Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Các từ ngữ thuộc trường tập tục và lễ hội trong tiếng Tày (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 165 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NÔNG THỊ THỦY

CÁC TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG TẬP TỤC
VÀ LỄ HỘI TRONG TIẾNG TÀY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NÔNG THỊ THỦY

CÁC TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG TẬP TỤC
VÀ LỄ HỘI TRONG TIẾNG TÀY
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS TẠ VĂN THÔNG

THÁI NGUYÊN - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Nông Thị Thủy

i


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thầy Tạ Văn Thông, người đã hướng
dẫn viết luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo đã giảng dạy, khoa Sau đại
học, Trung tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên, đã tạo điều kiện tốt nhất cho tác
giả trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Sau cùng, xin cảm ơn gia đình, người thân, đồng nghiệp và các học viên
Cao học Ngôn ngữ K23 đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
viết luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Nông Thị Thủy

ii



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
5. Đóng góp mới của luận văn ............................................................................. 4
6. Bố cục .............................................................................................................. 4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT ....... 5

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 5
1.1.1. Những nghiên cứu về trường từ vựng ngữ nghĩa ...................................... 5
1.1.2. Những nghiên cứu về dân tộc Tày và tiếng Tày ở Việt Nam.................... 9
1.1.3. Những nghiên cứu về tập tục và lễ hội của người Tày............................ 11
1.2. Cơ sở lí thuyết ........................................................................................... 12
1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học ................................................................................ 12
1.2.2. Cơ sở văn hóa học ................................................................................... 26
1.2.3. Một số nét về người Tày, văn hóa Tày và tiếng Tày ............................... 37
1.2.4. Tiểu kết .................................................................................................... 42
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA CÁC TỪ NGỮ THUỘC
TRƯỜNG TẬP TỤC VÀ LỄ HỘI CỦA NGƯỜI TÀY ..................................... 44

2.1. Khái quát về các từ ngữ chỉ tập tục và lễ hội của người Tày ..................... 44
2.2. Các đơn vị có hình thức là từ...................................................................... 46
2.3. Các đơn vị có hình thức là ngữ ................................................................... 51

2.3.1. Danh ngữ ................................................................................................. 51

iii


2.3.2. Động ngữ ................................................................................................. 53
2.3.3. Tính ngữ................................................................................................... 55
2.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 56
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ THUỘC
TRƯỜNG TẬP TỤC VÀ LỄ HỘI CỦA NGƯỜI TÀY ..................................... 57

3.1. Các từ ngữ chỉ tập tục và lễ hội của người Tày và sự phản ánh văn hóa
truyền thống ....................................................................................................... 57
3.2. Sự phân loại và một số đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ thuộc
trường tập tục của người Tày............................................................................. 61
3.2.1. Khái quát về các từ ngữ thuộc trường tập tục ......................................... 61
3.2.2. Sự phân loại các từ ngữ thuộc trường tập tục .......................................... 62
3.3. Sự phân loại và một số đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ thuộc
trường lễ hội của người Tày .............................................................................. 75
3.3.1. Khái quát về các từ ngữ thuộc trường lễ hội ........................................... 75
3.3.2. Sự phân loại các từ ngữ thuộc trường lễ hội ........................................... 77
3.4. Tiểu kết ....................................................................................................... 80
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 84
PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Các từ ngữ chỉ tập tục và lễ hội xét theo hình thức .......................... 45
Bảng 2.2: Các từ chỉ tập tục và lễ hội xét theo hình thức.................................. 50
Bảng 2.3: Các ngữ chỉ tập tục và lễ hội xét theo hình thức............................... 55
Bảng 3.1: Các từ ngữ chỉ tập tục và lễ hội xét theo ngữ nghĩa ......................... 60
Bảng 3.2: Các từ ngữ thuộc trường tập tục xét theo ngữ nghĩa ........................ 71
Bảng 3.3: Các từ ngữ thuộc trường lễ hội xét theo ngữ nghĩa .......................... 78

iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong nghiên cứu từ vựng ngữ nghĩa của một ngôn ngữ, sự tìm hiểu
những từ ngữ trong các trường nghĩa - những từ ngữ được liên kết với nhau
nhờ có một hoặc một số thành tố nghĩa chung, là một công việc rất có ý nghĩa,
cần sự quan tâm đặc biệt. Có thể nói đây là công việc đầu tiên khi người nghiên
cứu và người học tiếng, khi tiếp xúc với một ngôn ngữ.
Trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam, 53 dân tộc thiểu số có vốn văn hóa
truyền thống rất phong phú, đa dạng. Lễ hội và tập tục là những nét làm nên cái
riêng biệt, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Những đặc trưng văn hóa này được
ghi nhận trong các từ ngữ thuộc thuộc trường tập tục và lễ hội.
1.2. Người Tày có số dân lớn nhất trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
(1.626.392 người - tính đến ngày 1/4/2009), đứng thứ hai sau dân tộc Kinh.
Văn hóa của người Tày đã góp phần đáng kể tạo nên sự đa dạng, phong phú
trong vườn hoa nhiều hương sắc của cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Trong
vốn văn hóa có bản sắc rất riêng này, không thể không kể đến ngôn ngữ, một
yếu tố cấu thành văn hóa, đồng thời là phương tiện quan trọng để lưu giữ và
truyền bá các hình thái văn hóa tinh thần quan trọng nhất của dân tộc Tày.
Đặc biệt, tiếng Tày đã được dùng để lưu giữ và truyền lại những hình
thái văn hóa tinh thần, trong đó có lễ hội (lễ là hệ thống các hành vi, động tác

nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những
ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả
năng thực hiện; hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng,
xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự
bình yên…); tập tục (những hoạt động sống của con người được hình thành
trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận,
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác). Các hình thái văn hóa này (lễ hội, tập

