Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua một số đoạn trích truyện kiều trong chương trình ngữ văn lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.16 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
V. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1. Thực trạng chung
2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài.
III. Một số giải pháp cụ thể
1.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
3. Vài lưu ý khi thực hiện các giải pháp.
4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
C. KẾT LUẬN

Trang
2
2
3
3
3
3
4
4
6
6
7


8
8
8
18
18
19

1


DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
QUA MỘT SỐ ĐOẠN TRÍCH “TRUYỆN KIỀU” TRONG CHƯƠNG
TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 10
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới phương pháp dạy
học và đổi mới đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân,
đem lại những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Để thực hiện được
điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp
dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến
thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh, đồng
thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang
kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề những vấn đề
trong thực tiễn. Có như vậy thì sản phẩm đầu ra của giáo dục mới có thể mang lại
lợi ích thiết thực cho cuộc sống được. Chính vì lẽ đó việc dạy học theo định
hướng phát triển năng lực người học là một yêu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp
phát triển giáo dục.
Thực ra điều này chúng ta đã làm bao năm nay từ khi chúng ta đổi mới dạy
học theo chuẩn kiến thức kĩ năng nhưng nhìn lại đâu đó chúng ta vẫn còn quá chú
trọng nội dung bài học mà chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng

như khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn.
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT mà đặc biệt là giảng dạy
những tác phẩm văn học thuộc thể loại trữ tình, trước đây bản thân tôi cùng các
đồng nghiệp vẫn quen sử dụng phương pháp dạy học truyền thống. Dạy học vẫn
nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết và truyền thụ tri thức một chiều vẫn là
phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên
chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử
dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học
sinh còn chưa nhiều. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình
huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa
thực sự được quan tâm. Chính vì vậy mà quá trình dạy học môn Ngữ Văn ở
trường THPT vẫn còn nặng nề và chưa khai thác hết được tiềm năng sáng tạo cho
học sinh.
Trước những vấn đề đó bản thân tôi là một tổ trưởng chuyên môn cũng có
nhiều năm đứng trên bục giảng tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, trăn trở làm cách
nào có thể nâng cao được chất lượng giáo dục học sinh và điều quan trọng hơn là
học sinh qua mỗi bài học các em có thể khám phá được những tri thức mới như
thế nào và có thể ứng dụng được gì vào trong thực tiễn cuộc sống. Chính vì điều
đó tôi muốn cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra được những phương
pháp dạy học phù hợp với thực tiễn dạy học Ngữ văn ngày nay. Đó là lý do tôi
chọn đề tài nghiên cứu “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
qua một số đoạn trích Truyện Kiều trong chương trình Ngữ Văn lớp
10”. Tuy nhiên trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm nên trong đề tài tôi
2


chủ yếu tâp trung nghiên cứu sâu các phương pháp kỹ thuật dạy học theo định
hướng phát triển năng lực với những đoạn trích tiêu biểu của Truyện Kiều như :
Trao duyên ; Nỗi thương mình và Chí khí anh hùng.
II. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài.

Trọng tâm của đề tài là nghiên cứu việc dạy học theo định hướng phát triển
năng lực ở học sinh lớp 10 khi dạy đọc hiểu một số đoạn trích trong Truyện
Kiều. Người giáo viên lựa chọn những phương pháp nào, cách thức tổ chức dạyhọc như thế nào để phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh trên cơ sở đó giúp
các em có được cách đọc hiểu và cảm thụ văn bản thơ trữ tình một cách sâu sắc.
Mặt khác cũng tạo điều kiện để các em được thể hiện quan điểm của cá nhân,
biết vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tiễn. Qua mỗi bài học
phần nào học sinh phát triển được năng lực của cá nhân gồm: năng lực thưởng
thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác..
III. Đối tượng nghiên cứu.
Trong phạm vi đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu một số phương pháp
dạy học và đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học vận
dụng vào việc dạy – học một số văn bản đoạn trích Truyện Kiều trong chương
trình Ngữ Văn lớp 10. Từ đó đưa ra những cách tiếp cận, giảng dạy văn bản thơ
trữ tình có hiệu quả làm tiền đề áp dụng rộng rãi hơn trong hoạt động dạy học
Ngữ văn. Đối tượng học sinh mà tôi thực hiện khảo nghiệm là học sinh lớp 10
trường THPT Mai Anh Tuấn trong những năm 2015 – 2016 và 2016 – 2017.
IV. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Với đề tài này tôi tập trung nghiên cứu việc dạy và học đọc hiểu một số đoạn
trích trong Truyện Kiều trong chương trình Ngữ Văn lớp 10 ở trường THPT Mai
Anh Tuấn. Qua thực tiễn giảng dạy và qua những nghiên cứu, tôi nêu lên những
kinh nghiệm của bản thân để chia sẻ cùng đồng nghiệp và những người quan tâm
đến vấn đề này. Ở đây tôi không có tham vọng giải quyết hết những vấn đề về
việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực của người học một cách triệt để
bởi đây là vấn đề mới và phức tạp. Tôi chỉ tập trung làm rõ một số phương pháp,
kỹ thuật dạy học của môn Ngữ văn theo định hướng năng lực, cụ thể như:
– Các phương pháp đặc thù của bộ môn:
+ Dạy học đọc – hiểu.
+ Dạy học tích hợp
– Một số phương pháp dạy học tích cực:
+ Phương pháp thảo luận nhóm.

+ Phương pháp nghiên cứu tình huống
Từ những thu hoạch này, tôi hi vọng những cách tiếp cận, dạy – học theo
định hướng phát triển năng lực của người học sẽ trở nên có hiệu quả hơn, từ đó
có thể áp dụng rộng rãi cho việc dạy học các tiết đọc hiểu văn bản trong chương
trình Ngữ Văn lớp 10 nói riêng và chương trình Ngữ Văn THPT nói chung.
V. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát.
3


- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm.
- Phương pháp thử nghiệm để kiểm nghiệm một số kết quả mà đề tài đề xuất.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Dạy học được xem là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và
có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành
động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng,
các giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải
quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người
học. Trong giai đoạn hiện nay nền giáo dục của nước ta đã và đang thực hiện đổi
mới một cách căn bản và toàn diện. Từ đổi mới về chương trình giáo dục đến
việc đổi mới về phương pháp dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của học
sinh. Nghị quyết số 29 của BCH TW8 khóa XI được triển khai tạo cơ sở cho giáo
viên tích cực hơn trong việc tìm tòi, sáng tạo những phương pháp dạy học mới

