Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số giải pháp để dạy tốt một giờ luyện nói môn ngữ văn ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.53 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Nói là hình thức giao tiếp tự nhiên của con người, là một trong những kỹ
năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Kể chuyện bằng ngôn ngữ nói
giữa người này với người khác cũng là hình thức giao tiếp tự nhiên mà bất cứ ai
cũng thực hiện trong đời sống của họ.Vậy tại sao còn phải học nói, luyện nói
trong cuộc sống nói chung và trong nhà trường nói riêng?
Ông bà ta từng dạy : “ Học ăn, học nói, học gói, học mở “. Không phải ngẫu
nhiên mà “ học nói” được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều này cho thấy
nói cũng là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Trên thực tế,
việc dạy học môn Ngữ Văn hiện nay không phải khi nào cả bốn kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết đều được chú trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông
thường, cả người biên soạn sách lẫn người dạy thường quá chú trọng vào việc
dạy các tri thức Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn hay đọc diễn cảm, đọc hiểu mà bỏ
qua kĩ năng nghe, nói. Có một thực tế nữa là nhiều thế hệ học sinh khi ra đời
nhiều khi không biết “lắng nghe, thấu hiểu”, không biết nói ra những điều mình
nghĩ, không truyền đạt chính xác thông tin hoặc không nói đúng theo quy tắc
giao tiếp, không biết cách đọc hiểu chính xác một văn bản ..v..v. Có học hành
bài bản, rèn luyện kĩ lưỡng thì có thể nói đúng được điều mình cần nói, giúp cho
người nghe dễ dàng “hiểu” được điều mình cần trao đổi, bàn bạc để tìm ra tiếng
nói chung.
Tóm lại, ai cũng có thể nói đúng, nói hay nếu quyết tâm học tập, rèn luyện
để trở thành một người “lập ngôn”.
Bàn về mục tiêu dạy học môn Ngữ văn, người biên soạn sách khẳng định:
“Trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học
sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn
bản”.
Xuất phát từ mục tiêu trên, tôi thấy rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong
trong giờ dạy Ngữ văn nói riêng và trong nhà trường nói chung có một vai trò
hết sức quan trọng. Luyện nói trong giờ dạy Ngữ văn là để nói trong môi trường


giao tiếp tập thể. Đứng trước môi trường này, nhiều em học sinh thường ngày
vốn biết ăn nói sinh động, bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu. Luyện nói
trong giờ dạy Ngữ văn là nói theo những chủ đề, vấn đề không quen thuộc trong
đời sống hàng ngày, lại yêu cầu nói mạch lạc, liên kết, không được tuỳ tiện. Do
đó cần phải luyện tập trong môi trường giao tiếp tập thể, xã hội.
Năng lực viết của học sinh cố nhiên là quan trọng, song đó là ngôn ngữ trừu
tượng vì chỉ có ngôn ngữ viết không có yếu tố khác bổ trợ. Còn ngôn ngữ nói là
phương tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu, có sức truyền cảm trực tiếp, có
sự phối hợp biểu đạt của tư thế, nét mặt, âm vực, có sự giao cảm trực tiếp giữa
người nói và người nghe. Nắm vững ngôn ngữ này các em sẽ có thêm một công
cụ giao tiếp sắc bén trong đời sống xã hội.
1


Luyện nói cho học sinh trong môn học Ngữ văn tuy không phải là một vấn
đề mới mẻ nhưng là một vấn đề khó, đòi hỏi người giáo viên phải biết làm thế
nào để các em làm quen với phát biểu miệng, biết trình bày miệng một câu
chuyện, một bài thơ, một vấn đề … một cách chân thật, sinh động bằng chính
ngôn ngữ, tình cảm của các em trước tập thể lớp.
Đó chính là lý do tôi chọn đề tài này: “Một số giải pháp để dạy tốt một giờ
luyện nói ở trường THPT”.
1.2. Mục đích đề tài
Ở chương trình Ngữ văn THPT, mặc dù số giờ luyện nói là khá ít nhưng nếu
giáo viên bỏ qua hoặc lơ là những tiết học này thì chắc chắn học sinh sẽ không
phát huy được năng lực nói của mình. Chính vì thế, với mục đích nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của những tiết luyện nói đối với học sinh THPT,
trong phạm vi hạn hẹp của đề tài nghiên cứu này, tôi xin mạnh dạn chia sẻ
những điều bản thân đã lĩnh hội được trong quá trình giảng dạy những tiết luyện
nói trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, 11, 12 theo sách giáo khoa mới đang
hiện hành.