1


tục) rất gần nhau, thậm chí có những điểm giao nhau. Nghiên cứu các từ ngữ
phản ánh các hình thái trên qua ngôn ngữ, trước hết là để hiểu rõ hơn về những
giá trị của những nét văn hóa Tày nói chung, qua đó hiểu biết thêm về vẻ đẹp
của tiếng Tày, góp phần tôn vinh vốn văn hóa vô giá trong đó có ngôn ngữ của
dân tộc này.
1.3. Bản thân tác giả là người con của dân tộc Tày, sinh ra và được nuôi
dưỡng trong cái nôi văn hóa Tày, hiện đang sống và làm việc tại trường THPT
Bản Ngà, xã Huy Giáp, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, khu vực có nhiều dân
tộc thiểu số đang sinh sống như dân tộc Dao, Mông, Sán Chay, Lô Lô, Tày,
Nùng,... Xuất phát từ những lo lắng trước tình trạng nhiều giá trị văn hóa cổ
truyền của nhiều dân tộc thiểu số (trong đó có dân tộc Tày) hiện đang bị mai
một, pha tạp, tác giả có nguyện vọng góp một phần sức lực trong việc tìm hiểu
nhằm bảo tồn và phát triển vốn văn hóa của dân tộc mình, qua việc tìm hiểu các
từ ngữ phản ánh tập tục, lễ hội của người Tày.
Chính vì những lí do trên, đề tài “Các từ ngữ thuộc trường tập tục và lễ
hội trong tiếng Tày” được chọn làm hướng nghiên cứu trong luận văn này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc tìm hiểu hình thức và ngữ nghĩa của các từ ngữ thuộc trường

tập tục và lễ hội trong tiếng Tày, luận văn nhằm miêu tả một nhóm từ ngữ
chỉ những sự vật hiện tượng đặc sắc trong văn hóa truyền thống Tày, đồng
thời hướng tới một cuốn từ điển văn hóa Tày trong tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận về ngôn ngữ học, văn hóa có liên quan đến tập
tục và lễ hội
- Thu thập tư liệu từ ngữ về tập tục và lễ hội qua sách vở, điền dã
- Khảo sát, thống kê - phân loại và miêu tả các từ ngữ chỉ tập tục và lễ
hội trong tiếng Tày.

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những từ ngữ thuộc trường tập tục và lễ hội của người Tày, ở xã Đàm
Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng; xã Huy Giáp, xã Đình Phùng,
huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng.
Tư liệu nghiên cứu: được thu thập qua lời nói hàng ngày của người Tày,
bằng cách phỏng vấn qua các cuộc điền dã. Một số văn bản khác: sách cúng,
tác phẩm văn chương… cũng được sử dụng làm tư liệu nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Hình thức và ngữ nghĩa của những từ ngữ thuộc trường tập tục và lễ hội
của người Tày.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp ngôn ngữ học điền dã
Phương pháp này được sử dụng để thu thập các ngữ liệu phong phú và
đáng tin cậy bằng cách nghe, ghi trực tiếp các cứ liệu từ vựng trong sinh hoạt
hàng ngày của người Tày; chụp ảnh, phỏng vấn để khai thác vốn từ ngữ và
cách hiểu (gồm cả sự liên tưởng) đối với các tập tục và lễ hội.

4.2. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được sử dụng khi khảo sát, để tìm ra quy luật xuất hiện
của các từ ngữ chỉ tập tục và lễ hội trong tiếng Tày, theo những mục đích miêu
tả, phân tích và đánh giá khác nhau.
4.3. Phương pháp miêu tả
Được sử dụng với các thủ pháp phân tích và tổng hợp, nhằm chỉ ra
những đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của đối tượng nghiên cứu, đặc điểm
định danh sự vật và một số nét văn hóa (được thể hiện một phần qua ngôn ngữ)
của người Tày.
Ngoài ra, tác giả luận văn sẽ tham khảo cách nhìn nhận của Văn hóa học,
đặc biệt là phong tục tập quán, quan niệm về thế giới quan và nhân sinh quan
của người Tày, khi giải thích các nét văn hóa của người Tày được phản ánh qua
các từ ngữ về tập tục và lễ hội trong tiếng Tày.

