Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống và vận dụng kỹ năng sống để viết văn nghị luận xã hội cho học sinh qua truyện cười “tam đại con gà”, chương trình ngữ văn 10, ban cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.07 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
VÀ VẬN DỤNG KỸ NĂNG SỐNG
ĐỂ VIẾT VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH
QUA TRUYỆN CƯỜI “TAM ĐẠI CON GÀ”,
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 10, BAN CƠ BẢN

Người thực hiện:
Ngô Văn Hoà
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2017

1


MỤC LỤC
TT
1.
2.
3.
4.
5.
6.


7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.

NỘI DUNG
Mục lục …………………………………………………………………..
Lí do chọn đề tài………………………………………………………
Mục đích nghiên cứu………………………………………………...
Đối tượng nghiên cứu……………………………………………….
Phương pháp nghiên cứu…………………………………………..
Cơ sở lí luận của sáng kiến………………………………………
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến…….…….
Các sáng kiến và giải pháp cụ thể đã áp dụng……….……
Bước thứ nhất của sáng kiến……………………………….…….
Bước thứ hai của sáng kiến………………………………….……
Bước thứ ba của sáng kiến………………………………………...
Bước thứ tư của sáng kiến………………………………………...
Hiệu quả của sáng kiến ………………………...……………..……
Kết luận và kiến nghị……………………………………….……….
Tài liệu tham khảo……………………………………………………

TRANG
1
2

2
3
3
3
4
5
5
5
7
10
11
13
14

1. MỞ ĐẦU
2


1.1. Lí do chọn đề tài
Trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh toàn
cầu nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các
kỹ năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế - xã
hội và thiên nhiên. Ðặc biệt với học sinh, việc trang bị kỹ năng sống càng trở
nên bức thiết, bởi đây là yếu tố không thể thiếu, để giúp các em biết định hướng
phát triển cá nhân một cách tốt nhất. Có thể nói kĩ năng sống chính là những
nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi, thói quen tích
cực, lành mạnh. Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trước những
khó khăn thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích cực và phù
hợp; luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Không những thúc đẩy
sự phát triển cá nhân, kĩ năng sống còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã

hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người… Việc giáo
dục kĩ năng sống sẽ thúc đẩy hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp nâng cao
chất lượng cuộc sống xã hội và giảm các vấn đề xã hội.
Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay,
học sinh nói riêng và thế hệ trẻ nói chung thường xuyên chịu tác động đan xen
của những yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn
những giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thách thức, những áp lực tiêu
cực. Trong khi kỹ năng sống không phải tự nhiên có được mà phải hình thành
dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Vì vậy, việc
giáo dục kĩ năng sống là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi của mình
và có khả năng xử lí tốt nhất các tình huống nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống.
Hơn nữa, trong quá trình dạy học tôi nhận thấy, các em học sinh mới vào
lớp 10, thường thiếu tự tin bộc lộ hoặc thể hiện thái độ, tình cảm, cách nhìn của
mình về một sự vật hiện tượng nào đó. Điều này ảnh hưởng nhiều đến khả năng
ứng xử trước các tình huống của cuộc sống, ảnh hưởng đến cách nhìn nhận,
đánh giá và thể hiện quan điểm về các vấn đề xã hội của các em, ảnh hưởng cả
đến cách viết nghị luận xã hội của các em ở các chương trình lớp 11, 12 và trong
thực tiễn cuộc sống. Nên, việc giáo dục kỹ năng sống, rèn luyện kỹ năng sống,
cách nhìn nhận vấn đề bằng những kỹ năng sống là rất cần thiết, nó sẽ phục vụ
rất tốt cho thực tế học tập của học sinh.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài Kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống và
vận dụng kỹ năng sống để viết văn nghị luận xã hội cho học sinh qua truyện
cười “Tam đại con gà”, chương trình Ngữ Văn 10, Ban cơ bản để trao đổi
cùng đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu để đưa ra được những sáng kiến mới trong cách giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh và cách vận dụng kỹ năng để viết bài nghị luận xã hội
qua truyện cười “Tam đại con gà” ở chương trình lớp 10, ban cơ bản.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
3