1.3 Đối tượng
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy luyện nói môn Ngữ văn ở
trường THPT.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dậy dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- phương pháp thống kê…
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1 Cơ sở lý luận
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng
của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay, các
nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao giao tiếp là
một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà
cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
Nếu như nghe và đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền
đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những
môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống, theo
những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng
ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ ( lời, mạch
lạc, liên kết, các nghi thức lời nói, quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng,
sức hấp dẫn,...). Luyện nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp
hiệu quả trong cuộc sống xã hội.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trên thực tế, việc dạy tiết luyện nói trong môn Ngữ văn hiện nay hiệu quả
chưa cao, điều ấy xuất phát từ một số thực trạng như sau:
2



- Học sinh thường không chủ động, có tâm lí e dè, ngại nói hoặc không tự
tin khi nói, đặc biệt là học sinh vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Khi tham gia luyện nói, lời nói của các em không tự nhiên, nói lủng củng,
ngập ngừng, không rõ ràng, không diễn đạt được điều muốn nói, không biết kết
hợp các yếu tố phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng…
- Trong bài nói thường sử dụng nhiều từ địa phương, điều ấy sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này.
- Giờ luyện nói trên lớp: học sinh thường nói như đọc (học thuộc lòng bài
nói rồi lên lớp đọc lại), làm cho việc nói, trình bày thiếu tự nhiên, thiếu tư thế và
tác phong phù hợp.
- Học sinh chuẩn bị bài chưa kĩ nên các em không chủ động được trong việc
trình bày bài nói.
- Có những học sinh chuẩn bị kĩ bài ở nhà nhưng lại thiếu tự tin, khi lên
trình bày bị tâm lí, run nên quên mất nội dung đã chuẩn bị.
- Trong một lớp học, đặc biệt là các lớp đại trà, chỉ có khoảng 8-9 em là nói
năng lưu loát, tự nhiên, những học sinh này đa số là cán bộ lớp, cán bộ đoàn,
còn lại các em thường có tâm lí “ngại nói”, ngại bộc lộ.
Với thực trạng nêu trên, chắc chắn giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn khi tổ
chức tiết luyện nói.Từ đó ta thấy vấn đề đặt ra là: Phải tạo cho học sinh sự tự tin,
mạnh dạn, tinh thần chủ động, bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kĩ năng nói và
hình thành những chuẩn mực trong bài nói nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện
nói cho học sinh, góp phần thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ
văn.
2.3. Giải pháp:
Để hoàn thành những định hướng đặt ra và giải quyết những vấn đề đã nêu,
tôi xin trình bày một số giải pháp như sau:
2.3.1.Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong tất cả các giờ Ngữ văn.
Giáo viên Ngữ văn khó có thể phát triển kỹ năng nói cho học sinh nếu chỉ
trông chờ vào số tiết luyện nói trong chương trình sách giáo khoa. Mặc dù sách
giáo khoa đã đổi mới theo hướng quan tâm tới việc rèn luyên kỹ năng nói cho

học sinh, phân phối mỗi khối lớp để có tiết luyện nói ở cả hai học kỳ, nhưng số
tiết luyện noi còn ít, các tiết luyện nói được phân bố cụ thể như sau:
- Lớp 11:
+ Tiết 3, 12: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
+ Tiết 60: Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.
+ Tiết 71: Luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.
+ Tiết 101: Thao tác lập luận bình luận.
+ Tiết 104: Luyện tập thao tác lập luận bình luận.
- Lớp 12:
+ Tiết 3: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
+ Tiết 13: Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
+ Tiết 17: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
+ Tiết 20: nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
3


+ Tiết 26: Phát biểu theo chủ đề.
+ Tiết 90: Phát biểu tự do.
Nếu không có sự chuẩn bị ngay từ đầu năm học thì chắc chắn giáo viên sẽ gặp
không ít trở ngại khi tổ chức các giờ học. Vậy nên, chú trọng việc luyện nói cho
học sinh mọi lúc, mọi nơi có thể thực hiện được vì việc này không quá khó,
nhất là khi giáo viên Ngữ Văn thực sự muốn đạt hiệu quả trong những giờ luyện
nói.
2.3.2. Phát huy kĩ năng nói của học sinh trong sinh hoạt hàng ngày
- Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng
trong các giờ học, giáo viên nên tiếp xúc với học sinh trong những lúc ngoài giò
lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm tư,nguyện vọng của các em, ngoài
ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em thái độ tự tin, mạnh dạn. Trên
thực tế, khi giáo viên làm được việc đó thì những em vốn rất nhút nhát, không
dám trao đổi với thầy, cô trong cuộc sống dần dần sẽ bớt e ngại, rụt rè và trở