3


5. Đóng góp mới của luận văn
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Tác giả hi vọng luận văn này sẽ góp thêm tư liệu cho nghiên cứu về
trường từ vựng - ngữ nghĩa nói chung.
- Ngoài ra, luận văn có thể còn góp một số kinh nghiệm nhìn nhận một
số đặc điểm trong ngôn ngữ các dân tộc thiểu số từ góc nhìn văn hóa.
- Luận văn cũng bổ sung cách nhìn nhận trong nghiên cứu các tập tục, lễ
hội của người Tày. Đặc biệt, luận văn có thể cung cấp những tư liệu cho việc
khái quát hóa những đặc trưng tập tục, lễ hội của người Tày.
5.2. Ý nghĩa thực tế
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo về cấu trúc chung cho việc biên
soạn một công trình tra cứu mang tính bách khoa về văn hóa cổ truyền của các
dân tộc Việt Nam, là động lực thúc đẩy việc biên soạn loại công trình này trong

tương lai.
- Luận văn có thể dùng để tham khảo trong giáo dục, là một cơ sở giúp
cho bạn đọc, thuộc những dân tộc khác nhau tìm hiểu về vốn văn hóa cổ truyền
của các dân tộc Việt Nam, cũng như một dân tộc cụ thể - người Tày. Từ đó,
độc giả thấy được khái quát sự thống nhất trong đa dạng, nét đặc sắc trong bức
tranh muôn màu văn hóa của các dân tộc ở Việt Nam.
- Luận văn có thể giúp cho việc nâng cao sự trân trọng, ý thức gìn giữ và
phát triển, đối với văn hóa cổ truyền của người Tày.
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, phần Nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Chương 2: Đặc điểm hình thức của các từ ngữ thuộc trường tập tục và lễ
hội của người Tày.
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của các từ ngữ thuộc trường tập tục và
lễ hội của người Tày.

4


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Những nghiên cứu về trường từ vựng ngữ nghĩa
Ở Việt Nam, có rất nhiều nhà ngôn ngữ học đã có các công trình nghiên
cứu, các giáo trình về trường từ vựng, ngữ nghĩa ở nhiều mức độ khác nhau:
Có thể kể đến một số công trình sau:
- Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục, H.
- Đỗ Hữu Châu (1999), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.

- Mai Ngọc Chừ (2003), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
- Nguyễn Thiện Giáp (2003), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H.
- Nguyễn Thiện Giáp (2010), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H.
Trong nghiên cứu các trường từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, không thể
không kể đến các công trình có thể xem là tiêu biểu của các tác giả Đỗ Hữu
Châu và Nguyễn Thiện Giáp.
- Cuốn Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt (Đỗ Hữu Châu, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1999) gồm 312 trang, được chia năm phần riêng có liên kết chặt chẽ
với nhau theo trục “từ vựng - ngữ nghĩa”. Phần Mở đầu, Phần thứ nhất và
Phần thứ hai nghiên cứu các đơn vị từ vựng như những chỉnh thể hình thức
(phần I) và ý nghĩa (phần II) - cũng là sự nghiên cứu các đơn vị tách biệt của
từ vựng; Phần thứ ba và thứ tư nghiên cứu toàn bộ từ vựng như hệ thống của
những đơn vị tách biệt trên; Và Phần thứ năm có tính chất là phần ứng dụng
và thử nghiệm.
Trong cuốn giáo trình đồ sộ này, Đỗ Hữu Châu đã dành ra cả chương IX
thuộc Phần thứ ba - hệ thống từ vựng hệ thống ý nghĩa để nói về các trường
nghĩa. Trong chương IX tác giả đã nêu khái niệm “trường nghĩa” và cách phân
5


loại các trường nghĩa căn cứ vào hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ học mà
F.de Saussure đã chỉ ra là quan hệ hình tuyến (quan hệ ngang) và quan hệ trực
tuyến (quan hệ dọc), theo đó chia trường nghĩa thành hai loại: trường nghĩa
ngang (trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến).
Trong trường nghĩa dọc có hai trường nghĩa nhỏ là trường biểu vật và trường
biểu niệm. Phối hợp trường nghĩa ngang và trường nghĩa dọc, ta có trường
nghĩa liên tưởng.
- Cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học (Nguyễn Thiện Giáp - chủ biên, Đoàn
Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội 2010) cũng dành sự
chú ý cho trường từ vựng - ngữ nghĩa. Cụ thể: Trong Chương bốn: Từ vựng,

Mục B: Ý nghĩa của từ và ngữ, VII - Trường nghĩa (trang 108 - 112), tác giả
Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày một số cách hiểu về trường nghĩa như sau:
Lí thuyết trường nghĩa ra đời vào mấy chục năm gần đây. Mục đích cơ
bản của lí thuyết này là khảo sát từ vựng một cách hệ thống. Có nhiều cách
hiểu khác nhau về khái niệm trường nghĩa, nhưng có thể quy vào hai khuynh
hướng chủ yếu:
a, Khuynh hướng thứ nhất quan niệm trường nghĩa là toàn bộ các khái
niệm mà các từ trong ngôn ngữ biểu hiện. Đại diện cho khuynh hướng này là
L.Weisgerber và J.Trier. Hai ông chịu ảnh hưởng nhiều của học thuyết về “hình
thái bên trong của ngôn ngữ” của H.Humbold mà theo quan niệm của tác giả
này, là cái phản ánh “tinh thần” của một dân tộc nào đó. Đây là một quan điểm
có những hạn chế nhất định khi nhìn nhận mối quan hệ giữa trường khái niệm
và trường từ vựng, tức là bình diện nội dung và bình diện biểu hiện.
b, Khuynh hướng thứ hai cố gắng xây dựng lí thuyết trường nghĩa trên
cơ sở các tiêu chí ngôn ngữ học.Trường nghĩa không phải là phạm vi các khái
niệm nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ lẫn nhau về nghĩa.