Trong phạm vi đề tài, tôi chỉ trình bày kinh nghiệm của cá nhân ở một
truyện cười, cụ thể là truyện “Tam đại con gà” trong chương trình Ngữ văn 10,
Ban cơ bản và áp dụng cho một đối tượng cụ thể là học sinh trường THPT Thọ
Xuân 5 - Thọ Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tự nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tôi chủ động tìm
hiểu các tài liệu về phương pháp, cách thức giáo dục kỹ năng sống và kỹ năng
viết văn nghị luận cho học sinh để đúc rút kinh nghiệm cho đề tài này.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Để có cơ sở
cho việc áp dụng phương pháp và kinh nghiệm này, tôi đã tổ chức điều tra, khảo
sát, thu thập thông tin về thực tế dạy học liên quan đến đề tài của mình ở các lớp
10 trường THPT Thọ Xuân 5 và một số lớp 10 trường THPT Lam Kinh
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: Qua việc khảo sát, thu thập thông
tin, tôi đã tiến hành xử lí số liệu, thống kê đối chiếu kết quả trước và sau khi áp
dụng đề tài để rút kinh nghiệm và khẳng định tính thực tiễn và hiệu quả của đề
tài.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
- Khi bàn về quá trình dạy học và những chức năng cơ bản của nhà
trường, có ý kiến cho rằng: “Quá trình dạy học và quá trình giáo dục là những
bộ phận của quá trình sư phạm toàn diện, thống nhất. Nhà trường phải thực hiện
chức năng kép vừa dạy chữ vừa dạy làm người cho học sinh, nghĩa là vừa trang
bị cho các em kiến thức để hòa nhập, để tiếp tục học lên, đồng thời vừa hình
thành nhân cách, đạo đức để các em có thể sống và phát triển được trong xã hội
luôn biến động như ngày nay. Để nâng cao chất lượng giáo dục, người dạy cần
am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Kĩ năng sống
đã trở thành một hợp phần quan trọng trong nhân cách con người sống xã hội
hiện đại” [4]. Vì thế, giáo dục kỹ năng sống đang trở thành vấn đề cấp thiết với

giáo dục hiện nay không chỉ riêng của Việt Nam.
- Khi xem xét đặc trưng của giáo dục truyền thống và giáo dục hiện đại,
tôi nhận thấy, giáo dục truyền thống là cách giáo dục một chiều, mang tính áp
đặt. Còn giáo dục hiện đại lại đề cao dân chủ, vì dân chủ. Ở đó, cả thầy và trò
cùng nhau thiết kế nên những mục tiêu của giáo dục dựa trên những kinh
nghiệm hiện tại của trò, hướng tới mục đích là làm đối tượng giáo dục tự chủ,
phát triển tối đa trí thông minh, khả năng phán đoán, khả năng tư duy độc lập và
phản biện. Đây là những phương tiện quan trọng để học sinh tạo ra kiến thức
cho mình, rèn luyện những kỹ năng thiết yếu cho cuộc sống, đủ khả năng làm
chủ chính mình, làm chủ cuộc sống của mình, có khả năng tự thay đổi, biết phát
hiện và có khả năng giải quyết, xử lí những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Do
đó, vai trò của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ngày càng được ưu tiên hơn
để đáp ứng xu thế hội nhập toàn cầu và trình độ phát triển xã hội cũng như giữ
gìn những nét bản sắc văn học dân tộc.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
4


- Về của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, Luật Giáo dục đã nhấn mạnh:
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục trong các nhà trường
hiện nay là còn xem trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm
người, nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh” [5]. Thông báo 242TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo
đến năm 2020, đã nêu một trong những hạn chế của giáo dục phổ thông như sau:
“Giáo dục phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm
đúng mức đến “dạy người”, kỹ năng sống và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên”

[6]. Điều đó có thể thấy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong giai đoạn
hiện nay đang còn nhiều khiếm khuyết và cần sự quan tâm đúng mức hơn.
- Thực tế cho thấy, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh hiện nay được quan
tâm nhiều hơn. Cơ hội thực hiện giáo dục kỹ năng sống rất nhiều và rất đa dạng.
Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục kỹ năng sống với các hoạt động giáo dục vốn đã
được lồng ghép vào chương trình giáo dục từ nhiều năm nay, tạo nhiều cơ hội và
điều kiện để triển khai giáo dục kỹ năng sống. Tuy nhiên, kỹ năng sống của học
sinh còn nhiều khiếm khuyết. Tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống còn phổ
biến, việc ứng phó với các tình huống trong cuộc sống còn hạn chế, nhìn nhận
vấn đề xã hội một cách phiến diện, xử lí thông tin trong thực tế còn yếu,…. [4]
- Trên thực tế khảo sát tại trường THPT Thọ Xuân 5 và THPT Lam Kinh về
giáo dục kỹ năng sống và giảng dạy lồng ghép kỹ năng sống qua các bài học, tôi
thấy, do quỹ thời gian cho hoạt động ngoài giờ lên lớp hạn chế nên các hoạt
động giáo dục kỹ năng sống được thực hiện không thường xuyên. Còn trong tiết
dạy, giáo viên phải chạy theo thời gian của tiết học, phải chuyển tải nhiều nội
dung trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp
kiến thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng
xử với xã hội, ứng phó và hòa nhập với cuộc sống.
- Về thực tế giảng dạy truyện cười dân gian hướng đến giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh, tôi thấy:
+ Giáo viên thực hiện tiết dạy theo hướng tập trung khai thác các tình
huống gây cười, nhân vật bị phê phán rồi nêu bật ý nghĩa giá trị tác phẩm mà ít
quan tâm đến nội dung giáo dục cách nhìn nhận, đánh giá về sự việc, hiện
tượng, nhân vật cho học sinh. Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh gần như không thực hiện hoặc có cũng rất sơ lược.
+ Đối với học sinh: Việc học truyện cười dân gian thường tạo cảm giác
thoải mái, vui vẻ nên các em gần như không để ý đến tác dụng định hướng kỹ
năng sống. Đặc biệt là chưa bao giờ quan tâm về việc áp dụng các kỹ năng sống
thu nhận được để viết văn nghị luận xã hội sau này.
5



