Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC NHÂN CÁCH SINH VIÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.35 KB, 20 trang )

Nguyễn Duy Đăng

MỤC LỤC
Trang

CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU.......................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2
2. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.................................................................2
3. Cấu trúc đề tài.......................................................................................................................3

CHƯƠNG II: NỘI DUNG..................................................................................4
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ..............................................................................................4
1.1. Xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng, yếu tố quan trọng
trong nhân cách sinh viên......................................................................................4
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức...............................................................5
1.3 Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến................................................................6
1.4. Nguyên lý về sự phát triển .............................................................................8
2. THỰC TIỄN............................................................................................................10
2.1. Đặc điểm nhân cách sinh viên hiện nay..........................................................10
2.2. Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách................................................13
2.3. Đối với sinh viên đặc biệt...............................................................................17
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN........................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................20

Trang 1


Nguyễn Duy Đăng

CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài


Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh
vật học, tâm lý học, đạo đức học, y học. Nghiên cứu về con người là một vấn đề
không hề mới lạ nhưng lại xoay quanh nhiều khía cạnh tùy thuộc vào đặc điểm của
mỗi ngành khoa học. Con người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học
từ cổ đại đến trung đại.
Từ thời xa xưa cho đến thời đại ngày nay con người được xem là vị trí trung
tâm và có vai trò quyết định đến sự tồn vong và phát triển của xã hội. Con người
được xem là chủ thể của lịch sử xã hội, con người làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy phải
được tôn trọng, được sống tự do hạnh phúc và được phát triển toàn diện. Song ngày
nay con người vẫn đang trong tình trạng bất công, đòi hỏi xã hội phải quan tâm đến
sự phát triển của con người.
Con người cũng là mục tiêu cơ bản của sự phát triển xã hội để đảm bảo cho
xã hội phát triển vấn đề xây dựng con người giữ được một vai trò hết sức quan trọng
và luôn thường trực. Đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế như hiện nay, vai trò của con người ngày càng được khẳng định rõ nét hơn.
Ở Việt Nam vấn đề con người cũng luôn là một vấn đề thời đại và đang được
nhiều ngành khoa học, nhiều cá nhân đặc biệt quan tâm, nhất là vấn đề xây dựng
con người từ khi con trong ghế Nhà trường đối với học sinh sinh viên. Đổi mới giáo
dục, hay coi giáo dục là quốc sách hàng đầu luôn được Đảng và Nhà nước quan
tâm. Sau Hội nghị Trung ương 8, Khóa XI vào tháng 10/2013, vấn đề đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được coi như là một trong những nội dung vừa
chiến lược, vừa cấp thiết. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước,
Việt Nam đang cần một quyết sách toàn diện, căn bản, xứng tầm với lĩnh vực quan
trọng hàng đầu này.
Chính vì những lí do đó về mặt lý luận và thực tiễn tôi quyết định chọn đề tài
tiểu luận “Quan điểm triết học Mác – Lê nin về con người với việc xây dựng nhân
cách sinh viên Việt Nam hiện nay”
2. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được viết nhờ trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin với phương pháp logic lịch sử, hệ thống hóa, phân tích tổng hợp và liên hệ

Trang 2


Nguyễn Duy Đăng

thực tiễn.
3. Cấu trúc của đề tài
Chương 1. Mở đầu: Phần này trình bày nội dung sự cần thiết, lý do chọn đề tài và
các phương pháp nghiên cứu đề tài.
Chương 2. Nội dung: Chương này trình bày cơ sở lý luận triết học Mác – Lê nin
về con người, tính thực tiễn rút ra từ cơ sở lý luận triết học và những đề xuất kiến, kiến
nghị.
Chương 3. Kết luận: Từ những phân tích đưa ra kết luận chung cho toàn bộ đề tài
nghiên cứu, khẳng định những kết quả đạt được trong đề tài nghiên cứu và đề xuất hướng
một số hướng nghiên cứu trong thời gian tới.