nên dạn dĩ hơn, tiếp xúc với giáo viên, bạn bè, tập thể một cách tự nhiên.
2.3.3. Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi.
- Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng nửa tháng hoặc một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay
chia lớp từ 3 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học đó có đề tài phong
phú).
- Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để
chọn đại diện lên nói. Giáo viên Ngữ văn nên hướng học sinh có thái độ cùng
nhau hợp tác. Thời gian để thảo luận là 5 phút.
- Không khí của giờ luyện nói: nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên danh nhiều
thời gian cho học sinh lên nói (30 phút), và số lượng học sinh lên trình bày phải
từ 8 đến 10 học sinh, số còn lại sẽ được nói ở những tiết sau.
2.3.4. Hình thành những chuẩn mực nói cần phải đạt đến.
Công việc này cũng được thực hiện ngay trong tiết 3 lớp 11 và tiết 3 lớp
12 và được nhắc lại nhiều lần, chẳng những trong giờ luyện nói sau mà cũng cần
tích hợp ngay khi có điều kiện. Mục đích của việc làm này là để các em có thể
thấm nhuần, thuộc lòng những tiêu chuẩn và thực hiện theo. Những chuẩn mực
cần cụ thể, rõ ràng để các em dễ tiếp thu, được ghi vào vở:
- Phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi nói:
Thông thường, giáo viên Ngữ văn yêu cầu học sinh phải chuẩn bị dàn bài,
dàn bài nên ngắn gọn, nêu được các ý chính và học sinh sẽ dựa vào đó để nói.
Trong những quyển sách giới thiệu kỹ năng hoạt động của thanh thiếu niên, nhà
biên soạn Tôn Thất Sam và Nguyễn Thị Khiết cũng đồng ý với đề xuất này
4



trong quyển “Học sinh với kỹ năng thuyết trình và diễn đạt ý tưởng” (NXB Trẻ).
Còn nếu có những học sinh kỹ năng tốt hơn, ta có thể cho các em chuẩn bị bằng
cách lập dàn bài và cũng động viên các em còn lại chuẩn bị theo hướng này thì
sẽ rất tốt. Vấn đề còn phụ thuộc vào đặc thù của mỗi lớp, giáo viên cũng nên
linh động để học sinh có thể tự tin hơn khi bắt đầu bài nói.
Trở lại yêu cầu thứ nhất, giáo viên phải giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung
bài nói:
- Nội dung bài nói bao gồm các vấn đề:
+ Nói cái gì? (xác định đề tài).
+ Nói với ai? (xác định đối tượng giao tiếp).
+ Nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn cảnh giao tiếp).
+ Nói như thế nào? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe).
- Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói.
- Tránh đọc lại hoặc thuộc lòng bài văn, chi tiết đã chuẩn bị.
- Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt).
- Tác phong tự nhiên tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng
mọi người.
- Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
- Có lời chào khi kết thúc bài nói.
2.3.5. Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề.
Nếu có điều kiện, giáo viên Ngữ văn nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài
giờ cho học sinh (khoảng 2 buổi trên năm). Mục đích của công việc này là giúp
học sinh có thêm thời gian để trau dồi kĩ năng luyện nói.
- Nội dung buổi sinh hoạt có thể lấy những đề tài từ gần gũi như: “Hình ảnh
người thầy trong ca dao, tục ngữ” nhân ngày 20/11, “Trao đổi kinh nghiệm học
tập” hay đến những đề tài gắn với chủ đề của giờ luyện nói đã học trên lớp

- Hình thức: giống như buổi thuyết trình.
+ Giáo viên chia từng nhóm chuẩn bị đề tài để trình bày.
+ Khi kết thúc nên có sự tổng kết, nhận xét, động viên, khen ngợi.
Ý nghĩa của việc làm này sẽ tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, tạo tiền đề
cho các em vững vàng hơn trong khi học tiết luyện nói trong những tiết học tiếp
theo và tự tin hơn trong cuộc sống hàng ngày.
2.3.6. Định hướng tổ chức thực hiện tiết luyện nói trên lớp.
* Định hướng:
Hoạt động 1: Giới thiệu bài.
- Giáo viên nêu vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng
nói và nói trước tập thể của mỗi người.
Hoạt động 2: Tổ chức cho học sinh chuẩn bị nội dung nói
- Giáo viên nhắc lại các yêu cầu của tiết luyện nói về nội dung bài nói và
hình thức trình bày.
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm, yêu cầu các nhóm chuẩn bị đề cương.
5