chú trọng đến người học mà dạy học phát triển năng lực được xem là một phương
pháp dạy học hiệu quả, học sinh được tìm tòi, được thể hiện quan điểm của mình
trong quá trình học tập.
Trước hết cần hiểu năng lực là: “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự
nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo
cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng
cao” (Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên - NXB Đà Nẵng.
1998) [9].
Trong dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông
sau 2015 đã nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình
theo định hướng năng lực. “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách
linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ
cá nhân...., nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong
bối cảnh nhất định” [8]. Dạy học theo đinh hướng phát triển năng lực là xu
hướng chung của nền giáo dục hiện đại và có thể ứng dụng cho tất cả các môn
học trong nhà trường phổ thông. Tuy nhiên ở mỗi bộ môn đều có những đặc
trưng riêng do đó chúng ta cần xác định các năng lực mà bộ bôn Ngữ Văn cần
hướng tới là:
- Năng lực giải quyết vấn đề.
Mục tiêu cần đạt được là hình thành cho học sinh khả năng phát hiện và lí giải
những vấn đề nhập nhằng, mơ hồ, đa nghĩa, khó hiểu trong nội dung và nghệ
thuật của các văn bản văn học.
+ Phát hiện và lí giải những vấn đề trong thực tiễn đời sống được gợi ra từ tác
phẩm. [10]
Ví dụ: Chẳng hạn khi dạy đoạn trích “ Trao duyên” Chúng ta có thể hỏi: Khi
Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân, Thúy Kiều đã nói với em là “ Ngồi lên cho
4


chị lạy rồi sẽ thưa” Lời lẽ và hành động này của Thúy Kiều có phù hợp với lễ

giáo phong kiến hay không?
+ Phát hiện và đánh giá những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình tạo lập
văn bản nói và viết.
- Năng lực sáng tạo : Mục tiêu cần hướng đến là hình thành cho học sinh khả
năng phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống để từ đó
đề xuất các giải pháp một cách thiết thực.
+ Có cách tiếp cận và cắt nghĩa độc đáo về nội dung, giá trị của tác phẩm
+ Phát hiện những nét nghĩa mới, giá trị mới của văn bản.
+ Có cách nói và cách viết sáng tạo, độc đáo, hiệu quả.
- Năng lực hợp tác: Mục tiêu cần hướng đến là hình thành cho học sinh khả năng
phối hợp, tương tác hỗ trợ nhau cùng thực hiện nhiệm vụ để cùng đạt mục tiêu
chung ( chẳng hạn như thảo luận nhóm )
Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan
trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức
hợp, có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ của nhiều người.
Thông qua việc thảo luận nhóm có thể hình thành cho học sinh khả năng
+ Thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận cá nhân
+ Điều chỉnh thái độ, cách ứng xử
Ví dụ: Đánh giá của em về nhân vật Từ Hải qua đoạn trích “ Chí khí anh hùng”
- Năng lực tự quản bản thân (Thực chất là KNS). Mục tiêu cần hướng đến là
hình thành cho học sinh khả năng:
+ Làm chủ cảm xúc
+ Suy nghĩ và hành động hướng vào mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh
+ Tự đánh giá, điều chỉnh hành động phù hợp với những tình huống mới
Qua môn học có thể giáo dục cho học sinh xác định các kế hoạch hành
động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra,
nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện
kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những
yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những
tình huống của cuộc sống. [10]

- Năng lực giao tiếp Tiếng Việt: Mục tiêu cần hướng đến là hình thành cho học
sinh khả năng sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và hiệu quả trong tình huống
giao tiếp. Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện
ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ
năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống
- Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ: Mục tiêu cần hướng đến là
hình thành cho học sinh khả năng nhận diện, thưởng thức và đánh giá cái đẹp
trong văn học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm chủ cảm xúc của
bản thân, biết hành động hướng theo cái đẹp. [10].
Hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong xu thế hội nhập,
giáo dục và đào tạo cũng đã và đang hết sức được quan tâm. Các chính sách phát
triển giáo dục đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu. Việc đổi mới căn
bản toàn diện về GD-ĐT đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 29 BCH TƯ 8
khóa XI. Đây được xem là cơ sở pháp lý để thực hiện đổi mới trong giáo dục nói
5


chung và việc đổi mới phương pháp dạy học nói riêng. Chính vì vậy trước tiên
mỗi người thầy người cô cần phải tự làm mới mình thông qua các bài dạy. Đối
với các văn bản đọc hiểu về truyện Kiều ở trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 10
ban cơ bản tôi tập trung vào các đoạn trích:
- Trao duyên ( Từ câu 723 đến câu 756)
- Nỗi thương mình ( Từ câu 1229 đến câu 1248)
- Chí khí anh hùng. ( Từ câu 2213 đến câu 2230)
Trong đó tập trung vào một số nội dung lớn của truyện Kiều như sau:
- Trao duyên: Tập trung khắc họa bi kịch về tình yêu và hạnh phúc của nhân vật
Thúy Kiều.
- Nỗi thương mình: Tập trung khắc họa bi kịch về nhân phẩm của Thúy Kiều
- Chí khí anh hùng:Tập trung khắc họa khát vọng tự do của người anh hùng Từ
Hải.

Việc dạy học các đoạn trích trong Truyện Kiều không chỉ yêu cầu học sinh nắm
vững nội dung bài học mà còn phải biết cảm nhận được cái hay cái đẹp của văn
chương và những giá trị to lớn của Truyện Kiều, từ đó có thể hình thành những
chuẩn mực trong suy nghĩ và trong hành động, có khả năng giải quyết tình huống
thực tiễn một cách linh hoạt.
II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
1. Thực trạng chung
Từ những thực tế nói trên vấn đề dạy học gắn với phát triển năng lực học
sinh đã được đề cập nhiều và đã được áp dụng ở nhiều trường học, nhiều cơ sở
giáo dục. Ở trường THPT Mai Anh Tuấn, vấn đề này cũng hết sức được quan tâm
từ việc chỉ đạo của nhà trường đến việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo
hướng nghiên cứu bài học và những đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.
Phần truyện Kiều là một trong những nội dung lớn và quan trọng chiếm tỷ lệ cao
trong tổng số tiết học của chương trình Ngữ Văn lớp 10. Việc giúp học sinh đọc
hiểu các văn bản này không chỉ là để phát huy năng lực cảm thụ văn học của các
em mà còn giúp các em có thêm tình yêu đối với một di sản văn học của dân tộc,
đồng thời góp phần phát triển một số năng lực của người học. Tuy nhiên trong
thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, qua nhiều năm, tôi
thấy việc dạy – học các văn bản Truyện kiều trong chương trình tại đơn vị chưa
thật phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của học sinh. Điều đó, thể hiện ở
những tồn tại sau:
- Dạy học đọc – hiểu còn mang nặng tính truyền thụ một chiều những cảm nhận
của giáo viên về văn bản. Nhìn chung vẫn là chú trọng dạy kiến thức hơn là hình
thành kỹ năng.
- Dạy học tích hợp đã được chú trọng, tuy nhiên, dạy học tích hợp vẫn mang tính
khiên cưỡng, nội dung tích hợp vào bài học như giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng
thực hành tiếng Việt vẫn còn mang tính hình thức. Chưa làm cho học sinh huy
động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực… để giải quyết các
nhiệm vụ học tập.