Trang 3


Nguyễn Duy Đăng

CHƯƠNG II: NỘI DUNG

1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Vai trò của triết học Mác - Lênin trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh
viên Việt Nam được xây dựng qua các cơ sở sau:
1.1. Xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng, yếu tố quan trọng trong nhân
cách sinh viên.
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng

được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép
biện chứng duy vật không chỉ có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ
điển Đức, đặc biệt là với phép biện chứng của Hêghen (là phép biện chứng được xác lập
trên nền tảng thế giới quan duy tâm), mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với
nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại. Phép biện
chứng khoa học trở thành một khoa học.
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác—Lênin có sự thống nhất
giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận hiện chứng duy vật,
do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới
và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác Lênin không chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là
phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát
mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận
động, phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp những nguyên tắc phương pháp
luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, đó không chỉ là
nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn diện, phát
triển, lịch sử - cụ thể, phưong pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra nguồn gốc,
động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển, v.v.. Với tư cách đó , phép biện
chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải
tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội
dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chú nghĩa Mác - Lênin, đồng thời
Trang 4


Nguyễn Duy Đăng

nó cũng là thế giới quan vả phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong

các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ
này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức,
song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Vai trò của vật chất đối với ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi
có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì
con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế
giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có
trước, ý thức có sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người,
thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn
ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng
tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng
định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý
thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác
động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật
chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như
mọi sự biến đổi của ý thức.
Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
Trang 5



Nguyễn Duy Đăng

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò
của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.
Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi
hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực
tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại
khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương huớng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện mục
tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác động của mình đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiền của con người. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra
theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa
học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp
với các quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá
trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý
thức. Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản
chất, quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược
lại các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của
ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng
sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác
động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực
tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ
thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những người

hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật
chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý thức.
1.3 Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến
- Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến: Trong phép biện chứng, khái
niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới;
còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ
Trang 6


Nguyễn Duy Đăng

tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép
biện chứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ
định, cái chung và cái riêng…Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn
tại những mối liên hệ đặc thù vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi
nhất định, nhưng đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó,
những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều
kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất
trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ
trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Tính chất của các mối liên hệ: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
-Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật: các
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm
đó, sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật,
hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không
phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

- Tính phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất
cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác; đồng thời cũng không có bất cứ sụ vật, hiện tượng nào không
phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ
bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống
mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa
Mac-Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà
còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú
của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau
đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại
và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong
những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không
thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với
những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là mối liên hệ bên trong và
bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu và thứ yếu…
Trang 7


Nguyễn Duy Đăng

Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm
về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù
trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian
và thời gian cụ thể.
- Ý nghĩa phương pháp luận: Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ
đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
xem xét sự vật trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,

giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn
đề của đời sống thực tiễn. như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến
diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên
cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải
kết hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận
thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai
trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được
những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy,
trong nhận thức và thực tiễn không những cần phải tránh và lhắc phục quan điểm phiến
diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
1.4. Nguyên lý về sự phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm
thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó
cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co
phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng
để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ
thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát
triển không đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là
Trang 8


Nguyễn Duy Đăng


sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp
lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở
những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có
của sự vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế
thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện
tượng mới.
- Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,
phong phú.
- Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và
phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải
quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách
quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra
trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong
mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã
có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù họp với quy luật khách quan.
- Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là
khuynh hướng chung của mọi sự vật. hiện tượng, song rnỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi
lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở
những không gian và thời gian khác nhau sự vật, hiện tượng phát triển sẽ khác nhau.
Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật, hiện tượng còn chịu nhiều sự tác
động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch
sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát
triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong
phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận


Trang 9


Nguyễn Duy Đăng

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức
thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần
phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, "... Lôgíc biện chứng đòi hỏi phải xét sự
vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó". Quan điểm
phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát
triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực
tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác,
con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch,
đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật,
hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể
trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú,
đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận
thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết:
"... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và
những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng,
trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng!' . V.I.Lênin
cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hòi nguời ta phải chú ý đến tất cả các mặt của
những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó".