- Học sinh trao đổi trong nhóm để thống nhất đề cương.
Hoạt động 3: Tổ chức cho học sinh luyện nói trong nhóm.
- Giáo viên chia lớp ra thành một số nhóm, điều này tuỳ thuộc vào số lượng
học sinh của lớp, thường là từ 7 – 10 em một nhóm.
- Cử một nhóm trưởng có trách nhiệm điều khiển các thành viên trong nhóm
hoạt động: Gọi hoặc yêu cầu các thành viên trình bày trước nhóm. Sau mỗi lần
phát biểu rút ra nhận xét, bổ sung ý kiến.
Hoạt động 4: Tổ chức cho học sinh luyện nói trước lớp.
- Gọi đại diện các nhóm lên phát biểu trước lớp.
- Học sinh các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên nhận xét chung (những ưu điểm và những mặt cần cố gắng khắc
phục), động viên, khích lệ những cố gắng, nỗ lực của học sinh và cho điểm.

Đối với việc luyện nói trước lớp giáo viên cần lưu ý các đối tượng học sinh
tham gia luyện nói. Nên để cho học sinh yếu, trung bình trình bày trước, học
sinh khá, giỏi trình bày sau để các em tự tin hơn, bớt những mặc cảm của bản
thân.
Nên tránh tình trạng một số em mạnh dạn, nói lưu loát (được cử làm đại
diện nhóm), trình bày trước lớp suốt trong các giờ luyện nói. Cần khuyến khích
các em vốn tính nhút nhát, rụt rè luyện nói trước tập thể lớp.
*Áp dụng vào tiết dạy cụ thể:
Tiết 104:
LUYỆN TẬP THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN
Lớp dạy: 11B6
Trường : THPT Thạch Thành 2.
I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT.
1. Kiến thức:
Giúp cho hs:
- Củng cố những kiến thức về thao tác lập luận bình luận viết được một vài
đoạn văn bình luận (hoặc một văn bản bình luận ngắn) về một chủ đề gần gũi
với cuộc sống và suy nghĩ của học sinh.
2. Kĩ năng:
Biết vận dụng thao tác lập luận bình luận vào viết văn và ứng xử trong cuộc
sống.
3. Thái độ:
- Ý thức nhận xét, đánh giá, bàn bạc trước bất cứ một hiện tượng trong cuộc
sống nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của bản thân và xã hội..
II. CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS:
1. Giáo viên:
- Soạn bài; chuẩn bị một số văn bản làm tư liệu.
- Phiếu học tập.
6



- Sau khi dạy xong tiết 12, giáo viên dành ra 5 phút phân công và yêu cầu
học sinh về nhà chuẩn bị cho tiết luyện nói.
- Giáo viên chia lớp làm 3 nhóm:
+ Nhóm 1 (Tổ 1): Nhóm trưởng: Bùi Thị Huế
+ Nhóm 2 (Tổ 2): Nhóm trưởng: Nguyễn Thị Hoa
+ Nhóm 3 (Tổ 3): Nhóm trưởng: Trần Mai Ly.
(Giáo viên giao trách nhiệm cho nhóm trưởng: Điều khiển các thành viên
trong nhóm hoạt động luyện nói, cử đại diện nhóm lên phát biểu trước lớp)
- Yêu cầu chuẩn bị:
+ Lập dàn ý cho các đề tài:
“ Lời ăn tiếng nói của một học sinh văn minh, thanh lịch”
“ Vệ sinh an toàn thực phẩm”
“ Thời trang và tuổi trẻ”
+ Luyện nói theo dàn ý (Chú ý đảm bảo nội dung, ngữ điệu, tác phong, cử
chỉ, điệu bộ phù hợp nội dung bài nói, phải có lới chào, lời giới thiệu, lời cảm ơn
- Phương pháp: thảo luận nhóm, phát vấn, thuyết trình...
2. Học sinh:
- Hs chủ động tìm hiểu bài qua hệ thống câu hỏi sgk.
- Soạn bài theo câu hỏi phần hướng dẫn học bài.
- Chuẩn bị dàn ý theo hướng dẫn của giáo viên.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ: Giáo viên gọi 3 nhóm trưởng báo cáo kết quả kiểm tra
việc chuẩn bị bài của học sinh.
3.Giới thiệu bài mới:
Ngày nay, nhiều vấn đề nóng hổi của xã hội luôn xuất hiện. Việc bình luận
về những vấn đề đó đòi hỏi phải nắm vững kĩ năng mới thuyết phục được người
đọc, người nghe. Luyện tập thao tác lập luận bình luận là để củng cố thêm sự
hiểu biết về kĩ năng bình luận.

