................................8
6.Công việc sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược..........................................9
KẾT LUẬN •..........................................................................................................13
MỤC LỤC..............................................................................................................21



×