- Từ thực trạng này, tôi đã nghiên cứu, kết hợp phương pháp, sử dụng
phương tiện phù hợp để phát huy hiệu quả bài dạy về truyện cười “Tam đại con
gà” hướng tới giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, qua đó, giúp các em có thể
vận dụng kỹ năng sống được học để viết bài văn nghị luận xã hội một cách toàn
diện. Do vậy, tôi mạnh dạn trao đổi cùng đồng nghiệp: Kinh nghiệm giáo dục
kỹ năng sống và vận dụng kỹ năng sống để viết văn nghị luận xã hội cho học
sinh qua truyện cười “Tam đại con gà”, chương trình Ngữ Văn 10, Ban cơ
bản.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp cụ thể đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
Trên thực tế, tôi đã sử dụng các kinh nghiệm và giải pháp cụ thể sau đây
để giải quyết vấn đề của đề tài:
2.3.1. Bước thứ nhất: Công tác chuẩn bị.
- Về phía giáo viên: Soạn bài bằng Powpoint để bài sinh động, dự kiến
các tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện bài dạy và các câu trả lời của
học sinh. Dặn dò học sinh chuẩn bị bài chu đáo, chuẩn bị các thiết bị hỗ trợ như
giấy A3, bút viết bảng,…
- Đối với học sinh: Cần chuẩn bị bài chu đáo theo hướng dẫn của giáo
viên, chuẩn bị các dụng cụ hỗ trợ.
2.3.2. Bước thứ hai: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu truyện cười Tam đại con
gà. Cụ thể:
I. Khái quát về truyện cười dân gian Việt Nam
1. Khái niệm
Là những tác phẩm tự sự dân gian ngắn gọn, có kết cấu chặt chẽ, có kết
thúc bất ngờ kể về những việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có tác dụng
gây cười, nhằm mục đích giải trí, phê phán. [1]
2. Phân loại truyện cười:
- Truyện khôi hài: Kể về những cái đáng cười do hiểu lầm, hớ hênh, đãng

trí hoặc khuyết tật của người khác, chủ yếu nhằm mua vui, giải trí. [1], [2]
- Truyện trào phúng: Kể về những thói hư tật xấu của con người, đi ngược
lại với quan điểm đạo đức của nhân dân như thói lười biếng, giấu dốt, tham
nhũng,... [1], [2]
II. Đọc hiểu truyện cười Tam đại con gà
1. Nhân vật thầy đồ
a. Mâu thuẫn của nhân vật
Câu hỏi: Nhân vật thầy đồ được giới thiệu là người như thế nào ?
- Được giới thiệu khái quát qua mấy dòng đầu của truyện:
+ Người dốt nát lại hay nói chữ, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt
+ Có người tưởng thật đón về dạy trẻ.
=> Điều trái tự nhiên là: Dốt nát lại làm ra vẻ là giỏi. Đây là mâu thuẫn
của nhân vật. Và mâu thuẫn này sẽ được bộ lộ trong quá trình nhân vật tham gia
các tình huống, sự kiện của truyện, từ đó làm nảy sinh tiếng cười và ý nghĩa, giá
trị của truyện.
6


b. Quá trình tự bộc lộ mâu thuẫn và cái dốt:
- Tình huống thứ nhất:
+ Gặp chữ kê nghĩa là gà trong sách Tam thiên tự thầy không biết nhưng
học trò hỏi gấp.
+ Xử lí tình huống: Thầy đành nói bừa đó là chữ Dủ dỉ là con dù dì.
+ Nhân vật tự bộc lộ: Là kẻ dốt nát (đến những chữ cơ bản nhất trong
sách dạy trẻ cũng không biết), lại còn giấu dốt và liều lĩnh.
- Tình huống thứ hai:
+ Thầy cũng tự thấy mình dốt, lòng thấp thỏm nên cho học trò đọc khẽ.
+ Xử lí tình huống: Thầy đến khấn thổ công và xin ba đài âm dương để
xem có phải chữ dủ dỉ không. Cả ba đài được cả. Thầy đắc chí, ung dung cho
học trò đọc to.