Hoạt động của Gv và Hs
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Gv hướng dẫn Hs giải bài I. Bài tập 1
tập 1 sgk.
1. Đề tài: Anh chị viết 1 bài văn bình
luận để tham gia diễn đàn do Đoàn
Thanh niên tổ chức với đề tài: “Lời
ăn tiếng nói của 1 học sinh văn minh,
thanh lịch”.
a. Xác định cách viết:
- Học sinh thảo luận theo nhóm Xác - Đề tài được bình luận đang là vấn
đề đang được quan tâm hiện nay
định cách viết.
+ Vì sao bài văn tham gia diễn đàn là trong nhà trường.
- Nên chọn 1 khía cạnh của đề tài:
bài bình luận?
+Anh chị nên chọn toàn bộ hay chỉ 1 Biết nói lời “Cảm ơn”.
b. Dàn ý:
khía cạnh của đề tài ?
7


- Học sinh làm dàn ý theo nhóm.
- Trong giao tiếp giữa con người với
- Học sinh trình bày các bước lập luận, nhau, 1 qui tắc đòi hỏi chúng ta phải
bình luận.
thực hiện là nói lời “làm ơn” và sau
đó “cảm ơn”.
- Đối với “Lời ăn tiếng nói của một
học sinh văn minh, thanh lịch” nói

lời “Cảm ơn” còn chúng tỏ sự hiểu
biết và có nếp sống văn hoá trong
giao tiếp hằng ngày.
- Cần tập làm quen với lời “Cảm ơn”
và biết “Cảm ơn” vì cuộc sống luôn
đòi hỏi chúng ta phải có thái độ văn
minh, lịch sự trong ứng xử.
c. Xây dựng tiến trình lập luận:
- Nêu hiện tượng (vấn đề) cần bình
luận.
- Đánh giá hiện tượng (vấn đề) cần
bình luận.
- Bàn về hiện tượng (vấn đề) cần
bình luận.
2. Viết đoạn văn bình luận.
a. Trình bày luận điểm 1:
Hoạt động 2: Gv hướng dẫn hs các - Đối với học sinh, lứa tuổi đang còn
bước:
ngồi trên ghế nhà trường thì nói lời
- Giáo viên tổ chức cho học sinh viết “Cảm ơn” là thể hiện sự văn minh,
đoạn văn
lịch thiệp của người học trò. Cuộc
sống có biết bao nhiêu điểm cần lời
- Học sinh thảo luận theo nhóm và “Cảm ơn”. Tập làm quen với “Cảm
trình bày, đại diện nhóm trình bày, giáo ơn” và sau đó là “Cảm ơn” là để
viên nhận xét.
hình thành nếp sống có văn hoá.
Tương tự như trên Hs có thể chọn khía - Trong giao tiếp , khi nói lời “Cảm
cạnh chống “nói tục”
ơn” là tự đáy lòng đã dâng lên niềm

vui sướng và hạnh phúc của tình cảm
chân thực nhất. Cảm giác ấy sẽ càng
được nhân lên gấp bội khi hang ngày
chúng ta trao cho nhau những lời nói
chân thành, lịch thiệp: “Cảm ơn”.
II.Bài tập 2:
Hoạt động 3:
* Đề bài: Bàn về hiện tượng vệ sinh
Gv hướng dẫn Hs làm bài tập 2 theo an toàn thực phẩm.
quy trình:
1. Lập dàn ý
Xác định cách viết
2. Luyện nói theo nhóm (tổ):
Lập dàn ý
- Nhóm trưởng điều hành các hoạt
8


Xây dựng tiến trình lập luận
Viết đoạn vặn bình luận.
Trình bày.

động của nhóm.
- Chọn ít nhất 03 HS thuộc 03 đối
tượng giỏi, khá, trung bình phát biểu.
- HS trong nhóm nghe bạn phát biểu,
nhận xét.
- Chọn bài phát biểu hay lên trình bày
trước lớp (đại diện nhóm trình bày).
3. Luyện nói trước lớp:

- Yêu cầu nhận xét về:
+ Nội dung, tình cảm.
+ Cách diễn đạt, dùng từ.
+ Phong cách.
+ Giọng điệu.

 GV tổng kết giờ “Luyện nói”: nhận
xét tinh thần, ý thức học tập, hoạt động
của từng nhóm, của lớp; khích lệ
những mặt các em đã làm được; rút
kinh nghiệm và khắc phục những
nhược điểm còn tồn tại
4. Củng cố:
- Hệ thống hóa bài học bằng cách nhác lại những kiến thức cơ bản về thao tác
lập luận bình luận.
- Hoàn thành bài tập, dàn ý.
5. Dặn dò:
- Đọc, soạn: Về luân lí xã hội ở nước ta.