6


Những trường nghĩa được xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ có thể được phân biệt
thành những kiểu khác nhau:
- Trường từ vựng - ngữ pháp
- Trường cấu tạo từ
- Trường từ vựng - cú pháp
Kiểu trường nghĩa phổ biến nhất là cái được gọi là “nhóm từ vựng - ngữ
nghĩa”. Tiêu chuẩn để thống nhất các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa
có thể rất khác nhau. Chẳng hạn, có thể dựa vào sự tồn tại của các từ biểu thị
các khái niệm ở dạng chung nhất, trừu tượng nhất và trung hòa. Bên cạnh
những nhóm từ vựng - ngữ nghĩa với các từ khái quát như trên, người ta còn

tập hợp các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa trên cơ sở một khái niệm
chung có mặt ở trong mỗi một từ của nhóm này. Có người còn xếp cả từ loại và
các tiểu loại của một từ loại vào những nhóm từ vựng - ngữ nghĩa, bởi cho rằng
các từ thuộc một từ loại hoặc một tiểu loại cũng có cùng ý nghĩa khái quát
chung. Những loạt đồng nghĩa, trái nghĩa thực chất cũng là một kiểu đặc biệt
của các nhóm từ vựng - ngữ nghĩa.
Đặc biệt, một số tác giả cũng coi là trường nghĩa cả những kết cấu ngữ
nghĩa của các từ đa nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ đa nghĩa
thường có một yếu tố ngữ nghĩa chung, tạo nên cái gọi là trục ngữ nghĩa. Toàn
bộ các nghĩa khác nhau của một từ tạo ra một trường nghĩa nhỏ nhất....
Ngoài ra phải kể đến một số công trình tiêu biểu như:
- Năm 1973, Đỗ Hữu Châu có công trình Trường từ vựng và hiện tượng
đồng nghĩa, trái nghĩa.
- Năm 1975, Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trường và việc
nghiên cứu từ vựng.
Các công trình nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu đã cung cấp một hệ thống
lý thuyết về trường từ vựng - ngữ nghĩa. Trường từ vựng ngữ nghĩa được chia

7


làm bốn loại, căn cứ vào các loại ý nghĩa của từ bao gồm: trường nghĩa biểu
vật; trường nghĩa biểu niệm; trường nghĩa tuyến tính; trường nghĩa liên tưởng.
Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết này để nghiên cứu tiếng Việt.
Đặc biệt, trường nghĩa liên tưởng được áp dụng nhiều khi nghiên cứu tác phẩm
văn học. Ví dụ một số công trình tiêu biểu như:
- Năm 1988, Nguyễn Đức Tồn có luận án PTS Trường từ vựng bộ phận
cơ thể người.
- Năm 1996, Nguyễn Thúy Khanh có luận án PTS Đặc điểm trường từ
vựng ngữ nghĩa tên gọi động vật.

- Năm 1999, Đinh Thị Oanh bảo vệ luận văn Thạc sĩ Cấu trức ngữ nghĩa
của vị từ thuộc trường “thực vật”.
- Năm 2002, Nguyễn Đức Tồn xuất bản công trình Tìm hiểu đặc trưng
văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy người Việt. ở chương thứ 8 đã chỉ ra
đặc điểm ngữ nghĩa của trường gọi thực vật.
- Năm 2007, Đỗ Thị Kim Liên có bài báo Trường ngữ nghĩa biểu hiện
quan niệm về nữ giới trong tục ngữ Việt (Đăng trên Tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống; số 6 (140) - 2007).
- Năm 2007, Phan Thị Thúy Hằng bảo vệ luận văn Thạc sĩ Trường từ
vựng tên gọi các loại cây trong ca dao của người Việt.
- Năm 2008, Lê Thị Thanh Nga bảo vệ luận văn Thạc sĩ Đặc điểm lớp từ
ngữ thuộc trường nghĩa chỉ vật dụng - biểu tượng tình yêu trong ca dao tình
yêu lứa đôi.
- Năm 2009, Hoàng Anh, Nguyễn Thị Yến có bài báo Trường nghĩa ẩm
thực trong các bài báo viết về bóng đá (Đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 7 (165) - 2009).
- Năm 2010, Trần Thị Mai có bài báo Trường từ vựng chỉ không gian
trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận (Đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời
sống, số 1+2 (171+172) - 2010)

8


...
Như vậy, có thể thấy trường từ vựng, ngữ nghĩa là những vấn đề được
các nhà ngôn ngữ học rất chú ý tìm hiểu. Lý thuyết trường được vận dụng vào
nghiên cứu với vai trò là cơ sở để phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác
nhau: chỉ ra các đặc trưng văn hóa và mối quan hệ ngôn ngữ - tư duy; đặc điểm
từ vựng của ngôn ngữ; ngôn ngữ thơ... Những phương diện này cũng được chú
ý trong tiếng Việt.