+ Nhân vật tự bộc lộ: Nhận thức được sự dốt nát nhưng vẫn chống chế,
liều lĩnh. Là người vừa kém hiểu biết về sách vở, lại mê tín, vừa kém hiểu biết
về thực tế (không ai hỏi về chữ nghĩa lại đi khấn thổ công và xin đài âm dương
cả)
- Tình huống thứ ba:
+ Bị chủ nhà chất vấn: Đó là chữ kê là gà, sao thầy lại dạy các cháu đó là
chữ Dủ dỉ là con dù dì ?
+ Xử lí tình huống: Nhận thức được là mình sai nhưng lại huênh hoang
chống chế: “Tôi biết đó là chữ kê,… nhưng tôi muốn dạy cháu đến tam đại con
gà kia”.
+ Nhân vật tự bộc lộ: Là một người giấu dốt, huênh hoang, láu lỉnh, giỏi
chống chế.
- Tình huống thứ tư:
+ Giải thích về tam đại con gà: “Này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị
con công, con công là ông con gà”
+ Nhân vật tự bộc lộ: Là kẻ dốt nát nhưng lại láu lỉnh, tự che giấu cái dốt
bằng những lời lẽ huênh hoang, liều lĩnh, phi lí, thiếu cơ sở khoa học.
2. Ý nghĩa của truyện và bài học rút ra.
Học sinh thảo luận nhóm, theo phân công sau đây:
- Nhóm 1: Thảo luận giá trị, ý nghĩa và bài học rút ra của tình huống 1.
- Nhóm 2: Thảo luận giá trị, ý nghĩa và bài học rút ra của tình huống 2.
- Nhóm 3: Thảo luận giá trị, ý nghĩa và bài học rút ra của tình huống 3.
- Nhóm 4: Thảo luận giá trị, ý nghĩa và bài học rút ra của tình huống 4.
Học sinh trả lời, giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày, góp ý, nhận xét,
bổ sung. Cuối cùng kết luận vấn đề và nêu bật một số nội dung sau:
- Ở tình huống thứ nhất:
+ Ý nghĩa phê phán là: Phê phán những kẻ dốt nát mà lại huênh hoang,
giấu dốt và liều lĩnh.
+ Bài học rút ra: Con người luôn phải biết khiêm tốn; không giấu dốt và
cần học hỏi không ngừng.

- Ở tình huống thứ hai:
7


+ Ý nghĩa phê phán: Phê phán những kẻ dốt nát, lại mê tín và liều lĩnh,
hành động thiếu cơ sở khoa học. Đồng thời, cũng phê phán những kẻ nhận thức
đúng đắn nhưng hành động lại trái ngược.
+ Bài học rút ra: Nhận thức và hành động luôn phải thống nhất để đi đến
thành công. Trong việc xử lí các tình huống của cuộc sống phải trên cơ sở khoa
học, thực tế.
- Ở tình huống thứ 3:
+ Ý nghĩa phê phán: Phê phán những kẻ dốt nát mà lại chống chế, huênh
hoang.
+ Bài học rút ra: Con người không huênh hoang giấu dốt mà luôn cần
khiêm tốn học hỏi.
- Ở tình huống thứ 4:
+ Ý nghĩa phê phán là: Phê phán những kẻ kém hiểu biết sách vở, lại kém
hiểu biết thực tế nhưng lại huênh hoang văn hay chữ tốt, liều lĩnh dạy đời bằng
những ngôn từ phi lí.
+ Bài học rút ra: Con người luôn cần có những hiểu biết phong phú cả về
sách vở lẫn thực tế cuộc sống để có thể thành công trong cuộc sống. Khi thuyết
phục người khác một vấn đề nào đó cần có cơ sở và hiểu biết chắc chắn, thực tế,
khoa học.
2.3.3. Bước thứ ba: Vận dụng giá trị, ý nghĩa và bài học của truyện vào thực
tế cuộc sống để rèn luyện kỹ năng sống.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm để phát hiện những kỹ
năng sống cần thiết đã tiếp thu được thông qua bài học. Giáo viên cần kết luận
những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
- Người đón thầy đồ về dạy chữ cho con đã không tìm hiểu trước về thầy

đồ mà chỉ thông qua việc lắng nghe một chiều hoặc biểu hiện một chiều từ phía
thầy đồ về trình độ và khả năng văn hay chữ tốt, nên dẫn đến hậu quả là tìm phải
một thầy đồ dốt nát. Cho nên, mục đích tìm người dạy chữ cho con đã không
thực hiện được như mong muốn.
- Ngược lại, xử lí thông tin nếu thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn, kèm
theo sự liều lĩnh thì hậu quả sẽ khó lường trước được. Cụ thể là, thầy đồ đã xử lí
việc tìm hiểu một chữ và nghĩa trong sách đang dạy cho học trò bằng cách xin
ba đài âm dương chứ không phải là học hỏi những người có hiểu biết hơn. Cuối
cùng, thầy đồ đã có quyết định liều lĩnh và bộc lộ cái dốt của mình, khi cho học
trò đọc to mấy chữ vừa khấn xin thổ công thành công.
- Kết luận về kỹ năng:
+ Qua tình huống này kỹ năng cần phải rèn luyện là: Biết xem xét, tìm
hiểu đối tượng trước khi làm công việc gì đó có liên quan đến đối tượng, phải
xem xét thấu đáo về đối tượng, có đánh giá thực tế trước khi hợp tác hoặc tác
động đến đối tượng trong cuộc sống.
+ “Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, kĩ năng tìm kiếm và xử lí
thông tin là một kỹ năng sống quan trọng giúp con người có thể có được những
8


thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, kịp thời” [7]. Nó
cũng đòi hỏi mỗi người phải biết tìm kiếm, sàng lọc, xử lí thông tin để có những
thông tin chính xác, đáng tin cậy nhất. Từ đó, giúp ta có cái nhìn chính xác,
nhiều chiều, phong phú về sự việc, hiện tượng để có những quyết định đúng đắn
trong cuộc sống.
Thứ hai: Kĩ năng tự nhận thức.
- Từ câu chuyện có thể thấy, bản thân thầy đồ cũng có những ưu điểm
không thể bỏ qua, đó là khả năng tự nhận thức, khả năng hiểu biết chính bản
thân mình (biết mình), cũng như nhận thức rất rõ năng lực của bản thân. Vì thế,
trong câu truyện, ta thấy, thầy đồ đã luôn nhận thấy mình dốt. Tuy nhiên, cách

xử lí của thầy lại là chuyện khác. Nhưng, nhận thức được bản thân mình như
thầy đồ cũng là bài học đáng quan tâm và học tập.
- Từ đó có thể kết luận với học sinh: Tự nhận thức luôn là kỹ năng cần
thiết để biết mình đang ở đâu trong xã hội, trong công việc hoặc một lĩnh vực cụ
thể. Rèn luyện kỹ năng này, cùng với ý chí tiến thủ và học hỏi không ngừng sẽ
giúp mỗi người không ngừng vươn lên trong cuộc sống và đạt tới ước mơ của
mình.
Thứ ba: Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ.
- Nhân vật thầy đồ thực sự có biết đến kĩ năng này, khi thầy không biết cái
chữ mà học trò đang hỏi là gì, thầy quyết định liều lĩnh đó là chữ Dủ dỉ là con
dù dì. Tuy nhiên, thầy đồ không dám chắc nên bảo học trò đọc nhỏ. Để chắc
chắn, thầy đồ đã tìm kiếm sự hỗ trợ, đã tìm đến bàn thờ thổ công khấn xin ba đài
âm dương xem chữ đó có đúng như thầy đang dạy hay không. Như thế có thể
thấy, kỹ năng tìm kiếm hỗ trợ trong bất cứ tình huống nào cũng quan trọng để
giúp chúng ta giải quyết các tình huống của cuộc sống.
- Điều đáng nói là, thầy đồ đã tìm kiến sự hỗ trợ không phải bởi những
người hiểu biết hơn hoặc những cơ sở khoa học và thực tế đáng tin cậy, thầy đồ
đã tìm sự hỗ trợ từ một nhân vật chỉ có tính biểu tượng tâm tinh và bằng phương
pháp mê tín, siêu hình. Do vậy, kết quả là thầy đồ đã thực sự thất bại và bộc lộ
sự dốt nát, liều lĩnh, kém hiểu biết và mê tín của mình.
- Từ đó, giáo viên có thể kết luận: Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta
gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người
khác. Nên, rèn luyện kỹ năng tìm kiến sự hỗ trợ là tất yếu trong xu thế hội nhập
và toàn cầu hóa như hiện nay. Tuy nhiên, không phải sự hỗ trợ nào cũng giúp
ích cho mỗi người. Tìm kiếm sự hỗ trợ phải đi liền với khả năng nhận thức, hiểu
biết, xử lí thông tin mới đem lại hiệu quả và giúp ích cho mỗi người, chứ tìm
kiến sự hỗ trợ theo cách của thầy đồ trong truyện là hoàn toàn sai lầm trong cuộc
sống. Học sinh cần nhớ, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ cần dựa trên các yếu tố [7]:
+ Ý thức được nhu cầu cần giúp đỡ.
+ Biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy.