2. THỰC TIỄN
Khi bàn về sự cần thiết của việc giảng dạy triết học cho sinh viên, một số ý kiến cho
rằng, đào tạo đại học là đào tạo nghề, đào tạo các chuyên gia làm việc trong các lĩnh vực

khác nhau của nền kinh tế quốc dân nên chỉ cần giảng dạy các môn học chuyên ngành là
đủ. Luận điểm này thoạt nghe dường như có lý, nhưng thực ra là sai lầm. Thực tế cho
thấy, Nhà nước không đơn giản chỉ cần đến những chuyên gia, mà hơn hết là cần những
công dân có trách nhiệm với tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước. Để giáo dục
ý thức công dân thì cần có triết học và các môn khoa học xã hội, nhân văn khác.
Sinh viên ở các thời đại khác nhau và ở các nước khác nhau đều thường đi tiên
phong trong các phong trào và các tiến trình chính trị. Triết học đóng vai trò quan trọng
trong việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan, hệ thống giá trị
Trang 10


Nguyễn Duy Đăng

văn hóa nhân văn cho sinh viên, nó như “la bàn” giúp họ định hướng tính tích cực xã hội
và chính trị của mình vào mục đích xây dựng, sáng tạo. Triết học đem lại cho sinh viên tri
thức về các mối quan hệ xã hội, về bản chất, chức năng của nhà nước và của pháp luật, về
mục đích tồn tại của con người, về cái thiện và cái ác, về mối quan hệ giữa cá nhân với
nhà nước và xã hội, về tự do và trách nhiệm. Vì vậy, triết học có vai trò quan trọng trong
quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.
2.1. Đặc điểm nhân cách sinh viên hiện nay
Sinh viên Việt Nam hiện nay là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua
các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng. Họ là lớp người
đang trưởng thành, đang chuẩn bị hành trang nghề nghiệp cần thiết và chín muồi về nhân
cách. Là bộ phận dân cư có tuổi đời trẻ chủ yếu khoảng từ 18 - 23, sinh viên được xã hội
đào tạo theo hệ thống cơ bản để trở thành những nhà quản lý xã hội, lực lượng sản xuất
hiện đại và quan trọng trong tương lai. Với tư cách bộ phận xã hội đặc thù, sinh viên có
những đặc điểm riêng.
Một là, số lượng sinh viên thay đổi từng năm, tùy thuộc vào quá trình tuyển sinh và
theo xu hướng tăng dần.
Hai là, sinh viên là đội dự bị trí thức tương lai. Vì vậy, họ mang trong mình những

đặc điểm của tầng lớp trí thức, như có khả năng lĩnh hội và sáng tạo tri thức khoa học, kỹ
thuật và công nghệ, khá nhạy cảm với những vấn đề chính trị - xã hội... Họ là nhóm xã
hội dễ tiếp thu tư tưởng mới (kể cả tích cực lẫn tiêu cực). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“óc những người tuổi trẻ trong sạch như một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh.
Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ”. Vì vậy, các lực lượng xã hội khác nhau, các đảng phái khác
nhau đều tìm cách lôi kéo sinh viên, mong muốn sự ủng hộ từ phía họ cho các hoạt động
của mình.
Ba là, sinh viên chưa có một “vị trí thực” trong cơ cấu nghề nghiệp cũng như trong
xã hội. Bởi lẽ, họ chưa có một nghề nghiệp ổn định, chưa có một vị trí riêng trong quá
trình sản xuất của nền sản xuất xã hội. Hoạt động chủ yếu nhất của họ là hoạt động học
tập và bước đầu tham gia nghiên cứu khoa học, nắm vững một lĩnh vực tri thức nghề
nghiệp nhất định để sau này trở thành chuyên gia của nghề nghiệp đó.
Tóm lại, sinh viên có vị trí "song hành", vị trí "kép" trong xã hội. Một mặt, họ là
những thanh niên sinh viên đang dần hoàn thiện nhân cách, là lực lượng sản xuất hiện
đại, người chủ của đất nước trong tương lai. Mặt khác, họ là nguồn lực cơ bản để bổ sung
vào đội ngũ trí thức trong tương lai. Họ chính là nguồn nhân lực chất lượng cao đầy tiềm
Trang 11