9


Tiết: 62
Làm văn
NGHỊ LUẬN
VỀ MỘT TÁC PHẨM, MỘT ĐOẠN TRÍCH VĂN XUÔI
Lớp dạy: 12A2
Trường : THPT Thạch Thành 2.
A. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT:
1. Kiến thức:

- Biết cách lập dàn ý, làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích
văn xuôi.
2. Kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng vận dụng các thao tác phân tích, bình luận, chứng minh,
so sánh...để làm bài văn nghị luận văn học.
3. Thái độ:
- Có ý thức vận dụng lí thuyết vào viết bài văn nghị luận về văn xuôi.
B. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên:
- Phương tiện: sgk, sgv, giáo án.
- Phương pháp: nêu vấn đề, gợi mở, thảo luận nhóm...
2. Học sinh:
- Phương tiện: sgk, vở ghi, vở soạn..
- soạn trước bài ở nhà.
C. TIẾN TRÌNH HOẠT ĐỘNG:
1. Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ: giá trị nội dung của tác phẩm Vợ nhặt?
3. Bài mới:
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

* Hoạt động 1: Tìm hiểu cách I. Cách viết bài văn nghị luận về một
viết bài văn nghị luận về một tác tác phẩm, đoạn trích văn xuôi :
phẩm, đoạn trích văn xuôi
1. Đề 1:
- Thao tác 1: Tìm hiểu đề 1
Phân tích truyện ngắn Tinh thần thể dục
của Nguyễn Công Hoan.
a) Tìm hiểu đề:

+ GV nêu yêu cầu và gợi ý, hướng
- Phân tích truyện ngắn Tinh thần thể
dẫn.
dục của Nguyễn Công Hoan tức là phân
+ HS thảo luận về nội dung vấn đề tích nghệ thuật đặc sắc làm nổi bật nội
nghị luận, nêu được dàn ý đại dung của truyện.
cương.
- Cách dựng truyện đặc biệt: sau tờ trát
của quan trên là các cảnh bắt bớ.
10


Hoạt động của GV và HS

+ GV: Qua việc nhận thức đề và
lập ý cho đề trên, rút ra kết lận về
cách làm nghị luận một tác phẩm
văn học?
+ HS thảo luận và phát biểu.
- Thao tác 2: Tìm hiểu đề 2

+ GV nêu yêu cầu và gợi ý.
+ HS thảo luận và trình bày.

Nội dung cần đạt
- Đặc sắc kết cấu của truyện là sự
giống nhau và khác nhau của các sự việc
trong truyện.
- Mâu thuẫn trào phúng cơ bản: tinh
thần thể dục và cuộc sống khốn khổ, đói

rách của nhân dân.
b) Cách làm nghị luận một tác phẩm
văn học
- Đọc, tìm hiểu, khám phá nội dung,
nghệ thuật của tác phẩm.
- Đánh giá được giá trị của tác phẩm.
2. Đề 2:
Nhận xét về nghệ thuật sử dụng ngôn
từ trong Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân (có so sánh với chương Hạnh phúc
một tang gia- Trích Số đỏ của Vũ Trọng
Phụng).
a) Tìm hiểu đề, định hướng bài viết:
- Đề yêu cầu nghị luận về một kía cạnh
của tác phẩm: nghệ thuật sử dụng ngôn
từ.
- Các ý cần có:
+ Giới thiệu truyện ngắn Chữ người tử
tù, nội dung và đặc sắc nghệ thuật, chủ đề
tư tưởng của truyện.
+ Tài năng nghệ thuật trong việc sử
dụng ngôn ngữ để dựng lại một vẻ đẹp
xưa- một con người tài hoa, khí phách,
thiên lương nên ngôn ngữ trang trọng
(dẫn chứng ngôn ngữ Nguyễn Tuân khi
khắc họa hình tượng Huấn Cao, đoạn ông
Huấn Cao khuyên quản ngục).
+ So sánh với ngôn ngữ trào phúng của
Vũ Trọng Phụng trong Hạnh phúc của
một tang gia để làm nổi bật ngôn ngữ

Nguyễn Tuân.
b) Cách làm nghị luận một khía cạnh
của tác phẩm văn học:

- Thao tác 4: Cách làm nghị luận
một khía cạnh của tác phẩm văn
học
+ GV: Qua việc nhận thức đề và
- Cần đọc kĩ và nhận thức được kía
lập ý cho đề trên, rút ra kết lận về cạnh mà đề yêu cầu.