+ Tự tin và biết tìm đến các địa chỉ đó.
+ Biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
Thứ tư: Kĩ năng ra quyết định
9


- Trong trường hợp của thầy đồ, trước tình huống bị học trò hỏi gấp và sự
chất vấn chữ nghĩa của chủ nhà, một góc độ nào đó ta có thể thấy, thầy đồ đã kịp
thời đưa ra những quyết định để xử lí tình huống. Tuy nhiên, quyết định xử lí
tình huống của thầy đồ lại là quyết định liều lĩnh, không có cơ sở khoa học hay
thực tế nào, dẫn đến, quyết định ấy đã tố cáo sự dốt nát, liều lĩnh và huênh
hoang của nhân vật.
- Do vậy, có thể nói rằng: “Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân
biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống
gặp phải trong cuộc sống một cách kịp thời. Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết
định cho bản thân; không nên trông chờ, phụ thuộc vào người khác; mặc dù có
thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước khi ra quyết định” [7]. Từ
đó, bản thân học sinh cần biết, ra quyết định là điều tất yếu trong cuộc sống, tuy
nhiên, quyết định chỉ có thể đúng đắn và hợp lí khi người đưa ra quyết định có
cơ sở thực tiễn, lí luận và hiểu biết thực sự về sự vật, hiện tượng, vấn đề.
Thứ năm: Kỹ năng nhìn nhận, xử lí các vấn đề trong cuộc sống bằng
quan điểm toàn diện.
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận và cho biết quan điểm của em về vị
chủ nhà đã mời thầy đồ về dạy chữ cho con. Sau khi học sinh thảo luận, đưa ý
kiến, giáo viên cần định hướng cho học sinh có cái đánh giá về nhân vật này với
các nội dung cơ bản như sau:
- Đối với vị chủ nhà đã mời thầy đồ về dạy chữ cho con:
+ Về ưu điểm: Nhân vật này có tầm nhìn, biết thời cuộc, biết lo cho con
cái, trọng chữ nghĩa, đạo lí,… Cơ bản, nhân vật hội tụ những phẩm chất thiết
yếu của người Việt Nam một thời ở khía cạnh đạo đức xã hội.

+ Về nhược điểm: Nhân vật chủ nhà có nhiều nhược điểm, nhưng cơ bản
nhất là trong cách nhìn nhận, đánh giá con người và tìm hiểu, xử lí thông tin về
sự việc, hiện tượng trước khi đưa ra quyết định. Cụ thể, nhân vật đã không tìm
hiểu kĩ về nhân vật thầy đồ trước khi mời thầy đồ ấy về dạy chữ cho con mình.
Kết quả như ta biết, chủ nhà đã mời phải một thầy đồ dốt nát, liều lĩnh, huênh
hoang.
+ Theo quan điểm toàn diện có thể thấy: Nhân vật chủ nhà là biểu hiện
của cái nhìn phiến diện, một chiều về các sự vật, hiện tượng trong cuộc sống, là
cách nhìn nhận sự việc và cách làm việc quan liêu, chủ quan, phiến diện.
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận và cho biết quan điểm về nhân vật
thầy đồ theo hai hướng là: Những ưu điểm và hạn chế của nhân vật. Sau khi học
sinh thảo luận, đưa ý kiến, giáo viên cần định hướng cho học sinh có cái đánh
giá về nhân vật này với các nội dung cơ bản như sau:
- Về những ưu điểm và hạn chế cơ bản, tổng thể của nhân vật thầy đồ
+ Về ưu điểm của nhân vật:
Một là: Thầy đồ đã nhận thức được bản thân mình (biết mình): Thầy đồ
luôn biết mình dốt.
10


Hai là: Thầy đồ đã có những phản ứng nhanh, kịp thời trước các tình
huống của cuộc sống, như bị học trò hỏi chữ hay trước những chất vấn về chữ
nghĩa của chủ nhà.
+ Về nhược điểm: Dễ nhận thấy là sự huênh hoang, dốt nát, liều lĩnh, giấu
dốt, mê tín, chống chế phi lí, thiếu hiểu biết thực tế,….
+ Từ đó có thể thấy: Truyện dù tập trung phê phán nhân vật thầy đồ dốt
nát, giấu dốt, liều lĩnh nhưng ta vẫn thấy những điểm tích cực của nhân vật và có
thể giúp ta vận dụng trong cuộc sống.
- Từ cách xem xét về hai nhân vật trên, ta có thể thấy rằng, trong cách
đánh giá, nhìn nhận một con người, một vấn đề của cuộc sống luôn cần có cái