6


- Việc tích hợp nội môn và tích hợp liên môn chưa thực sự hiệu quả, chính vì
vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất nhiên các năng
lực của học sinh chưa được phát triển.
- Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn mang
tính hình thức. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn
dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn
dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt
được tính dân chủ, mọi cá nhân chưa được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen
bình đẳng, mà chỉ biết đón nhận quan điểm tương đồng để hình thành quan điểm
cá nhân.
- Phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên chú
trọng. Nếu có thực hiện thì chỉ là dạng bài viết, hoặc thông qua việc xử lí tình
huống giả định, năng lực trình bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Vì
vậy mà học sinh ít có cơ hội bày tỏ thái độ, chưa hứng thú, chưa hình thành được
các kỹ năng và năng lực của người học.
Mặc dù đã có giáo viên thực hiện thay đổi phương pháp dạy học, thay đổi cách
thức tổ chức giờ học song kết quả chưa đạt được như mong muốn, nguyên nhân
là:
+ Về phía giáo viên: Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được thực
hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống truyền thụ một
chiều. Bên cạnh đó việc ứng dụng CNTT trong dạy học cũng hạn chế - một phần
là do kỹ năng sử dụng máy tính, máy chiếu hay bảng thông minh của họ hạn chế,
vì vậy họ ngại áp dụng vì mất thời gian.
+ Về phía học sinh: Học sinh ở trường THPT Mai Anh Tuấn chủ yếu là học sinh
vùng nông thôn nên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin thời sự hay các tài
liệu học tập phục vụ cho bài học còn hạn chế. Một số học sinh chưa có phương

pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học. Mặt
khác do tâm lý xã hội và những tác động không nhỏ của nền kinh tế thị trường đã
ảnh hưởng đến niềm yêu thích của học sinh đối với bộ môn. Nhiều em học sinh
lựa chọn các môn khối A, B, A1.. khá là thơ ơ đối với môn Ngữ văn.
Chính vì vậy mà chúng ta cần phải thay đổi, thay đổi cả ở người dạy và ở
người học để sau mỗi bài dạy – học, học sinh không chỉ có được hiểu biết (kiến
thức) mà còn phải phát triển được năng lực bản thân , làm tăng thêm tình yêu đối
với bộ môn của các em, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về đổi mới giáo
dục.
2. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề tài.
2.1 Thuận lợi:
Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá được lãnh đạo
nhà trường, tổ chuyên môn quan tâm chỉ đạo thực hiện một cách tích cực, có hệ
thống, bám sát chủ trương đổi mới nền giáo dục của Đảng và nhà nước.
- Đội ngũ giáo viên trẻ khỏe và có trình độ chuyên môn vững, được đào tạo
chuẩn, trên chuẩn và đã được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn do Sở
giáo dục và đào tạo tổ chức hàng năm.
Đa số học sinh học tập tích cực và có sự hợp tác chặt chẽ với giáo viên trong quá
trình dạy – học.
7


- Cơ sở vật chất được đầu tư: Mạng Internet, máy tính, máy chiếu được trang bị
phục vụ dạy học, học sinh được trang bị kiến thức về vi tính để khai thác thông
tin trên mạng Internet.
2.2 Khó khăn:
- Một số giáo viên chưa mạnh dạn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, dạy
học còn mang nặng cách dạy truyền thống truyền thụ kiến thức mà chưa chú
ý đến phát triển năng lực ở học sinh.
- Một số học sinh chưa chăm học, thời gian dành cho môn học còn ít. Một số phụ

huynh cũng chưa thực sự quan tâm đến việc học của con cái. Cá biệt có phụ
huynh còn can thiệp vào những sở thích của con, áp đặt con phải đi theo khối này
khối nọ mà có thể quay lưng lại với bộ môn Văn.
- Nhiều gia đình học sinh chưa có máy tính, một số học sinh chưa biết khai thác
nguồn thông tin trên mạng để phục vụ cho bài học.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy học chưa đáp ứng tốt cho nhu cầu đổi
mới phương pháp dạy học.
2.3.Những ưu điểm và nhược điểm của phương pháp.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh có nhiều điểm mạnh
sau đây:
Thứ nhất là giáo viên dễ dàng hơn trong việc áp dụng những phương pháp
dạy học tích cực, dễ dàng hơn trong việc triển khai các đơn vị kiến thức. Việc
ứng dụng CNTT sẽ làm cho tiết học trở nên hấp dẫn, cuốn hút học sinh hơn.
Thứ hai là học sinh được thực hành, luyện tập nhiều hơn. Việc luyện tập
không chỉ thực hiện trên lớp mà còn có thể luyện tập áp dụng kiến thức, mở rộng
liên hệ trong cuộc sống đời thường. Mặt khác việc luyện tập mang tính liên tục
và có hệ thống.
Thứ ba là qua cách thức tổ chức tiết học bằng các phương pháp làm việc
nhóm thì học sinh sẽ tạo được mối liên hệ giữa các thành viên trong nhóm và
trong lớp, đồng thời khả năng hợp tác giải quyết vấn đề sẽ được nâng cao.
Mặt yếu: Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực bắt buộc cả giáo
viên và học sinh phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, học sinh phải chủ động và
tích cực hợp tác trong mọi hoạt động nếu không tiết học dễ dẫn đến nhàm
chán. Bản thân giáo viên cũng phải tâm huyết nỗ lực hết mình thì mới mong có
được tất cả. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng làm được điều này. [10]
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ
1.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Từ những thực trạng nêu trên chúng tôi mong muốn đi sâu vào nghiêm cứu
đề tài này trước hết là để bản thân tự rèn luyện mình để nâng cao năng lực trình
độ chuyên môn bắt kịp với xu hướng phát triển chung của nền giáo dục hiện đại.

Đồng thời chúng tôi cũng mong muốn tìm ra được những giải pháp hữu hiệu để
nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, góp phần hoàn thiện nhân cách ở học sinh.
2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống. Các phương pháp dạy
học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại… luôn là những phương pháp quan
trọng trong dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ
8


các phương pháp dạy học truyền thống quen thuộc mà cần bắt đầu bằng việc cải
tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu
quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững
những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị
cũng như tiến hành bài lên lớp, chẳng hạn như kỹ thuật mở bài, kỹ thuật trình
bày, giải thích trong khi thuyết trình, kỹ thuật đặt câu hỏi và xử lý các câu trả lời
trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương
pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương
pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới,
đặc biệt là những phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và
sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
sau đây:
2.1 Đổi mới khâu thiết kế hoạt động dạy học môn Ngữ Văn theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh.
Định hướng thiết kế bài học môn Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực
của học sinh. Một giờ dạy học thành công là do sự chi phối của nhiều yếu tố.
Chuẩn bị một giờ dạy học là một trong những yếu tố quan trọng, nó quyết định
không nhỏ tới thành công của một giờ dạy. Có chuẩn bị tốt, chu đáo, kĩ càng thì
hiệu quả của một giờ dạy sẽ được nâng lên một cách rõ ràng.
Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ

động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng
năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương
pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập
cho người học.
Để phát triển năng lực của học sinh trong giờ Ngữ văn cấp THPT, cần đổi
mới mạnh mẽ việc thiết kế bài học từ phía giáo viên. Trong thiết kế, giáo viên
phải cho thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm vị trí chủ yếu. Với giáo viên,
phương pháp thuyết trình nên giảm thiểu tới mức tối đa, thay vào đó là tổ chức
hoạt động cho học sinh bằng việc nêu vấn đề, đề xuất các tình huống, dự án.
Để phát huy được vai trò chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
THPT trong quá trình học tập cần vận dụng lý thuyết kiến tạo của J. Bruner vào
trong quá trình dạy học. Thuyết kiến tạo của J. Bruner là lý thuyết về sự nhận
thức được bắt nguồn từ tư tưởng của J. Piaget. Đây là một trong những lý thuyết
dạy học vượt trội được sử dụng trong giáo dục hiện nay. Tư tưởng cốt lõi của
thuyết kiến tạo là: “con người kiến tạo những sự hiểu biết và tri thức về thế giới
thông qua trải nghiệm và phản ánh...” Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi người
thật sự là nhà kiến tạo tri thức cho chính bản thân. Để làm điều này, chúng ta phải
đưa ra những nghi vấn, khám phá và đánh giá cái mà chúng ta biết...Trong một
lớp học kiến tạo, tâm điểm là xu hướng thay đổi từ giáo viên làm trung tâm đến
học sinh làm trung tâm. Trong mô hình kiến tạo, học sinh được tạo cơ hội để hoạt
động trong tiến trình học tập của mình. Giáo viên đóng vai trò như là người cố
vấn, giúp học sinh phát triển và đánh giá những hiểu biết và việc học tập của các
em. Một trong những công việc lớn nhất của giáo viên khi vận dụng lý thuyết
sáng tạo vào dạy học là biết cách "hỏi những câu hỏi tốt".
Tiến trình dạy học kiến tạo bao gồm 3 bước:
9


Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của học sinh
Trong bước này, giáo viên giúp học sinh hệ thống, ôn lại những kiến thức cũ có

liên quan đến kiến thức mới bằng cách sử dụng các câu hỏi, các bài tập. Sau đó
giáo viên hoặc học sinh sẽ nêu vấn đề, tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ quan niệm
của mình về vấn đề học tập.
Bước 2: Tổ chức điều khiển học sinh tiến hành thảo luận
Giáo viên tổ chức cho học sinh đề xuất các giả thuyết, kiểm tra giả thuyết (thử và
sai) phân tích kết quả và từ đó rút ra kết luận chung cho cả lớp.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức
Giáo viên tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề
về lý thuyết cũng như thực tiễn, qua đó giúp học sinh khắc sâu hơn kiến thức
mới.Theo tinh thần trên, thiết kế bài học được biên soạn theo các chủ đề, tổ chức
hoạt động cho học sinh theo 5 bước gồm: Hoạt động trải nghiệm, hoạt động hình
thành kiến thức mới, hoạt động thực hành, hoạt động ứng dụng, hoạt động bổ
xung. Trong mỗi chủ đề, các đơn vị kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
thành một thể thống nhất. Mỗi đơn vị kiến thức được hướng dẫn học theo một
cấu trúc thống nhất gồm các hoạt động, trong đó có hoạt động cá nhân hoặc hoạt
động nhóm; hoạt động với giáo viên và gia đình. Mỗi hoạt động trong tiến trình
học tập được xây dựng với mục tiêu, nội dung và cách thức cụ thể như sau:
2.1.1. Hoạt động trải nghiệm
* Mục đích của hoạt động
- Hoạt động trải nghiệm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kỹ năng để
chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kỹ năng mới.
- Giúp học sinh tạo hứng thú để bước vào bài học mới
- Giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề
trong cuộc sống có liên quan đến nội dung bài học.
* Nội dung, hình thức trải nghiệm
- Câu hỏi, bài tập: có thể là quan sát tranh/ảnh để trao đổi với nhau về một vấn đề
nào đó có liên quan đến bài học; hoặc trực tiếp ôn lại kiến thức đã học ở cấp/lớp
dưới, thiết kế dưới dạng kết nối hoặc những câu hỏi đơn giản, nhẹ nhàng.
Vd: Trước khi dạy “ Trao duyên” chúng ta có thể cho học sinh tìm hiểu xem một
số văn bản truyện, tranh liên quan đến nguồn gốc của truyện Kiều, hay những ấn

phẩm đặc biệt của Truyện Kiều.
- Thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát...: một số hoạt động yêu cầu học sinh đọc
diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện hoặc hát về chủ đề liên quan đến bài học. Các
hoạt động này trong một số trường hợp được thiết kế thành các cuộc thi, nhằm
tạo ra không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới.
2.1.2. Hoạt động hình thành kiến thức mới
* Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ thống các
bài tập/nhiệm vụ.
* Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ
Các tri thức ở hoạt động này thuộc các phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm
văn trong sách giáo khoa hiện hành được tiến hành theo trình tự sau:
- Đọc hiểu văn bản
10


Bước này yêu cầu học sinh đọc văn bản và chú thích. Giáo viên có thể giao
nhiệm vụ cho học sinh đọc thuộc lòng trước ở nhà. Đến lớp chỉ đọc một đoạn và
một vài lưu ý trong chú thích. Sau đó giáo viên thiết kế những hoạt động hướng
dẫn học sinh tìm hiểu văn bản bằng việc sử dụng một số câu hỏi tập hợp thành
một bài tập/nhiệm vụ lớn hơn; thiết kế các bài tập trắc nghiệm, kết hợp tự luận;
thiết kế các hoạt động kích thích, sáng tạo... Nội dung các bài tập/nhiệm vụ trong
mục này nêu lên các yêu cầu tìm hiểu về đặc điểm thể loại, nội dung, nghệ thuật
của văn bản.
- Tích hợp kiến thức kỹ năng Tiếng Việt
Tích hợp với nhiệm vụ tìm hiểu văn bản. Giáo viên đưa ra một số bài tập/nhiệm
vụ yêu cầu học sinh tìm hiểu các kiến thức Tiếng Việt.
Các khái niệm thuộc ngôn ngữ học được giảm tải, chuyển hóa thành dạng kỹ
năng, giúp học sinh dễ tiếp nhận hơn.
- Tích hợp kiến thức, kỹ năng làm văn

Các kiến thức làm văn cũng được dạy tích hợp với Đọc hiểu và Tiếng Việt. Cũng
như phần kiến thức Tiếng Việt, những nội dung lý thuyết Làm văn được giảm tải
và chuyển hóa thành kỹ năng.
Lưu ý:
- Giáo viên cần dự kiến những trường hợp học sinh không làm được bài
tập/nhiệm vụ để có phương án giải quyết. Có thể kích thích lại hứng thú hoặc ra
bài tập/nhiệm vụ khác, từ những bài tập dễ hơn, phù hợp hơn, rồi từ đó nâng dần
hiểu biết của các em.
- Các hoạt động của học sinh trong mục này gồm: Hoạt động cá nhân, hoạt động
nhóm. Kết thúc hoạt động nhóm, học sinh phải trình bày kết quả và thảo luận với
giáo viên.
2.1.3. Hoạt động thực hành
* Mục đích của hoạt động
Yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa học được ở hoạt động hình
thành kiến thức mới để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. Thông qua đó giáo
viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào.
* Nội dung và hình thức các bài tập/nhiệm vụ
- Hoạt động thực hành gồm các bài tập/nhiệm vụ yêu cầu học sinh củng cố các tri
thức vừa học và rèn luyện các kỹ năng liên quan.
- Các bài tập/nhiệm vụ trong phần thực hành cũng theo trình tự; Đọc hiểu văn
bản, Tiếng Việt và Tập làm văn.
- Các bài tập/nhiệm vụ trong Hoạt động thực hành tập trung hướng đến việc hình
thành các kỹ năng cho học sinh, khác với bài tập trong Hoạt động hình thành kiến
thức mới chủ yếu hướng tới việc khám phá tri thức. Đây là hoạt động gắn với
thực tiễn bao gồm những nhiệm vụ như: trình bày, viết văn...
Lưu ý:
Học sinh có thể được hướng dẫn hoạt động cá nhân hoặc nhóm để hoàn thành các
câu hỏi, bài tập, bài thực hành...Hoạt động cá nhân để học sinh hiểu và biết được
mình hiểu kiến thức như thế nào, có góp gì vào hoạt động nhóm và xây dựng các
hoạt động của tập thể lớp. Hoạt động nhóm để trao đổi, chia sẻ kết quả mình làm