11


Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

cách làm nghị luận một tác phẩm
văn học?
+ HS thảo luận và phát biểu.
- Thao tác 5: Cách làm bài văn
nghị luận về một tác phẩm, một
đoạn trích văn xuôi
+ GV: Từ hai bài tập trên, rút ra
cách làm bài văn nghị luận về một
tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi?
+ HS phát biểu.
+ GV nhận xét, nhấn mạnh những
ý cơ bản.


- Tìm và phân tích những chi tiết phù
hợp với khía cạnh mà đề yâu cầu.

3. Cách làm bài văn nghị luận về một
tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi:
- Có đề nêu yêu cầu cụ thể, bài làm cần
tập trung đáp ứng các yêu cầu đó.
- Có đề để tự chọn nội dung viết:
+ Cần phải khảo sát và nhận xét toàn
truyện. Sau đó chọn ra 2, 3 điểm nổi bật
nhất, sắp xếp theo thứ tự hợp lí để trình
bày.
+ Các phần khác nói lướt qua. Như thế
bài làm sẽ nổi bật trọng tâm, không lan
man, vụn vặt.
Hoạt động 2: Luyện tập
II. Luyện tập:
Đề: Đòn châm biếm, đả kích trong truyện
ngắn Vi hành của Nguyễn ái Quốc.
- GV gợi ý, hướng dẫn.
1. Nhận thức đề:
- HS tham khảo các bài tập trong
Yêu cầu nghị luận một khía cạnh của
phần trên và tiến hàng tuần tự theo tác phẩm: đòn châm biếm, đả kích trong
các bước.
truyện ngắn Vi hành của Nguyễn ái Quốc.
2. Các ý cần có:
- Sáng tạo tình huống: nhầm lẫn.
- Tác dụng của tình huống: miêu tả

chân dung Khải Định không cần y xuất
hiện, từ đó mà làm rõ thực chất những
ngày trên đất Pháp của vị vua An Nam
này đồng thời tố cáo cái gọi là "văn
minh", "khai hóa" của thực dân Pháp.
4. Củng cố:
- Cách làm bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi
- Cách xây dựng dàn ý cho bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn
trích văn xuôi
5. Dặn dò:
- Học lí thuyết, xem thêm các bài tập tự tìm
- Chuẩn bị bài học mới: “Rừng xà nu” - Nguyễn Trung Thành.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp, nhà trường.

12


Sau khi áp dụng những giải pháp như đã nêu, cho đến thời điểm này thì kĩ
năng nói của học sinh đã có sự chuyển biết tương đối tốt. Cụ thể: Số học sinh có
khả năng trình bày một vấn đề, phát biểu miệng một cách tự tin, trôi chảy, đạt
yêu cầu qua hoạt động thảo luận ở các giờ luyện nói tại các lớp 11B4, 11B6,
12A2 Trường THPT Thạch Thành 2 như sau:
ĐẦU NĂM HỌC 2016-2017:
Lớp
11B4 (Lớp đối chứng)
11B6 (Lớp thực nghiệm)
12A2 (Lớp thực nghiệm)

Tổng

số
36
38
40

Điểm
dưới 5
SL
%
16 44,4
18 47,4
20 50,0

Điểm 5-6
SL
10
10
10

%
27,8
26,2
25,0

Điểm 7- Điểm 98
10
SL % SL %
5 13,9 5 13,9
5 13,2 5 13,2
6 15,0 4 10,0


CUỐI NĂM HỌC 2016-2017:
Lớp
11B4 (Lớp đối chứng)
11B6 (Lớp thực nghiệm)
12A2 (Lớp thực nghiệm)

Tổng
số
36
38
40

Điểm
dưới 5
SL
%
11 30,6
10 26,3
8 20,0

Điểm 5-6
SL
12
5
5

%
33,3
13,2

12,5

Điểm 7- Điểm 98
10
SL % SL %
7 19,4 6 16,7
10 26,3 11 28,9
17 42,5 10 25,0

Qua hai bảng số liệu thống kê và so sánh về kết quả trước và sau khi áp dụng
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả một giờ luyện nói, trải qua thực tế giảng
dạy tại trường THPT Thạch Thành 2, bản thân tôi nhận thấy:
- Đa số các em không còn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám
đông để luyện nói mà đã dạn dĩ, tự tin, thái độ cởi mở hơn.
- Không khí lớp học hào hứng, sôi nổi, các em thích được học những tiết
luyện nói hơn.
- Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không có sự
ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói
đều hoàn chỉnh hơn lúc trước.
- Kỹ năng nói của các em đã có sự tiến bộ: các em biết chào khi mở đầu và
khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trôi chảy, gãy gọn, đúng chính
âm, có kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét mặt, thái độ…).
III. Kết luận, kiến nghị
1.Kết luận:
1.1.Tóm lược giải pháp:
Muốn giờ luyện nói đạt hiệu quả cần chú ý những giải pháp như sau:
1.1.1. Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trong các giờ Ngữ văn.
13