nhìn toàn diện, đa chiều; biết phát hiện những ưu điểm, hạn chế của con người,
sự vật, hiện tượng, từ đó mới có những quyết định xử lí đúng đắn, phù hợp.
2.3.4. Bước thứ 4: Vận dụng kỹ năng sống đã học để viết văn nghị luận xã
hội
- Ở trên là những kỹ năng thiết yếu được đúc rút và minh chứng qua một
truyện cười dân gian cụ thể, nó chưa phải là tất cả nội hàm của kỹ năng sống,
nhưng cũng đã cung cấp cho học sinh cái nhìn cơ bản về những kĩ năng cần rèn
luyện thông qua tìm hiểu câu truyện.
- Qua truyện, bước đầu giúp học sinh định hình cách nhìn nhận, đánh giá
các vấn đề của cuộc sống, đó là nhìn nhận trên quan điểm toàn diện, suy xét
nhiều khía cạnh của vấn đề. Đây cũng là cách tư duy và viết văn nghị luận xã
hội mà mỗi học sinh luôn phải nắm vững. Do đó, việc tìm hiểu truyện và các kĩ
năng giáo dục liên quan đã bước đầu định hình cho học sinh lớp 10 lối tư duy đa
chiều trong nhìn nhận đánh giá vấn đề, từ đó, góp phần tích cực trong việc hình
thành và hoàn thiện kỹ năng viết văn nghị luận xã hội ở chương trình THPT.
- Giáo viên phải nhấn mạnh với học sinh rằng, trong viết văn nghị luận xã
hội phải luôn có cái nhìn đa chiều, tổng thể. Biết nhìn nhận đánh giá các vấn đề
xã hội trên cả mặt tích cực và hạn chế, từ đó, mới có định hướng hành động, tư
duy đúng đắn, bài viết mới thể hiện được hiểu biết toàn diện về các vấn đề xã
hội của người viết.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Hiệu quả đối với hoạt động giáo dục của nhà trường.
Tôi đã thực nghiệm phương pháp và ứng dụng để đi đến kết luận tính khả
thi và hiệu quả của phương pháp như sau:
- Ở lớp 10C3 trường THPT Thọ Xuân 5:
+ Tôi thực hiện bài dạy theo phương pháp cũ. Kết thúc bài học, tôi đã yêu
cầu học sinh nhận xét về nhân vật thầy đồ trong tác phẩm. Kết quả là, đa phần
các em chỉ nhìn thấy một thầy đồ dốt nát, huênh hoang, liều lĩnh,…
+ Sau này, tôi cho học sinh thực hành viết nghị luận xã hội bằng cách vận

dụng kỹ năng đã học và kỹ năng thu nhận được qua truyện cười Tam đại con gà
để thể hiện suy nghĩ về sự việc hiện tượng trong cuộc sống thì hầu hết các em
11


chỉ viết bài theo quan điểm và cách nhìn một chiều hoặc ngợi khen hoặc phê
phán.
- Ở lớp 10C4 (lớp định hướng xã hội) và 10C5 (lớp đại trà) của nhà
trường, tôi đã dạy bằng sáng kiến này. Cụ thể là:
+ Tôi sử dụng phương pháp như đã trình bày ở trên, với yêu cầu nhận xét
về nhân vật thầy đồ. Kết quả, phần nhiều học sinh đều nhận xét thầy đồ với hai
mặt ưu điểm và nhược điểm.
+ Với bài thực hành về nghị luận xã hội, tôi cũng thu được kết quả là:
Phần nhiều học sinh có cái nhìn tổng thể, toàn diện, đa chiều về sự việc hiện
tượng, nghĩa là có khen, chê phù hợp, có đánh giá ưu điểm, hạn chế của vấn đề.
Chẳng hạn, tôi cho các em thể hiện suy nghĩ về sự việc: Năm 2013, em
học sinh lớp 11 là Nguyễn Văn Nam ở Nghệ An đã liều mình cứu được 4 em
nhỏ đuối nước, nhưng vì kiệt sức mà còn cố gắng cứu nốt em nhỏ thứ 5 đang
chới với giữa dòng. Em Nam đã bị dòng nước lũ cuốn đi cùng với em nhỏ thứ 5
kia.
Trong bài viết của các em lớp 10C3, các em đều bày tỏ sự cảm phục,
thương yêu đối với nhân vật. Còn ở lớp 10C4 và 10C5, hầu hết đều có cái nhìn
hai chiều về hành động của học sinh Nguyễn Văn Nam là: Trong đó khen ngợi,
cảm phục học sinh ấy rất nhiều, nhưng có nhiều bài viết đã bày tỏ thái đó tiếc
nuối (có ý phê bình) khi thấy học sinh Nam đã đã không biết lượng đúng sức
mình, dẫn đến kết quả là không cứu thêm được người khác và cũng không bảo
vệ được chính mình.
- Như vậy, ở một góc độ nhất định, tôi thấy rằng, từ việc được hướng dẫn
cách nhìn nhận và đánh giá toàn diện về nhân vật thầy đồ ở trên, cùng với việc
hình thành, định hướng và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, những học sinh

được học tác phẩm bằng kinh nghiệm này đã thể hiện cái nhìn khá đa chiều về
một vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Như vậy, đề tài đã phát huy tác dụng và hiệu
quả của nó trong việc giúp các em có cái nhìn toàn diện, đa chiều về một vấn đề
và có kỹ năng sống phù hợp, ứng phó tốt với các tình huống của cuộc sống.
- Kết quả kiểm tra lối tư duy, xử lí các tình huống trong thực tiễn và thực
hành viết văn nghị luận xã hội sau khi thử nghiệm hai phương pháp và thăm dò
ý kiến học sinh về bài học ở các lớp như sau:

Lớp
10C3

(không

áp dụng

Tỉ lệ
khá,
giỏi

Tỉ lệ
TB

Thăm dò về bài học
Tỉ lệ
Khó, Khó,
yếu, Thích, Hiểu
hiểu không
kém dễ nhớ
bài
sơ sài hiểu


5/43

30/43

8/43

5/43

25/43

10/43

3/43

10C4 (áp dụng SK) 15/44 27/44 2/44 20/44
10C5 (áp dụng SK) 10/45 30/45 5/45 10/45
2.4.2. Đối với bản thân, đồng nghiệp nhà trường.