được, thông qua đó học sinh có thể học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp
11


cho quá trình học tập của học sinh hiệu quả hơn. Kết thúc hoạt động này học sinh
sẽ trao đổi với giáo viên để được bổ xung, uốn nắn những nội dung chưa đúng.
2.1.4. Hoạt động ứng dụng
* Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh sử dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết các
vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. "Thực tế" ở đây được hiểu là thực tế trong nhà
trường, trong gia đình và trong cuộc sống của học sinh. Hoạt động này sẽ khuyến
khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình;
tìm phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những các giải quyết vấn đề khác
nhau; góp phần hình thành năng lực học tập với gia đình và cộng đồng.
* Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ
Các bài tập ứng dụng gồm các loại:
- Vận dụng kiến thức đọc hiểu để giải thích, phân tích một hiện tượng văn học,
văn hóa khác tương ứng. Ví dụ: giải thích các câu tục ngữ, phân tích các bài ca
dao, nêu ý kiến về một hiện tượng văn hóa...
- Vận dụng kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt để giải quyết một số vấn đề như: giải
nghĩa, từ loại, xác định cấu tạo từ...trong các hiện tượng ngôn ngữ của cuộc sống.
- Tiếp tục rèn luyện kỹ năng làm văn.
Lưu ý:
Hoạt động ứng dụng khác với Hoạt động thực hành. Hoạt động thực hành là làm
các bài tập cụ thể do giáo viên hoặc sách hướng dẫn đặt ra, còn Hoạt động ứng
dụng là hoạt động được triển khai ở nhà, cộng đồng; động viên khuyến khích học
sinh nghiên cứu, sáng tạo; giúp học sinh gần gũi với gia đình, địa phương, tranh
thủ sự hướng dẫn của gia đình, địa phương. Học sinh tự đặt ra yêu cầu cho mình,
trao đổi và thảo luận với gia đình và cộng đồng để cùng giải quyết. Tuy nhiên
Hoạt động ứng dụng vẫn có thể được tổ chức trên lớp nếu giáo viên thấy cần thiết

và có thời gian.
2.1.5. Hoạt động bổ sung
* Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tiếp tục mở rộng kiến thức, kỹ năng. Hoạt động này
dựa trên lập luận cho rằng, quá trình nhận thức của học sinh là không ngừng, như
vậy cần có sự định hướng để đáp ứng nhu cầu tiếp tục học tập, rèn luyện sau mỗi
bài học cụ thể.
* Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ cụ thể
- Đọc thêm các đoạn trích, văn bản có liên quan
- Trao đổi với người thân về nội dung bài học như: kể cho người thân nghe về câu
chuyện vừa học, hỏi về ý nghĩa câu chuyện...
- Tìm đọc sách, báo, mạng internet ...một số nội dung theo yêu cầu.
Lưu ý:
- Các nhiệm vụ trong Hoạt động bổ xung được thiết kế cho học sinh tự làm việc ở
nhà.
- Hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ theo nhóm, đồng thời yêu cầu học sinh
làm các bài tập đánh giá năng lực.
Thời gian cho mỗi hoạt động cần được xác định sao cho phù hợp với số tiết học
được phân bố cho từng cụm bài/chủ đề, thời khóa biểu lên lớp của giáo viên.
12


Trong thiết kế bài học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh
cấp THPT nói trên, giáo viên cần xác định và nêu rõ các cách thức tổ chức hoạt
động cho cá nhân, hoạt động cho cặp đôi, hoạt động nhóm, hoạt động chung cả
lớp, hoạt động với cộng đồng.
+ Hoạt động cá nhân: là hoạt động yêu cầu học sinh thực hiện các bài tập/nhiệm
vụ một cách độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng hoạt động
độc lập của học sinh, diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là đối với các bài tập/nhiệm
vụ có yêu cầu khám phá, sáng tạo, hoặc rèn luyện đặc thù. Giáo viên cần đặc biệt

coi trọng hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ không đạt
tới mức độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kỹ năng sẽ không được
rèn luyện một cách tập trung.
+ Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm: là những hoạt động nhằm giúp học sinh
phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng.
Khi tổ chức hoạt động này, giáo viên cần xác định rõ mục đích, nội dung bài
tập/nhiệm vụ cho phù hợp với hoạt động cặp đôi hay hoạt động nhóm. Thông
thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp,
những bài tập cần sự chia sẻ. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau một nội
dung cần chia sẻ, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo,...Hình thức hoạt động nhóm
được sử dụng trong trường hợp cần sự hợp tác.
+ Hoạt động chung cả lớp: là hình thức hoạt động phù hợp với số đông học sinh.
Đây là hình thức nhằm tăng cường tính cộng đồng, giáo dục tinh thần đoàn kết,
sự chia sẻ, tinh thần chung sống hài hòa.
+ Hoạt động cộng đồng: là hình thức hoạt động của học sinh trong mối tương tác
với xã hội. Hoạt động với cộng đồng bao gồm các hình thức từ đơn giản như:
tham gia bảo vệ môi trường, tìm hiểu các di tích văn hóa, lịch sử ở địa phương....
Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực của học sinh
cấp THPT trên đây là một hướng đi mới. Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
nên đi theo định hướng thiết kế bài học ngữ văn như trên. [10]
2.2 Một số giải pháp thực hiện giờ dạy học theo hướng mở vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học tích cực đối với một số trích đoạn trong
Truyện kiều.1
Tác phẩm Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du ( Truyện Kiều chỉ là tên
mà nhân dân ta đặt cho) là một tác phẩm kiệt xuất trong giai đoạn văn học trung
đại. Tác phẩm không chỉ bày tỏ sức cảm thông lạ lùng của tác giả đối với những
con người đau khổ trong xã hội mà còn tập trung thể hiện những phẩm chất tốt
đẹp của con người, nói lên những ước mơ khát vọng cao đẹp của họ. Chính vì
vậy mà mấy trăm năm qua Truyện Kiều vẫn được bao thế hệ người Việt yêu
thích. Đối với các trích đoạn được chọn ở trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 đều

là những đoạn trích tiêu biểu nhằm khái quát lên những giá trị lớn của tác phẩm.
Do đó khi giảng dạy những đoạn trích này giáo viên cũng cần tập trung hướng tới
những chủ đề lớn của tác phẩm.
Chẳng hạn khi dạy đoạn trích “Trao Duyên” cần hướng tới hai chủ đề trọng điểm
là: Bi kịch tình yêu và khát vọng tình yêu hạnh phúc của Thúy Kiều.
Khi dạy đoạn trích “Nỗi thương mình” thì cần tập trung khắc họa được bi kịch
nhân phẩm của Thúy Kiều.
13


Dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” thì cần phải tập trung làm rõ được khát vọng
tự do của người anh hùng Từ Hải.
Do vậy để thực hiện một giờ dạy đọc hiểu văn bản phát huy được tính tích cực
của học sinh và làm cho một tiết học trở nên sinh động, nhẹ nhàng giáo viên cần
làm tốt các bước sau:
2.2.1 Giải pháp thứ nhất: Xây dựng kế hoạch hoạt động trải nghiệm về
Nguyễn Du và truyện Kiều và hướng dẫn cho học sinh thực hiện.
Để giúp học sinh thực hiện được hoạt động này chúng ta có nhiều phương
án để lựa chọn. Chẳng hạn như giáo viên có thể báo cáo với Ban giám hiệu nhà
trường tổ chức cho học sinh đi thăm quan quê hương của Nguyễn Du, tham quan
khu lưu niệm Nguyễn Du. Tuy nhiên không phải giáo viên ở trường nào cũng có
thể làm được điều này vì còn liên quan đến kinh phí, thời gian tổ chức , cũng như
các điều kiện khác. Do vậy chúng ta có thể lựa chọn những phương án khác.
Cách thông thường mà chúng tôi thường làm sẽ lồng ghép nội dung này vào bài
dạy Truyện Kiều ( Tiết PPCT 80 ) bằng cách trước khi hướng dẫn học sinh đi vào
bài học chúng ta có thể tranh thủ giới thiệu những nét khái quát về tác giả
Nguyễn Du và Truyện Kiều thông qua các tư liệu tranh ảnh phim tài liệu để các
em có thể hiểu thêm về tác giả và tác phẩm. Bên cạnh đó giáo viên cũng có thể
vận dụng làm việc này vào các tiết tự chọn để tổ chức cho học sinh những hoạt
động trải nghiệm về Nguyễn Du và Truyện Kiều chẳng hạn như các hoạt động

diễn xướng, tập Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều, vịnh Kiều...Với các hoạt động trên có
thể giúp các em trải nghiệm được sâu hơn về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều
và làm nảy nở tình yêu của các em đối với tác phẩm đồng thời cũng có thể từ đó
khơi gợi được hứng thú của học sinh trước khi đi vào tìm hiểu những đoạn trích
cụ thể.
2.2.2 Giải pháp thứ hai:Thiết kế hệ thống câu hỏi tốt cho hoạt động hình
thành kiến thức mới.
Như chúng ta đã biết việc thiết kế một hệ thống câu hỏi khoa học
và phù hợp với nội dung bài học và năng lực của học sinh là điều vô cùng quan
trọng. Việc xây dựng một hệ thống câu hỏi tốt không những quyết định đến chất
lượng nội dung giờ dạy mà còn giúp chúng ta đánh thức được những tiềm lực của
học sinh phát huy khả năng tiếp thu kiến thức và sự sáng tạo của các em. Muốn
vậy người giáo viên cần phải hiểu rõ bản chất của từng loại câu hỏi ( về mục
đích, nội dung và các dạng thức của câu hỏi). Bên cạnh đó cũng cần chú ý tới
mục tiêu cơ bản của từng tiết học ( Tiết học chú trọng về hình thành kiến thức ,
hay kỹ năng nào đó cho học sinh ). Cũng cần phải quan tâm đến năng lực của học
sinh để đưa ra những câu hỏi cho phù hợp. Song song với việc đưa ra câu hỏi thì
giáo viên cũng cần phải tính toán đến các phương án mà học sinh có thể trả lời để
đưa ra những câu hỏi phụ mang tính chất gợi mở cho các em đi đúng hướng. Các
câu hỏi nhất thiết phải tập trung để làm sáng rõ một chủ đề nhất định.
Chẳng hạn khi giảng dạy đoạn trích Trao duyên tôi thường đưa ra một số câu hỏi
chính như sau:
+ Em hiểu chữ Duyên ở đây có nghĩa là gì? Người ta thường trao duyên cho
nhau trong những trường hợp nào?
+ Thúy Kiều đã trao duyên cho em như thế nào?
14


+ Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên cho em như thế nào?
Với hệ thống câu hỏi này chúng ta có thể hình thành cấu trúc bài bài học gồm:

- Giải thích nhan đề Trao duyên để làm rõ tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều khi
phải trao đi cái thứ quý giá và thiêng liêng nhất của đời mình dù người đó là em
gái ruột.
- Hướng dẫn học sinh phân tích quá trình trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy
Vân:
+ Dùng ngôn ngữ và hành động đặc biệt
+ Kể lại mối tình giữa mình với Kim trọng cho em nghe
+ Đưa ra lý do để buộc Thúy Vân phải chấp nhận
+ Thúy Kiều trao kỷ vật tình yêu cho em và dặn dò em.
- Phân tích tâm trạng đau đớn giằng xé đầy bi kịch của Thúy Kiều
Tâm trạng đau đớn giằng xé đầy bi kịch ấy được thể hiện như thế nào?
+ Tình thì đẹp mà đành phải trao. ( Đây là mâu thuẫn của bi kịch)
Thúy Kiều đã giải quyết bi kịch của mình như thế nào?
+ Thúy kiều đã bán mình chuộc cha ( Chọn chữ Hiếu để thay thế chữ tình mong
tìm được một chút an ủi).
+ Thúy Kiều trao duyên cho em. ( Chọn chữ Nghĩa để phần nào chuộc lại sự phụ
tình của nàng đối với Kim Trọng)
+ Thúy Kiều tưởng tượng ra mình sẽ chết và mong muốn trở về gặp yêu theo
quan niệm dân gian là “ Duyên nợ ba sinh” ( Tức là mượn một thứ hạnh phúc
siêu hình để an ủi mình.)
Thế nhưng mọi con đường giải quyết bi kịch của Thúy Kiều đều thất bại. Bởi bản
chất của tình yêu không tồn tại nơi chữ Hiếu và chữ Nghĩa và Thúy Kiều cũng
không thể chấp nhận được sự an ủi của thứ Hạnh phúc siêu hình trong triết lý
dân gian. Chính vì thế mà cho đến cuối đoạn trích thì duyên có thể trao được
nhưng tình thì không thể trao. Đau khổ vẫn còn nguyên đau khổ. [1]
Tại sao khi trao duyên cho em rồi mà Thúy Kiều vẫn còn đau khổ?
=> Bởi Thúy Kiều là một con người giàu khát vọng. Vì vậy nàng không thể chấp
nhận được những cách giải quyết thông thường mà những cô gái trong chế độ
phong kiến vẫn thường làm. Nhưng đây cũng chính là chỗ hơn người của nàng và
cũng là sự sáng tạo độc đáo của đại thi hào Nguyễn Du.