Nguyễn Duy Đăng

năng sáng tạo và ứng dụng khoa học - công nghệ để góp phần thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay.
Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách đặc
trưng phù hợp với vị thế xã hội của mình. Ví dụ, nhân cách người cán bộ lãnh đạo, nhân
cách người giáo viên... Sinh viên - một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể
hiện tính đặc thù trong nhân cách của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của
nhân cách, là hình thức biểu hiện tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Có thể
hiểu nhân cách sinh viên là tổng thể những phẩm chất đạo đức và tài năng, thể chất và
tinh thần được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, qui định giá trị và những hành vi xã

hội của sinh viên, được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, hoạt động giao tiếp,
ứng xử, hoạt động xã hội của cá nhân mỗi sinh viên.
Nhân cách sinh viên Việt Nam trong điều kiện hiện nay, ngoài những đặc điểm
chung của nhân cách, thì còn có những biểu hiện riêng về phẩm chất đạo đức và năng
lực, như sinh viên hiện nay năng động, sáng tạo và thực tế hơn. So với các thế hệ sinh
viên trước đổi mới, sinh viên hiện nay có tính thực tế cao. Chọn ngành học là biểu hiện
đầu tiên của tính thực tế. Họ tập trung nhất vào những ngành học mà ra trường có thể xin
việc được ngay vì xã hội đang cần, những nghề có thu nhập cao, chỉ số ít sinh viên chọn
nghề theo mơ ước.
Sinh viên hiện nay rất năng động. Họ năng động trong phương thức tiếp nhận tri
thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính là học tập; năng động trong quá trình tham gia vào
hoạt động xã hội: Làm thêm dưới nhiều hình thức thời gian (nửa ngày, vài ngày trong
một tuần, buổi tối), phong phú về nghề (làm gia sư, bán hàng, giúp việc nhà...). Một số
sinh viên có tham vọng trở thành những nhà kinh doanh giỏi đã mở cửa hàng kinh doanh
thể hiện tính chủ động, sáng tạo cao trong công việc của mình.
Tính sáng tạo của sinh viên được thể hiện ở việc rất nhiều sinh viên tham gia nghiên
cứu khoa học và đạt giải cao trong các kỳ thi quốc tế, quốc gia, giải thưởng Tài năng trẻ
Việt Nam hàng năm do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức...
Sinh viên hiện nay đề cao vai trò cá nhân: Kinh tế thị trường có tác động mạnh mẽ
đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay. Sinh viên
luôn có ý thức cao việc khẳng định nhân cách bằng cách trau dồi kiến thức chuyên môn,
khẳng định vị trí của mình trước xã hội. Đồng thời, họ thể hiện rõ vai trò cá nhân, lợi ích
cá nhân trong hành động. Lợi ích chung và sự quan tâm, chia sẻ với những người xung
Trang 12


Nguyễn Duy Đăng

quanh dường như bị lấn át bởi việc thực hiện những lợi ích riêng, nhu cầu cá nhân ở một
bộ phận sinh viên.

Sinh viên xác định rõ phương pháp thực hiện lý tưởng của mình: Lý tưởng cao cả
của sinh viên Việt Nam hiện nay là giữ vững nền độc lập dân tộc và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đạo đức cộng sản là yếu tố cấu thành quan trọng nên lý tưởng
của sinh viên. Khẳng định điều này vì đạo đức là thành phần đặc biệt trong nhân cách của
sinh viên, cái để phân biệt sự khác nhau giữa nhân cách này với nhân cách khác xuất phát
từ điểm gốc là "đức" trong mỗi con người.
Trong thời đại hiện nay, mỗi sinh viên hiểu rằng, sống có lý tưởng trước hết phải
trân trọng và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng biết bao
mồ hôi và xương máu của các thế hệ cha ông trong dựng nước và giữ nước. Thứ hai, sinh
viên phải dốc lòng học tập, rèn luyện để góp sức mình thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới, đưa đất nước tiến những bước vững chắc trong quá trình hội nhập, phát triển
trong bối cảnh toàn cầu hóa. Họ hiểu muốn củng cố và bảo vệ nền độc lập tự do của dân
tộc chỉ có một con đường duy nhất đúng là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lý
tưởng của sinh viên được biểu hiện rõ nhất ở khát vọng học tập, nghiên cứu, ở sự nỗ lực,
chuyên cần, sáng tạo trong học tập nhằm nắm vững những tri thức vươn lên chiếm lĩnh
những đỉnh cao của khoa học - công nghệ, nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển
của nền văn minh nhân loại. Bởi vì, trong xu thế phát triển hiện nay, dân tộc nào vươn
lên đến đỉnh cao trí tuệ thì dân tộc đó sẽ chiến thắng. Đúng như khẳng định của Chủ tịch
Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
2.2. Hoạt động hình thành và phát triển nhân cách
Khi nghiên cứu tính quy luật của sự hình thành nhân cách, nhân cách sinh viên,
chúng ta thấy rằng nhân cách chỉ được hình thành và phát triển cùng với quá trình giáo
dục và tự giáo dục, quá trình giao tiếp, quá trình hoạt động thực tiễn bộc lộ những "phẩm
chất người" của mỗi con người..; trong đó, giáo dục giữ vai trò chủ đạo. Giáo dục triết
học Mác - Lênin cho sinh viên là một yếu tố hợp thành quan trọng của nền giáo dục đại
học nước ta hướng đến việc xây dựng những thế hệ sinh viên có nhân cách trong sáng, có
lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình hội
nhập và phát triển đất nước. Cơ sở để khẳng định điều đó là:
Thứ nhất, giáo dục triết học Mác - Lênin trong trường đại học nhằm góp phần hình
thành thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam

Trang 13


Nguyễn Duy Đăng

Giáo dục triết học Mác - Lênin trước hết là giáo dục những nguyên lý, phạm trù cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xây dựng lập trường thế giới quan cho sinh viên.
Đó chính là thế giới quan duy vật biện chứng - nền tảng để sinh viên nhận thức và tiếp
thu những nguyên lý, quy luật khác. Thế giới quan là toàn bộ hệ thống tri thức, những
quan niệm của con người về thế giới và về vị trí của chính con người trong thế giới
đó. Là một hệ thống tri thức, quan niệm về thế giới nhưng thế giới quan được hiểu là kết
quả của quá trình nhận thức đặc thù của con người, chứ không phải là phép cộng giản
đơn tổng số các tri thức khoa học cụ thể.
Việc giáo dục triết học Mác - Lênin trong các trường đại học có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa học - thế giới quan
duy vật biện chứng của sinh viên. Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn
khoa học đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối
với hiện thực, có phương hướng chính trị vững vàng, có khả năng nhận biết, phân tích và
giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác
- Lênin.
Với tư cách một hệ thống lý luận, một học thuyết, triết học Mác - Lênin đã lý giải
một cách khoa học nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới đó. Như
vậy, triết học Mác - Lênin đóng vai trò là cơ sở lý luận, là "hạt nhân" của thế giới quan.
Gọi là "hạt nhân" của thế giới quan, bởi vì ngoài triết học Mác - Lênin, thế giới quan Mác
- Lênin còn có các quan điểm về chính trị, kinh tế, đạo đức, luật pháp, thẩm mỹ... Song,
tất cả các quan điểm trên đều được xây dựng trên nền tảng khoa học của triết học Mác Lênin. Quan điểm và niềm tin khoa học của triết học Mác - Lênin đã tạo dựng cơ sở nền
tảng cho toàn bộ hệ thống thế giới quan Mác - Lênin. Triết học đã lý giải về mặt lý luận
toàn bộ các dữ kiện của hiện thực khách quan và hoạt động thực tiễn của con người một

cách lịch sử - cụ thể và khoa học nhất. Vấn đề cơ bản của triết học, như Ph.Ăngghen đã
nói, là vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Việc con người có khả năng nhận
thức được thế giới hay không cũng là những vấn đề của thế giới quan. Thế giới quan của
chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cốt lõi là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, là hệ thống lý luận khoa học và cách mạng; nó đã, đang và sẽ là một công cụ tư
duy quan trọng nhất định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta nói chung và sinh viên nói
riêng trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, xây dựng và
phát triển thế giới quan Mác - Lênin chính là nhân tố đặc biệt quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách sinh viên Việt Nam nói riêng.
Trang 14


Nguyễn Duy Đăng

Tuy nhiên, thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự động, tức cứ trang
bị tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó còn phải là quá trình chuyển tri thức thành niềm
tin khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và phát triển thế giới quan là
những nhận thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả của quá trình giáo dục và những kinh
nghiệm được tích lũy trong thực tiễn của sinh viên. Đó chính là quá trình hình thành và
phát triển các quan điểm, quan niệm, niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong
quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và tình
cảm là những yếu tố cơ bản nhất cấu thành nên thế giới quan. Trong đó, tri thức tự nó
chưa thể trở thành thế giới quan. Nó chỉ gia nhập thế giới quan khi trở thành niềm tin
trong mỗi người. Nhờ có niềm tin, tri thức mới trở thành cơ sở cho hành động của mỗi
người. Khi biến thành niềm tin, tri thức đóng vai trò động cơ, động lực tinh thần cho hoạt
động của con người, giúp con người xác định lý tưởng sống. Đạt đến "độ" này, mỗi sinh
viên thể hiện trình độ sâu sắc trong nhận thức và tri thức, hình thành thế giới quan và khi
đó, thế giới quan trở thành nhân tố định hướng quan trọng trong mọi hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
Thứ hai, giáo dục triết học Mác - Lênin còn góp phần xây dựng nhân sinh quan

cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên, xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc
đời, về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh
viên hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần.
Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi dưỡng nhân
sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang bị cho họ những kiến
thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và chức năng của nhà nước, về con
người và các quan hệ xã hội của con người, về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển
tất yếu của xã hội... Đồng thời, từng bước xây dựng cho sinh viên cách nhìn, lối sống
cũng như cách vận dụng những định hướng giá trị xã hội đã được nhận thức vào thực tiễn
cuộc sống. Chẳng hạn, từ tri thức về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy, cung cấp cho sinh viên một cách nhìn khoa học đối với hiện thực khách quan và
khẳng định vai trò, vị trí của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới. Hoặc là,
khi phân tích kết cấu của mỗi hình thái kinh tế - xã hội, với tất cả các quy luật tác động
và chi phối nó, C.Mác đã kết luận: Sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên. Chính những kết luận như vậy tự nó đã mang đến cho mỗi sinh
viên một niềm tin vào sự phát triển. Từ đó giúp họ có thái độ đúng đắn, khoa học đối với
Trang 15


Nguyễn Duy Đăng

hiện thực cũng như khả năng phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trên tinh
thần thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng. Điều này tạo ra trong mỗi
sinh viên thái độ lạc quan cách mạng để vượt qua những thử thách, cam go trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. ở đây, với những tri thức được học, sinh viên sẽ hiểu
rằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học được xây dựng trên cơ sở kế thừa một cách
chọn lọc những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của nhân loại trong lịch sử và được phát

triển một cách khoa học lên tầm cao mới, đáp ứng đúng quy luật phát triển của xã hội. Và
Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học
vào thực tiễn nước ta để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khi nhận thức rõ vấn đề
đó, sinh viên sẽ tự nguyện, tự giác sống theo quan điểm sống của nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa như là một sự thôi thúc nội tâm. Mặt khác, việc giáo dục triết học Mác Lênin còn giúp sinh viên có năng lực nhận diện rõ và đấu tranh chống lại những quan
điểm trái với những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học, trái với chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa giáo
điều, đứng vững trong cuộc đấu tranh phòng chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực
thù địch.
Chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là học thuyết về con người và giải phóng con
người. Học thuyết Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng trang bị cho
sinh viên một nhân sinh quan khoa học và nhân đạo, chỉ ra mục đích cao cả nhất của
cuộc sống là vì con người và vì sự nghiệp giải phóng con người. Mỗi con người chỉ đạt
được lợi ích, nhu cầu cá nhân cao nhất khi nhận thức đúng đắn và tự nguyện, tự giác
thực hiện lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình. Nhân cách chỉ được hình thành và phát
triển khi giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, hạnh phúc
của mỗi cá nhân chỉ được đảm bảo và thực hiện khi hạnh phúc của toàn thể xã hội được
đảm bảo, được thực hiện. Mỗi cá nhân chỉ được giải phóng khi sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân loại được thực hiện. Qua việc thẩm thấu những tri thức này, mỗi
sinh viên tự nguyện hướng đến lẽ sống cao đẹp "mình vì mọi người và mọi người vì
mình".
Thứ ba, giáo dục triết học Mác - Lênin góp phần xây dựng lý tưởng cộng sản cho
các thế hệ sinh viên Việt Nam. Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành
nhân cách sinh viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con
người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà lý tưởng
cộng sản hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã hội chủ nghĩa và sau
này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. ở đó, con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc.
Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh
Trang 16