20/44
30/45

3/44
3/45

1/44
2/45

SK)


12


- Bản thân tôi nhận thấy mình đã đúc rút được một sáng kiến hữu ích, góp
phần lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, bước đầu hình
thành những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống cho học sinh trường THPT Thọ
Xuân 5, cũng như cách nhìn nhận, đánh giá của các em về các vấn đề trong thực
tiễn và vận dụng trong viết văn nghị luận xã hội.
- Với đồng nghiệp trong nhà trường, sáng kiến của tôi đã được trình bày,
thực nghiệm trước tổ và một số giáo viên cốt cán khác của nhà trường. Kết quả,
được các đồng nghiệp đánh giá cao về sự sáng tạo, lồng ghép nội dung và mục
đích giáo dục, rèn luyện kỹ năng cũng như hiệu quả sau tiết dạy.
- Với nhà trường: Tôi vẫn đang tích cực áp dụng sáng kiến cho các lớp
dạy và sẽ tiếp tục rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo để hoàn thiện sáng
kiến và áp dụng phổ biến hơn trong nhà trường. Tuy nhiên, hiệu quả ban đầu có
thể thấy được, sáng kiến của tôi đã giúp đồng nghiệp có thêm một phương pháp,
một cách tiếp cận khác đối với việc tìm hiểu truyện cười dân gian Việt Nam ở
lớp 10.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Kết luận: Đề tài này là kinh nghiệm mà bản thân tôi đúc rút trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tại trường THPT Thọ Xuân 5, đề tài là kinh
nghiệm của cá nhân về mục tiêu, phương pháp, cách thức tổ chức rèn luyện kỹ
năng sống cho học sinh và định hướng tư duy, rèn luyện cách nhìn nhận, đánh
giá một cách toàn diện các sự việc, hiện tượng của đời sống xã hội, qua đó, góp
phần giúp đối tượng người học có thể xử lí thấu đáo, chính xác các tình huống
cụ thể trong cuộc sống. Đề tài cũng áp dụng cho một đối tượng cụ thể là học
sinh trường THPT Thọ Xuân 5 – Thọ Xuân, tôi nhận thấy khi áp dụng đề tài, có
nhiều chuyển biến tích cực về nhận thức, hành vi, tư duy và cách đánh giá, nhìn
nhận vấn đề của học sinh. Đề tài là một gợi ý thú vị, một phương pháp hiệu quả
cho đồng nghiệp trong việc thực hiện không chỉ một truyện cười dân gian, mà

còn có thể áp dụng cho các bài học tương tự ở các khối lớp khác. Vì vậy, tôi
mạnh dạn trình bày cùng đồng nghiệp để được trao đổi, rút kinh nghiệm cho
việc đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh. Mong được đồng nghiệp góp ý để được hoàn thiện
hơn.
- Kiến nghị: Không.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 22 tháng 5 năm
2017
Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do
tôi tự viết, nếu sai, tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Tác giả

13


Ngô Văn Hòa

TÀI LIỆU THAM KHẢO (TLTK)
1. SGK Ngữ văn 10, tập I, II, NXB Giáo dục, 2008.
2. SGK Ngữ văn 10 Nâng cao, tập I, II, NXB Giáo dục, 2008.
3. SGV Ngữ văn 10, tập I, II, NXB Giáo dục, 2008.
4. Nguyễn Khánh Trung – Giáo dục cổ truyền và giáo dục hiện đại.
5. Luật Giáo dục.
6. Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa X).
7. 21 nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, trích “Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh”. NXB GD.
14



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CẤP CAO
HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Cấp
Kết quả
Năm học
TT
Tên SKKN
đánh giá đánh giá được đánh
xếp loại xếp loại giá xếp loại
Một số kinh nghiệm hướng dẫn học
Sở
sinh tìm hiểu bài Luật thơ, tiết 23,
GD&ĐT
1. chương trình Ngữ văn 12, Ban cơ
B
2014-2015
Thanh
bản nhằm phát huy tính tích cực,
Hóa
chủ động của học sinh
Một số kinh nghiệm hướng dẫn học
Sở
sinh tìm hiểu tiết 114, bài Ôn tập
GD&ĐT
2. Tiếng Việt, chương trình Ngữ văn
B
2015-2016

Thanh
11, Ban cơ bản nhằm phát huy tính
Hóa
tích cực, chủ động của học sinh.

15



×