- Học sinh rút ra ý nghĩa của đoạn trích?
Thực tế cho thấy trong quá trình giảng dạy thì không phải ở bất cứ lớp nào
chúng ta cũng nào chúng ta cũng đưa ra hệ thống câu hỏi như vậy. Bởi đối tượng
tiếp nhận khác nhau thì kết quả cũng khác nhau do đó trong quá trình sử dụng
những câu hỏi này cũng cần phải hết sức linh hoạt thì mới có thể phát huy được
hiệu quả và khai thác được năng lực của học sinh. Không những thế mà ở mỗi
bài dạy giáo viên cũng cần lựa chọn những điểm đột phá cho phù hợp. Kinh
nghiệm cho thấy rằng những giáo viên biết chọn được điểm đột phá đúng và độc
đáo thì bài dạy sẽ dễ thành công hơn.
Chẳng hạn như khi dạy bài “Nỗi thương mình” tôi lại chọn điểm đột phá từ nhan
đề đoạn trích:
Em hiểu nhan đề đoạn trích “Nỗi thương mình” như thế nào?
15


Đây là một câu hỏi ở mức độ dễ có tính chất khơi gợi cho học sinh và học sinh có
thể trả lời đơn giản là: Nhan đề của đoạn trích muốn nói lên Thúy Kiều tự thương
mình. Giáo viên có thể dựa vào câu trả lời này để đưa ra vấn đề trọng tâm của bài
học và có thể cho học sinh tiến hành thảo luận với câu hỏi như sau:
Tại sao Thúy Kiều lại tự thương mình?
- Vì nàng đang phải sống trong một tình cảnh hết sức trớ trêu ( Hướng dẫn học
sinh phân tích 4 câu thơ đầu của đoạn trích)
- Vì không có ai cảm thông chia sẻ với mình. Nàng rất cô đơn, đau đớn tự dằn vặt
mình.
- Vì nàng luôn luôn có ý thức giữ gìn nhân phẩm của mình, không chấp nhận
sống trong cảnh ê chề nhục nhã nơi chốn lầu xanh.
Thông qua đoạn trích em đánh giá như thế nào về nhân vật Thúy Kiều?
Cũng xin được nói thêm là đối với đoạn trích Nỗi thương mình là một văn
bản đọc thêm do vậy không nhất thiết chúng ta phải dạy tuần tự hết tất cả nội
dung của văn bản mà có thể lựa chọn một số nội dung cơ bản để dạy làm bộc bộc

lộ rõ chủ đề của đoạn trích. Cho nên đối với đoạn trích này tôi chỉ tập trung tổ
chức cho học sinh thảo luận một vấn đề trọng tâm là : Tại sao Thúy Kiều lại tự
thương mình? Để từ đó có thể giúp các em phát huy được những năng lực cơ bản
như năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác hay năng lực phát hiện và sáng
tạo.
Đối với đoạn trích chí khí anh hùng thì lại phải chọn cách giải quyết khác. Bởi
khác với hai đoạn trích ở trên, đoạn trích này lại tập trung khai thác một khía
cạnh khác của Truyện Kiều đó là: Khát vọng tự do của con người. Vì vậy khi
giảng dạy đoạn trích này tôi thường hướng dẫn học sinh khai thác một số vấn đề
trọng tâm như sau:
- Đoạn trích tập trung thể hiện vấn đề gì?
=> Đoạn trích tập trung thể hiện chí khí anh hùng của người Từ Hải
- Chí khí ấy là gì?
- Chí khí của người anh hùng Từ Hải được thể hiện như thế nào trong đoạn
trích?
Thông qua việc thể hiện chí khí anh hùng của Từ Hải tác giả muốn nhắn gửi điều
gì?
2.2.3 Giải pháp thứ ba là:Tăng cường thời lượng hoạt động của học sinh
trong các tiết dạy ở trên lớp.
Thông thường trong giờ dạy đọc hiểu văn bản theo cách truyền thống học
sinh rất ít khi được thực hành. Chủ yếu là các em thường hoạt động theo mô típ:
Nghe thầy cô hỏi – Suy nghĩ trả lời – Nghe thầy cô nhận xét kết luận – Ghi chép.
Việc hỏi đáp ở đây cũng diễn ra nhưng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Nhiều
khi các thầy cô hỏi rồi lại tự trả lời lấy và dần dần lại biến giờ dạy trở thành
những giờ dạy độc diễn. Thực trạng này dù không muốn nhưng vẫn cứ xảy ra khá
nhiều trong những giờ dạy Ngữ Văn và dần dần lại trở thành một thói quen cố
hữu trong ta. Cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan là có rất nhiều yếu tố
tác động đến giờ dạy, song theo chúng tôi vai trò tổ chức hoạt động của người
thầy là vô cùng quan trọng. Việc tổ chức cho học sinh hoạt động ở đây không chỉ
đơn thuần diễn ra ở những tiết thực hành mà ngay cả ở những tiết dạy đọc hiểu

16


chúng ta vẫn có thể tổ chức cho học sinh hoạt động dưới nhiều hình thức khác
nhau. Một giờ dạy thành công là một giờ dạy mà giáo viên phải tổ chức điều
khiển dẫn dắt học sinh tham gia vào các hoạt động học tập và thông qua những
hoạt động đó để học sinh có thể tự chiếm lĩnh được những tri thức mới đồng thời
giúp học sinh rèn luyện kỹ năng và phát triển được năng lực của mình. Chẳng
hạn khi học sinh tham gia thảo luận câu hỏi thì sẽ giúp cho học sinh không những
lĩnh hội được tri thức mà còn rèn luyện được, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực hợp tác, năng lực làm chủ bản thân, năng lực tư duy sáng tạo, kỹ năng giao
tiếp tiếng Việt...
2.2.4 Giải pháp thứ tư là: Cần chú trọng hoạt động bổ sung bằng cách giao
nhiệm vụ về nhà cho học sinh.
Vấn đề giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh là việc làm thường xuyên và
bắt buộc đối tiến trình một giờ lên lớp. Điều này được thể hiện rất rõ ở mục Củng
cố và dặn dò cuối mỗi trang giáo án. Nhưng thực tế thì việc làm này nhiều khi
chưa được giáo viên chú trọng. Có nhiều lúc do mải giảng dạy mà quên mất thời
gian nên giáo viên cũng chỉ dặn qua loa là: Các em về nhà làm bài tập trong sách
giáo khoa, hay đọc thuộc văn bản... Chính cách làm như vậy đã không mang lại
hiệu quả theo ý nghĩa đích thực của hoạt động này. Vì vậy trong quá trình giảng
dạy tôi thường chú trọng để dành một khoảng thời gian ngắn để giao nhiệm vụ
cho học sinh khi về nhà. Tuy nhiên điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là việc
giao nhiệm vụ về nhà cho học sinh phải được cụ thể hóa bằng những yêu cầu cụ
thể. Thứ nhất là việc đọc văn bản. Thông thường tôi thường yêu cầu học sinh đọc
thuộc những văn bản thơ ngắn ở nhà trước khi đến lớp học. Đối với những văn
bản dài thì có thể yêu cầu học sinh đọc thuộc một số đoạn tiêu biểu. Thứ hai là
yêu cầu học sinh soạn bài theo những câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài.
Tuy nhiên khi giao nhiệm vụ này giáo viên cần chú ý hướng dẫn các em một cách
cụ thể hơn vì những câu hỏi ở trong sách giáo khoa nhiều khi mang tính khái quát