Nguyễn Duy Đăng

từ chính bản thân tri thức ấy để tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng
vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hoài bão, sinh viên tất có ý chí
thực hiện lý tưởng. Việc thực hiện lý tưởng không phải trừu tượng, xa vời, mà ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường họ cần xác lập ý chí học tập để sau này góp phần xây
dựng Tổ quốc. Đồng thời, họ cần có tinh thần đấu tranh với những hành vi lệch chuẩn
của một bộ phận sinh viên sống thiếu trách nhiệm, mất phương hướng, lòng tin, lý tưởng
sa đà vào cuộc sống hưởng thụ, thực dụng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng mình, vô cảm với lợi
ích của đồng loại, của dân tộc.
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới tác động
của giáo dục triết học Mác - Lênin cũng chính là quá trình hình thành ở họ những phẩm
chất cần thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt xã hội,
giúp sinh viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén với thực tiễn, xử lý
tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý tưởng, có ước mơ để học tập, phấn
đấu và cống hiến. Trong cuộc sống con người không thể sống mà thiếu lý tưởng phấn
đấu. Lý tưởng là sự thôi thúc nội tâm giúp con người hành động để thỏa mãn những nhu
cầu, lợi ích của cá nhân và xã hội. Vì vậy, giáo dục triết học Mác - Lênin nhằm từng bước
xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh viên là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng
chính là giá trị đạo đức của từng cá nhân sinh viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu
của mỗi sinh viên. Đạt đến mục tiêu này, giáo dục triết học Mác - Lênin hoàn toàn khẳng
định vai trò quan trọng và quyết định của mình trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa những
biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách của sinh viên trước những tác động tiêu cực
của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế hiện nay.
2.3. Đối với sinh viên đặc biệt
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên, chắc chắn Thầy, Cô
sẽ gặp những học sinh “đặc biệt”, ý thức kém, đây được gọi là các sinh viên cá biệt. Đối
với những trường hợp như vậy, Thầy, Cô cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Quá trình phát triển nhân cách là quá trình tất yếu của bất kỳ cá thể nào như đã nêu ở

trên. Sinh viên có thái độ học tập chưa tốt, chưa đạt hiệu quả cao và không có ý thức học
tập tốt là do quá trình này thiếu sự định hướng hoặc do nhận thức chưa đầy đủ. Tất cả
những sinh viên này đều có thể được giáo dục lại để phát triển theo đúng hướng và tốt
đẹp hơn. Tuy nhiên, hình thức và phương pháp giáo dục phải có sự khác biệt với các đối
tượng sinh viên khác nhau và đòi hỏi quá trình lâu dài và tốn nhiều công sức hơn.
- Cần nhớ, vật chất có trước, ý thức có sau, những khiếm khuyết trong nhân cách, suy
nghĩ của sinh viên không phải tự nhiên hình thành mà phải là kết quả tác động của một
Trang 17


Nguyễn Duy Đăng

quá trình, một tác nhân nào đó. Do vậy, trước hết, giảng viên đặc biệt là cố vấn học tập có
vai trò rất lớn trong việc tìm hiểu nguyên nhân của sự chưa có ý thức học tập của sinh
viên, sinh viên cá biệt. Theo Triết học Mác-Lênin, khi xem xét sự việc hiện tượng phải
xét nó trong mối quan hệ với những yếu tố khác. Vì vậy, nguyên nhân không bao giờ chỉ
đơn giản đến từ sinh viên mà chắc chắn có những yếu tố ngoại cảnh khác như gia đình,
bạn bè, xã hội thậm chí là Thầy, Cô.
- Bản chất thể hiện ra ngoài thông qua hiện tượng nhưng hiện tượng không phải là
bản chất. Giảng viên tuyệt đối không được chụp mũ, quy kết tất cả đều do lỗi của sinh
viên, nặng hơn là kết luận sinh viên không phải là người tốt chỉ qua một vài hành vi hoặc
biểu hiện yếu kém. Cần có quá trình theo dõi trong suốt thời gian dài trước khi kết luận
và nhất thiết phải tìm ra được nguyên nhân. Nếu không tìm ra được những nguyên nhân
thực sự của căn bệnh, việc chữa bệnh – giáo dục lại sẽ không thể đạt được kết quả như
mong muốn.
- Kế đến, giảng viên phải chủ động tạo ra những động lực, cách thức để sinh viên hình
thành và phát triển lại nhân cách. Giảng viên cần tạo ra những mâu thuẫn về trách nhiệm
đối với gia đình, bạn bè, Thầy, Cô để sinh viên suy nghĩ lại những hành vi của mình, từ
đó tạo ra động lực kích thích học sinh có những điều chỉnh để phát triển. Các tác động
của giảng viên đến sinh viên không nên quá nhanh, ồ ạt, giáo điều mà cần có sự chậm rãi,