1.1.2. Những nghiên cứu về dân tộc Tày và tiếng Tày ở Việt Nam
1.1.2.1. Những nghiên cứu về dân tộc Tày
Nguồn gốc, các đặc điểm văn hoá của dân tộc Tày đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà dân tộc học. Có thể kể đến một số công trình đã được
hoàn thành có liên quan đến dân tộc Tày như sau:
- Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, H.
- Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh
phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, H.
- Lã Văn Lô, Hà Văn Thư (1984), Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, H.
- Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình của các dân tộc Tày, Thái
ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Nguyễn Chí Huyên (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới
phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
- Hoàng Tuấn Nam, Bế Thanh Tuyền (2001), Việc dựng vợ gả chồng của
người Tày Cao Bằng, Trung tâm văn hóa thông tin tỉnh Cao Bằng.

Văn nghệ dân gian Tày cũng là một lĩnh vực hấp dẫn đã và đang thu hút
được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Có thể kể đến các tác phẩm:

9


- Nông Minh Châu, Vi Quốc Bảo(1963), Dân ca đám cưới Tày - Nùng,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
- Triều Ân (1994), Ca dao Tày - Nùng, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
- Triều Ân (1994), Truyện thơ Nôm Tày, Nxb Văn hóa Dân tộc, H.
- Hoàng Ngọc La (chủ biên) (2000), Văn hóa dân gian Tày, Sở văn hóa
Thông tin Thái Nguyên, TN.
- Triều Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển thành ngữ, tục ngữ Tày, NXB

Văn hóa dân tộc, H.
- Triều Ân, Hoàng Quyết (1996), Từ điển văn hóa cổ truyền dân tộc Tày,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
…….
Các công trình trên cho thấy các nhà nghiên cứu đã rất quan tâm đến lịch
sử phát triển của dân tộc Tày cùng với vốn văn hóa tinh thần phong phú của họ.
Có thể xem các tác phẩm như vậy đã góp phần quan trọng trong việc lưu giữ,
bảo tồn những giá trị văn hóa quý báu ở một tộc người, để cho người đời nay
và mai sau được biết và trân trọng.
1.1.2.2. Những nghiên cứu về tiếng Tày
Tiếng Tày thuộc nhóm Tày - Thái trung tâm, dòng Tày - Thái, họ Tai Ka đai, là ngôn ngữ của một dân tộc có số dân đông nhất sau dân tộc Kinh, là
phương tiện giao tiếp ngôn ngữ của các đồng bào ở miền núi phía Bắc như Cao
Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang...
Tiếng Tày đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt của các trí
thức Tày. Có thể kể đến một số công trình về tiếng Tày đã được hoàn thành
như sau:
- Nguyễn Hàm Dương (1970), Chức năng xã hội của tiếng Tày - Nùng,
Ngôn ngữ, số 1.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí (1971), Ngữ pháp tiếng Tày Nùng, Nxb Khoa học xã hội, H.

10


- Nguyễn Minh Thuyết, Lương Bèn, Nguyễn Văn Chiến (1971), Góp ý
về việc cải tiến chữ Tày - Nùng, Ngôn ngữ, số 2, H.
- Đoàn Thiện Thuật (1972), Hệ thống ngữ âm tiếng Tày - Nùng, Tìm
hiều ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam - T1, Viện Ngôn ngữ học, H.
- Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo (1984), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb
Khoa học xã hội, H.
- Cung Văn Lược (1992), Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ

Việt Nôm, Luận án PTS Khoa học ngữ văn, H.
- Lương Bèn (1993), Tình hình phát triển của chữ Tày - Nùng, Những
vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Hoàng Văn Ma (1993), Vấn đề tiếng và chữ Tày - Nùng, Những vấn đề
chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Nguyễn Thị Lương (1994), Tiếng Tày ở Na Hang, Khóa luận tốt nghiệp
Đại học Tổng hợp Hà Nội, H.
- Hoàng Văn Ma, Mông Ký Slay, Hoàng Văn Sán (2000), Sách học tiếng
Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
- Hoàng Văn Ma (2002), Loại từ trong tiếng Tày - Nùng, Ngôn ngữ dân
tộc thiểu số Việt Nam - Một số vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại hình học,
Nxb Khoa học xã hội, H.
- Lương Bèn (chủ biên) (2007), Slon phuối Tày (dùng cho cán bộ công
tác tại vùng dân tộc), TN....
1.1.3. Những nghiên cứu về tập tục và lễ hội của người Tày
Dân tộc Tày đứng thứ hai về số dân sau dân tộc Kinh, với một nền văn
hóa phong phú nên có rất nhiều công trình của các nhà khoa học nghiên cứu về
tập tục, lễ hội, và tâm linh dân tộc này, ngoài những người thuộc dân tộc Tày,
có cả những nhà nghiên cứu thuộc các dân tộc khác muốn tìm hiểu và nghiên
cứu về những nét đặc trưng văn hóa của dân tộc này.

11


Sau đây là một số công trình:
- Nguyễn Thị Hiền, Người diễn xướng then: nghệ thuật hát dân ca và
thay shaman, Tạp chí Văn học số 5/2000, tr.74-83.
- Đoàn Thị Tuyến (1999), Đạo then trong đời sống tâm linh của người
Tày, Nùng Lạng Sơn, Khóa luận tốt nghiệp khoa Sử, Đại học Khoa học Xã hội
& Nhân văn.