và có nhiều câu khó đối với học sinh. Mặt khác giáo viên cũng có thể yêu cầu học
sinh tìm kiếm những tài liệu có liên quan đến bài học để phụ vụ cho quá trình
chiếm lĩnh văn bản.
Cũng cần lưu ý rằng việc giao nhiệm vụ phải gắn liền với việc kiểm tra
mức độ hoàn thành nhiệm vụ của học sinh. Thực tế là có giáo viên khi giao
nhiệm vụ cho học sinh nhưng đến tiết sau lai quên mất hoặc khi giảng dạy lại
không bám sát vào những nhiệm vụ mà mình đã giao, dẫn đến có nhiều học sinh
chán nản. Mặt khác theo xu thế chung hiện nay thì có nhiều học sinh không mặn
mà với môn Văn lắm. Vì vậy khi giáo viên giao nhiệm vụ cho các em thì các em
thường không hoàn thành hoặc không tự giác hoàn thành. Chính vì vậy việc kiểm
tra mức độ hoàn thành nhiệm vụ của học sinh là điều cần thiết. Việc đổi mới tư
duy trong đánh giá kiểm tra của giáo viên cũng là điều cần thiết. Chẳng hạn khi
giảng tôi thường không kiểm tra bài cũ của học sinh và tôi cũng không dùng thuật
ngữ này. Thay vào đó tôi thường Kiểm tra mức độ hoàn thành nhiệm vụ mà tôi đã
giao ở tiết trước ( hay là kiểm tra sự chuẩn bị bài của các em trước khi đến lớp).
Cách đánh giá cũng sẽ thay đổi. Thông thường tôi chỉ đánh giá học sinh ở ba mức
độ: Hoàn thành tốt; Hoàn thành nhiệm vụ và Không hoàn thành nhiệm vụ. Tất
nhiên chúng ta cũng có thể quy các mức đánh giá này ra thang điểm để cho điểm
17


học sinh. Với cách làm như vậy giáo viên vừa có thể khuyến khích học sinh tìm
hiểu nghiên cứu bài học trước ở nhà vừa cũng có thể ràng buộc các em phải hoàn
thành nhiệm vụ trước những bài học. Lâu dần cũng có thể hình thành cho các em
những thói quen tự nghiên cứu chiếm lĩnh tri thức, kích thích niềm đam mê và
sáng tạo của học sinh.
3. Vài lưu ý khi thực hiện các giải pháp.
Có thể nhận thấy rằng: các giải pháp nêu ra gắn với trình tự của một giờ
dạy học, do vậy mỗi giải pháp được xem là một thành tố góp phần làm cho hoạt
động dạy học đạt kết quả cao. Để học sinh thực sự làm chủ quá trình học tập giáo

viên cần kết hợp một cách đồng bộ các giải pháp nói trên. Phát triển năng lực học
sinh không phải là dạy cho học sinh nắm bắt được kiến thức hoàn thành tốt bài
kiểm tra trong các kỳ thi mà phải giúp học sinh tự tìm ra những thắc mắc, những
mâu thuẩn và biết cách để giải quyết mâu thuẫn đó.
Để đề tài được áp dụng phổ biến trong dạy học Ngữ Văn ở trường THPT
cần có sự giúp đỡ và tạo điều kiện của các cấp quản lý giáo dục và cần sự nỗ lực,
cố gắng hết mình của giáo viên giảng dạy với sự kết hợp của công nghệ thông tin
và kiến thức liên môn. Trong quá trình thực hiện đòi hỏi giáo viên cần phải nhiệt
huyết với nghề, đầu tư nghiên cứu tìm tòi, vận dụng và rút kinh nghiệm để nâng
cao hiệu quả giờ dạy của mình. Học sinh cần phải được nói, được làm, được thể
hiện mình trong quá trình học tập, có như vậy việc dạy học của giáo viên mới có
giúp cho học sinh phát triển được năng lực của mình.
4. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Từ năm học 2015 -2016, khi tôi tập trung nghiên cứu và áp dụng cải tiến
phương pháp dạy học đến nay chất lượng giờ học đã được nâng lên rõ rệt, khả
năng của học sinh trong việc nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề liên quan
đến nội dung bài học cũng trở nên hiệu quả hơn. Giờ học trở nên thân thiện hơn,
thầy và trò làm việc nhiều hơn và nhờ thế mà năng lực của học sinh cũng được
nâng lên đáng kể. Chẳng hạn khi dạy đoạn trích Nỗi thương mình ( Trích Truyện
Kiều – Nguyễn Du) tôi cùng đặt ra một nhiệm vụ cho học sinh là cùng thảo luận
và giải quyết vấn đề : “ Tại sao Thúy Kiều lại tự thương mình?” Qua khảo
nghiệm ở hai lớp 10 ở trường THPT Mai Anh Tuấn của năm 2015 – 2016 và năm
2016 – 2017 chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng tổng hợp kết quả khảo nghiệm kiểm chứng năng lực đạt từ mức độ trung
bình trở lên:
Năm
học

20152016
20162017


Lớp/
Sĩ số

10I
40
10M
42

Năng lực
đọc hiểu
VB

Năng
lực hợp
tác

25/40
62.5%
36/42
85.7%

19/40
47.5%
28/42
66.6%

Năng
lực giải
quyết

tình
huống
22/40
55%
33/42
78.5%

Năng
lực sáng
tạo

Ghi chú

11/40
27.5%
28/42
66.6%

Trước khi áp
dụng SKKN
Sau khi áp dụng
SKNK
18


C. KẾT LUẬN
Giáo dục định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm đảm bảo chất
lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm
chất nhân cách cuả người học và chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong
những tình huống thực tiễn, nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các

tình huống trong cuộc sống và nghề nghiệp. Với quyết tâm đổi mới phương pháp
dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục, việc vận dụng phương pháp dạy học theo
định hướng phát triển năng lực bước đi quan trọng trong tiến trình đổi mới. Để
làm được điều đó đòi hỏi tất cả giáo viên phải không ngừng học hỏi nghiên cứu
để bồi dưỡng năng lực chuyên môn, tận tụy tâm huyết với nghề thì mới mong đạt
được hiệu quả.
Với những điều đã trình bày trên, tôi những mong có thể đóng góp một
phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT
Mai Anh Tuấn. Đồng thời có thể chia sẻ kinh nghiệm của bản thân với các đồng
nghiệp. Mặc dù rất cố gắng nhưng do thời gian nghiên cứu còn ngắn, năng lực
bản thân cũng có hạn nên ắt hẳn không thể tránh khỏi những sai sót, tôi rất
mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn
trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm
của mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Phạm Văn Khang

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giảng văn Truyện Kiều - Đặng Thanh Lê – NXB Giáo Dục
[2]. Thi pháp văn học trung đại Việt Nam – Trần Đình Sử - NXB ĐHQG Hà Nội

[3]. Từ điển thuật ngữ văn học – Trần Đình Sử - NXB ĐHQG Hà Nội
[4]. Phương pháp dạy học văn – Phan Trọng Luận - NXB ĐH quốc gia Hà Nội
[5]. Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh – NXB KHXH& NV
[6]. Các bài giảng văn học trung đại – Nhiều tác giả - NXB ĐHQG Hà Nội
[7]. Sách giáo khoa Ngữ Văn10, Sách giáo viên Ngữ Văn 10 – NXB Giáo Dục
[8]. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định
hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn – Bộ giáo dục đào tạo – năm
2014.
[9]. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên - NXB Đà Nẵng. 1998
[10]. Các tài liệu trên mạng Internet
- Nguồn:
- Nguồn: http:// thutrang.edu.vn/tag/sang-kien-kinh-nghiem-mon-van

20



×