từ từ, ghi nhận sự tiến bộ qua từng ngày dù là nhỏ nhặt nhất. Những động viên, điều
chỉnh kịp thời đúng lúc của giảng viên sẽ hiệu quả hơn hàng trăm, hàng nghìn bài giảng
về đạo đức. Quá trình này chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn hơn các sinh viên khác.
Tuy nhiên giảng viên cần kiên trì và không từ bỏ. Bởi vì lượng cứ tích lũy dần dần thì dù
chậm cũng sẽ có lúc chất biến đổi, chắc chắn những tác động hôm nay sẽ mang lại hiệu
quả về sau.
Giảng viên phải luôn nhớ rằng khi xem xét sự việc, phải xét trên quan điểm phát triển.
Không có sinh viên cá biệt, không có sinh viên không thể dạy được, không có sinh viên
không thể tiến bộ. Chỉ có sinh viên phát triển nhân cách chậm hoặc khiếm khuyết. Chính
giảng viên, nhận ra điều đó, sẽ có những tác động phù hợp để sự phát triển nhân cách
diễn ra đúng đắn theo cách mà nó nên diễn ra.

Trang 18


Nguyễn Duy Đăng

CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Dù ở đâu và bất cứ thời điểm nào, quan điểm của Mác – Lê nin cũng như tư tưởng
Hồ Chí Minh đều là kim chỉ nam cho hành động của nước ta. Con người, hơn hết, chính
là chủ thể lịch sử, là yếu tố tạo ra lịch sử. Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất để
xây dựng một xã hội, một Nhà nước.
Chính vì vậy, việc xây dựng con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng là điều
quan trọng nhất cần phải quan tâm và thực hiện.
Để việc xây dựng con người được thành công, công tác đầu tiên cần phải chú
trọng là công tác giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo từ những công dân nhỏ tuổi
của đất nước, của những thế hệ sẽ làm chủ đất nước trong tương lai “ Ươm mầm từ hôm
nay, để gặt quả mai này”. Thế hệ trẻ cần nắm vững những quan điểm, quan niệm về con
người về vai trò, trách nhiệm của mỗi cá nhân trong tập thể, trong cộng đồng, trong xã
hội, trong tổng thể loài người.

Việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay cũng đồng thời đòi hỏi sự tứ ý thức
của mỗi cá nhân và cả việc chung tay giúp sức của cả cộng đồng vì một đất nước Việt
Nam giàu đẹp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” trên con
đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong công tác giáo dục sinh viên, giảng viên cần phải sự dụng triết học
Mác – Lê nin như là phương pháp luận, là kim chỉ nam hành động cho các hoạt động của
mình. Hiểu và vận dụng tốt những luận điểm trên, hiệu quả của việc giáo dục chắc chắn
sẽ đạt như ý muốn.
Hơn nữa, có thể thấy những luận điểm của triết học Mác – Lênin đã thể hiện đúng
đắn và phổ quát của nó trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng.
Điều này cho thấy giá trị hết sức to lớn của triết học Mác – Lênin đối với nhân loại.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận, tác giả không thể trình bày hết ý nghĩa phương
pháp luận của các luận điển trong triết học Mác – Lênin cũng có thể tự rút ra những bài
học và giải pháp riêng cho bản thân với mục đích cuối cùng là làm sao để giáo dục sinh
viên trở thành những công dân gương mẫu, trách nhiệm và đầy đủ phẩm chất cần thiết
bước vào đời.

Trang 19


Nguyễn Duy Đăng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Giáo trình Triết học, (Dùng cho NCS và Cao học
không chuyên ngành Triết học) – NXB Lý luận chính trị Hà Nội.
2. Học viện chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Phân viện báo chí và Tuyên
truyền, Khoa chính trị học (1999), Giáo trình trính trị học đại cương – NXB Chính trị
quốc gia.
3. Học viện chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Phân viện báo chí và Tuyên
truyền, Khoa chính trị học (2006), Bài Giảng Triết học Mác - Lênin – NXB Chính trị

quốc gia.
4. Tiểu luận triết Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người. Đọc từ:
/>5. Tiểu luận xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo quan điểm
Triết học Mác – Lênin. Đọc từ: />
Trang 20



×