- Hà Đình Thành, then của người Tày, Nùng với tín ngưỡng tôn giáo dân
gian, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 5/2000, tr.35-39
- Hà Đình Thành, Tình hình sưu tầm, nghiên cứu tín ngưỡng then, mo,
tào, pụt của người Tày, người Nùng Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số
3/2004, tr.36-44.
- Nguyễn Thị Yên, Khảo sát đối tượng thờ cúng trong then, Thông báo
Văn hóa Dân gian, 2001, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 1013-1030.
- Nguyễn Thị Yên (2003), Lễ hội Nàng Hai của người Tày Cao Bằng,
Nxb Văn hóa Thông tin.
- Nguyễn Thị Yên, Saman giáo trong then của Người Tày, Tạp chí
Nguồn sáng, số 1/2004, tr. 3-14....
Những bài viết theo hướng này đã cho một bức tranh rõ nét về khía
canh tín ngưỡng của loại hình văn nghệ dân gian được sử dụng trong các
hoạt động tập tục, lễ hội và tâm linh. Và tín ngưỡng lại sử dụng văn nghệ
làm phương tiện. Sự nghiên cứu đã tập trung vào những khía cạnh văn hóa:
mối quan hệ giữa tào, mo, pụt, đặc điểm làm nghề của thầy then, vấn đề tôn
giáo tín ngưỡng, cách diễn xướng trong then, sự phức hợp của ca - múa nhạc - mĩ thuật trong then...
1.2. Cơ sở lí thuyết
1.2.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.2.1.1. Từ, ngữ và những khái niệm có liên quan
- Từ và các phương thức cấu tạo từ
Từ là gì? Hay nói cách khác: Cần định nghĩa như thế nào đối với từ, cái
đơn vị cấu trúc - ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ vẫn được quan niệm là dùng
12


để gọi tên các sự vật hiện tượng của đời sống, mang trong mình nó các thuộc
tính tiêu biểu về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp của một ngôn ngữ?... Cho đến
nay, trong ngôn ngữ học, đã có nhiều những câu trả lời không như nhau.
Theo các nhà ngôn ngữ học, từ được coi là đơn vị cơ bản, trung tâm

trong hệ thống ngôn ngữ. Nó là cơ sở để con người tiến hành hoạt động nhận
thức và tạo ra mọi sản phẩm ngôn ngữ (cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản) phục
vụ cho nhu cầu giao tiếp. Vì thế, khi nghiên cứu bất kì một ngôn ngữ nào người
ta cũng đều lấy từ làm đơn vị xuất phát, khởi đầu cho việc tìm hiểu hệ thống
ngôn ngữ đó.
Tuy nhiên, tính đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau khi bàn đến
khái niệm “từ”. Lí giải nguyên nhân của tình trạng phức tạp và sự tồn tại đa
quan điểm về đơn vị từ, các nhà nghiên cứu cho rằng là do bản thân các từ rất
khác nhau về nhiều mặt (về hình thức nhận diện, về chức năng và đặc điểm ý
nghĩa…) giữa các ngôn ngữ không cùng loại hình, thậm chí cùng trong một
ngôn ngữ. Những phức tạp trong việc nhận diện từ cũng như định nghĩa nó đã
khiến cho một số nhà nghiên cứu còn khéo léo né tránh khái niệm từ như S.
Bally, G. Glison… Thậm chí, ngay từ khi tách ngôn ngữ ra khỏi lời nói, F. de
Sausure, cha đẻ của trường phái cấu trúc luận đã đã khẳng định “…từ là một
đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong
toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ, mặc dù khái niệm này rất khó định nghĩa”. Hay
trường phái ngôn ngữ học miêu tả Mĩ lại cực đoan, coi nhẹ khái niệm từ và cho
rằng đơn vị cơ bản của ngôn ngữ là hình vị chứ không phải từ. Theo họ, từ là
đơn vị thuộc cấp độ ngữ pháp.
Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến đã đưa
ra định nghĩa: “Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững,
hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong
lời nói để tạo câu” [17, tr.141].

13


Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, được ghi nhận là
quan niệm: “Từ là đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực hiện
chức năng giao tiếp và chức năng tư duy... Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình

thức và mặt ý nghĩa. Mặt hình thức theo chúng tôi, là một hợp thể của một số
thành phần: thành phần ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo
(còn gọi là cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp” [57, tr.334-335].
Cho đến nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Các định nghĩa
cho thấy việc miêu tả bản chất của từ và đưa ra những nguyên tắc định nghĩa từ
được nhìn nhận theo 3 khuynh hướng: i. Từ chỉ được khảo sát theo một phần
quan điểm của ngôn ngữ học, còn việc giải quyết nó được chuyển sang các lĩnh
vực lân cận như triết học, logic học và tâm lí học… Tiêu biểu cho khuynh
hướng này là các tác giả I.O.Reznikov, E.M. Galkina Fedoruk, G.V.
Kolsanskiy; ii. Từ được xác định theo một tiêu chí nào đó (thiên về ngữ âm,
hoặc thiên về ngữ nghĩa, hoặc thiên về chức năng…) hoặc xác định một cách
chung chung, không cụ thể. Tiêu biểu có các tác giả E. Sapir, K.Buhkler, Hans
Glinz, W. Schmidt, V.M. Zhirmunsskiy…; iii. Từ được khảo sát từ nhiều tiêu
chí khác nhau, nhưng đặc biệt chú trọng tới những đặc điểm riêng của từ trong
mỗi ngôn ngữ. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các tác giả O.P Xunik,
N.M. Sanskiy…Theo khuynh hướng này, từ đã được khảo sát một cách toàn
diện và đầy đủ về các mặt ngữ âm, hình thái, ngữ pháp, ngữ nghĩa… Có thể
nói, khuynh hướng thứ ba này mở ra hướng nghiên cứu từ một cách đúng đắn
nhất và hiệu quả nhất bởi nghiên cứu từ từ nhiều phương diện sẽ giúp chúng ta
nhận diện được đặc điểm chung các ngôn ngữ có cùng loại hình, đồng thời
cũng tìm được những đặc điểm riêng của từ trong mỗi ngôn ngữ.
Như vậy có thể thấy cho đến nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về từ.
Một định nghĩa được nhiều người chấp nhận hơn cả, là:

14


Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, được sử dụng độc lập, tự do trong
lời nói để đặt nên câu.
Trong định nghĩa vừa nói, có hai đặc điểm của từ được nêu ra đáng chú ý:

+ Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa: Từ có hình thức phổ biến là một
khúc đoạn âm thanh hoàn chỉnh nhỏ nhất, đồng thời có ý nghĩa (dùng để gọi tên
các sự vật hiện tượng, các thuộc tính, các quan hệ… trong thực tiễn đời sống).
+ Từ được sử dụng độc lập, tự do trong lời nói để đặt nên câu: Từ có
thể tách biệt ra khỏi các đơn vị khác (khác với các từ khác, cụm từ…) và được
dùng theo các quy tắc nhất định để tạo nên câu (là đơn vị được cấu tạo bằng các
từ và các cụm từ, dùng để thông báo).
Những đặc điểm trên giúp phân biệt từ với các đơn vị khác: phân biệt với
yếu tố cấu tạo nên từ (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nhưng không được dùng trực
tiếp để "đặt nên câu"); phân biệt với cụm từ và câu (các đơn vị có nghĩa, nhưng
không "nhỏ nhất".
Xét về cấu trúc bên trong, xem các từ vừa nói bao gồm những yếu tố
nào, thì các từ có thể được phân biệt thành những nhóm như sau:
+ Các từ đơn (chỉ gồm một yếu tố có nghĩa, tức là không thể tìm thấy
trong nó yếu tố nào có nghĩa, nhỏ hơn so với nó).
+ Các từ phức (gồm hơn một yếu tố có nghĩa, tức là có thể tìm thấy trong
nó ít nhất một yếu tố có nghĩa, nhỏ hơn so với nó).
Các từ phức thường có hình thức song tiết, thậm chí có thể có hình thức
trên hai âm tiết.
Các phương thức cấu tạo từ:
Theo cách hiểu phổ biến nhất, cấu tạo từ là việc tạo nên các từ mới theo
những mô hình nhất định của hệ thống ngôn ngữ, phục vụ cho những nhu cầu
diễn đạt mới của cộng đồng người nói.
Nghiên cứu cấu tạo từ là phải chỉ ra cấu trúc của từ, của các thành tố bên
trong từ. Như vậy, thường thì người ta xem xét cấu tạo từ qua các sản phẩm của

15


cấu tạo từ (các từ mới). Trên thực tế, xem xét cấu tạo từ của một ngôn ngữ là

phải tìm hiểu quá trình người nói đã lựa chọn các “nguyên liệu” nào và tác
động vào các “nguyên liệu” đó như thế nào, để có được các từ mới, chứ không
chỉ tìm hiểu các từ mới này như các đối tượng tĩnh, có sẵn, bất biến. Sự lựa
chọn và tác động cần xem xét như thế, được gọi là “phương thức cấu tạo từ”.
Trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới người nói đã sử dụng các
phương thức khác nhau trong cấu tạo từ (bao gồm các cơ chế, quá trình xử lí
các “nguyên liệu” - đơn vị gốc để tạo thành từ mới). Đó là:
+ Từ hoá hình vị là phương thức tác động vào bản thân một hình vị, làm
cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà
không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Hay nói cách khác, dùng một hình
vị tạo thành một từ thực chất là cấp cho hình vị cái tư cách đầy đủ của một từ..
+ Láy là phương thức tác động vào một hình vị cơ sở làm xuất hiện một
hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Các hình vị cơ sở và
hình vị láy tạo thành một từ (mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ).
+ Ghép là phương thức tác động vào 2 hoặc hơn 2 hình vị có nghĩa, kết
hợp chúng với nhau để sản sinh ra một từ mới (mang đặc điểm ngữ pháp và ý
nghĩa như một từ).
Đặc trưng cơ bản của phương thức ghép là ở chỗ dưới tác động của nó,
các từ mới tạo thành có cấu trúc chặt chẽ và có tính thành ngữ về nghĩa. Nói
một cách hình ảnh: Nếu đem A ghép với B thì nghĩa của từ mới được tạo ra
không phải là tổng số của A với B (A + B thuần tuý), mà là X. Nghĩa là,
phương thức ghép đã mang lại một sự thay đổi trong nội dung biểu thị (so với
các thành tố tạo nên nó).
Trong nghiên cứu các ngôn ngữ phương Đông - nơi các phương thức
ghép rất phổ biến, sự phân biệt trong các từ ghép thường bằng tính chất và các
kiểu quan hệ giữa các thành tố tạo nên chúng. Hai loại từ ghép thường được
16