chú trọng việc luyện nói cho học sinh mọi lúc, mọi nơi, trong tất cả các tiết
dạy Ngữ văn thông qua các hoạt động kiểm tra bài cũ, trao đổi, thảo luận nhóm,
phát biểu xây dựng bài…
1.1.2. Phát huy kĩ năng nói của học sinh trong sinh hoạt hàng ngày
- Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng
trong các giờ học, giáo viên nên tiếp xúc với học sinh trong những lúc ngoài giò
lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm tư,nguyện vọng của các em, ngoài
ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em thái độ tự tin, mạnh dạn.
1.1.3. Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi.
Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng nửa tháng hoặc một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay
chia lớp từ 3 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học đó có đề tài phong
phú).
- Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói.
- Không khí của giờ luyện nói: nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
1.1.4. Hình thành những chuẩn mực nói cần phải đạt đến.
Phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi nói: giáo viên Ngữ văn yêu cầu học
sinh phải chuẩn bị dàn bài, dàn bài nên ngắn gọn, nêu được các ý chính và học
sinh sẽ dựa vào đó để nói.
Nội dung bài nói bao gồm các vấn đề: Nói cái gì? (xác định đề tài).Nói với
ai? (xác định đối tượng giao tiếp). Nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn
cảnh giao tiếp). Nói như thế nào? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người
nghe).
+ Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói.
+ Tránh đọc lại hoặc thuộc lòng bài văn, chi tiết đã chuẩn bị.

+ Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt).
+ Tác phong tự nhiên tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng
mọi người.
+ Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
+ Có lời chào khi kết thúc bài nói.
1.1.5. Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề.
Nếu có điều kiện, giáo viên Ngữ văn nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài
giờ cho học sinh (khoảng 2 buổi trên năm). Mục đích của công việc này là giúp
học sinh có thêm thời gian để trau dồi kĩ năng luyện nói.
+ Nội dung buổi sinh hoạt có thể lấy những đề tài từ gần gũi
+ Hình thức: giống như buổi thuyết trình.
14


+ Giáo viên chia từng nhóm chuẩn bị đề tài để trình bày.
+ Khi kết thúc nên có sự tổng kết, nhận xét, động viên, khen ngợi.
1.1.6. Định hướng tổ chức thực hiện tiết luyện nói trên lớp.
Giaó viên dự kiến trước các bước thực hiện, các hoạt động để dạy một giờ
luyện nói hiệu quả.
1.2. Phạm vi và đối tượng áp dụng:
Đề tài này có thể thực hiện trong phạm vi lớp 10, 11,12 theo SGK cải cách
hiện hành, áp dụng cho tất cả đối tượng học sinh THPT, nhất là đối với học sinh
ở vùng ít có điều kiện phát triển giao tiếp như nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
2. Kiến nghị:
Dạy học những tiết luyện nói cho học sinh lớp 10, 11, 12 bên cạnh thuận lợi
như: Các em đã có vốn từ ngữ phong phú thì giáo viên vẫn gặp không ít khó
khăn như:

- Số lượng bài luyện nói quá ít.
- Sách giáo viên chưa có định hướng rõ ràng trong việc giúp người dạy dễ
dàng khi tổ chức các tiết luyện nói.
- Thời gian 45 phút cho 1 giờ luyện nói không đủ để giáo viên có thể cho số
lượng học sinh lên nói được nhiều, vì lớp học có sĩ số đông, không phù hợp khi
tổ chức luyện nói.
- Thiết kế lớp học chưa phù hợp cho những giờ luyện nói.
Trên đây là những khó khăn mà giáo viên Ngữ văn thường gặp, nếu được
quan tâm giải quyết kịp thời sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho những giờ luyện
nói.
Với những điều bản thân đã lĩnh hội được, tôi mong rằng sáng kiến kinh
nghiệm của mình có thể đóng góp phần nào đó trong việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả khi giảng dạy theo tinh thần đổi mới là chú trọng hoạt động giao
tiếp, góp phần nâng cao kỹ năng nói cho học sinh.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm
2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Lâm Thùy

15



×