nhắc đến là: đẳng lập và chính phụ. Tuy rằng ghép đã xác nhận là phương thức

cấu tạo các đơn vị từ vựng rất phổ biến hiện nay trong nhiều ngôn ngữ phương
Đông, tuy nhiên vẫn có sự băn khoăn về tư cách “từ” của các sản phẩm của
phương thức ghép khiến nhiều nhà nghiên cứu rất lưỡng lự khi gọi nó là
“phương thức cấu tạo từ”.
Kết quả của phương thức ghép được gọi là từ ghép. Từ ghép bao giờ
cũng là các từ phức (có hai hoặc hơn hai hình vị). Tương ứng với hai loại từ
ghép vừa nói ở trên là hai kiểu ghép: ghép các đơn vị có tư cách như nhau (do
nghĩa của chúng chi phối) - thường được gọi là ghép đẳng lập, và ghép các đơn
vị có tư cách là chính và tư cách là phụ - thường gọi là ghép chính phụ.
Phương thức ghép tác động lên các đơn vị gốc (bên ngoài từ ghép) tạo
thành từ ghép gồm các thành tố có quan hệ với nhau chủ yếu về nghĩa. Phương
thức này tạo thành hàng loạt từ gồm các thành tố được kết hợp theo cùng mô
hình cấu tạo và có chung một kiểu ý nghĩa.
- Ngữ (hay đoản ngữ)
Trong ngôn ngữ, còn có những đơn vị khác tương đương với từ, có cùng
chức năng định danh và tạo câu như từ nhưng không hoàn toàn giống từ về cấu
tạo và ngữ nghĩa. Đó là các ngữ (phrase) hay một số tác giả còn gọi là tổ hợp từ
được định nghĩa là một nhóm từ có chức năng định danh. Ở Việt Nam, khi đề
cập đến đơn vị này, các nhà Việt ngữ học đã đưa ra những khái niệm khác nhau
cả về nội hàm và ngoại diên. Tác giả Lê Văn Lý gọi đây là nhóm từ ngữ,
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê gọi là từ kết, Nguyễn Kim Thản lại dùng
thuật ngữ từ tổ, Nguyễn Tài Cẩn, Mai Ngọc Chừ gọi là đoản ngữ, Cao Xuân
Hạo lại gọi là ngữ đoạn…
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Như Ý,
"ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ có
17


quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm
thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của thực tại khách

quan" [75, tr.176].
Tác giả Mai Ngọc Chừ chỉ ra rằng: "các từ trong chuỗi lời nói luôn có
mối quan hệ nhất định với nhau. Mỗi từ không phải cùng một lúc có mối liên hệ
với tất cả các từ trong câu mà trực tiếp liên hệ với một từ độc lập nào đó. Một
nhóm từ có liên hệ trực tiếp với nhau ở trong câu gọi là tổ hợp từ. Nếu tổ hợp
từ có quan hệ chính phụ với nhau gọi là các đoản ngữ" [17, tr.306].
Như vậy, có thể thấy cụm từ là một tổ hợp gồm hai thực từ trở lên, được
kết hợp với nhau theo các quan hệ ngữ pháp nhất định, là tên gọi phức của sự
vật hiện tượng, thường biểu thị ý nghĩa cùng một loại với nghĩa của thành tố
trung tâm trong cụm từ.
Các cụm từ ở trên có thể thuộc về hai loại: cụm từ liên hợp và cụm từ
chính phụ.
Cụm từ liên hợp là tổ hợp gồm các từ có quan hệ bình đẳng ngang hàng,
kết hợp với nhau lỏng lẻo nhờ dấu ngắt câu hoặc các quan hệ từ.
Các cụm từ chính phụ là tổ hợp gồm các từ có quan hệ không bình đẳng,
kết hợp với nhau tương đối chặt chẽ, trong đó có một thành tố trung tâm và một
hay nhiều thành tố phụ có vai trò bổ sung, giải thích, xác định… (phụ thêm)
cho thành tố trung tâm. Đặc trưng ý nghĩa và ngữ pháp của cụm từ chính phụ
chủ yếu do thành tố trung tâm chi phối.
Đoản ngữ là một tổ hợp từ trong đó các thành tố có quan hệ chính phụ.
Đặc điểm của đoản ngữ:
Theo Nguyễn Tài Cẩn, đoản ngữ là một loại tổ hợp tự do có ba đặc điểm:
a. Gồm một thành tố trung tâm và một hay một số thành tố phụ quây quần
xung quanh trung tâm đó để bổ sung thêm một số chi tiết thứ yếu về mặt ý nghĩa.
b. Quan hệ giữa trung tâm và thành tố phụ có nhiều kiểu loại chi tiết rất
khác nhau, nhưng nói chung đều thuộc vào loại quan hệ chính phụ.

18



×