Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinh trung học phổ thông viết tốt đoạn văn, bài văn nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.64 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình Ngữ văn ở cấp Trung học phổ thông, làm văn là phân
môn khó bởi mang đặc trưng riêng: yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức ở phần Đọc
văn và kiến thức tiếng Việt cùng kĩ năng viết để tạo lập văn bản. Đối với dạng bài
nghị luận xã hội ngoài việc vận dụng kiến thức ở hai phân môn trên đòi hỏi phải có
kiến thức xã hội rộng, hiểu biết cuộc sống và biết trình bày suy nghĩ quan điểm bàn
luận bằng lí lẽ, lập luận,... nên đa số học sinh rất ngại, “sợ” khi làm kiểu bài này. Do
vậy tôi chọn đề tài này để giúp các em đủ kiến thức kĩ năng để làm bài tốt hơn.
Rèn kĩ năng làm bài văn, viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh Trung
học Phổ thông là một bước hiện thực hóa quan điểm đổi mới chương trình giáo dục
phổ thông, đổi mới chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh
giá,.... Đồng thời đảm bảo mục tiêu chung của giáo dục: “Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện”. Biết nhận thức, biết trình bày quan điểm đánh giá về vấn
đề đời sống, tư tưởng, đạo lý xã hội bằng văn bản đúng quy trình, đúng phương
pháp.
Với đối tượng học sinh Trung học phổ thông hiện nay, kiến thức trong các em
phần lớn từ sách vở, từ các tác phẩm văn học, những kiến thức về cuộc sống rút ra từ
thực tiễn, cùng kỹ năng làm bài bày tỏ quan điểm của mình còn yếu. Nên việc “Rèn
kỹ năng viết đoạn văn, làm bài văn nghị luận xã hội” cho các em là rất cần thiết, từ
đó giúp các em nâng cao khả năng hiểu biết, trình bày vấn đề về đời sống xã hội,
hiểu người, hiểu mình, tự tin bước vào cuộc sống.
Mặt khác, “Rèn kỹ năng viết đoạn văn, làm bài văn nghị luận xã hội”
mang tính thiết thực giúp học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi Trung học phổ
thông Quốc gia và xét tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng thuộc khối
có môn Ngữ Văn. Rèn kỹ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh Trung học
Phổ thông có ý nghĩa thiết thực nâng cao chất lượng dạy - học phân môn làm
văn, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ phát triển toàn diện cho quê hương và đất
nước sau này.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn lớp 12, tôi đã thực nghiệm
đề tài:“Một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinhTrung học phổ thông viết


tốt đoạn văn, bài văn nghị luận xã hội ” và thấy hiệu quả, rất có ý nghĩa.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài này hướng tới mục đích sau đây:
Về kiến thức:
Học sinh qua hướng dẫn của giáo viên nắm vững kĩ năng làm bài văn,
đoạn văn nghị luận xã hội để viết bài văn nghị luận xã hội trong các kỳ thi học
sinh giỏi cấp Trường, cấp Tỉnh, cấp Quốc gia. Nắm được những định hướng
chung về đổi mới kiểm tra, đánh giá ở môn Ngữ văn 12- trung học phổ thông,
mức độ đề thi Trung học phổ thông Quốc gia làm tốt phần đề viết đoạn văn nghị
luận xã hội.
Về kỹ năng:
Học sinh nắm phương pháp viết bài văn, đoạn văn nghị luận xã hội theo
đề tài, chủ đề, thông điệp cuộc sống được rút ra từ tác phẩm văn học (một ý thơ,
một câu chuyện, một châm ngôn cuộc sống, lời bái hát,...).
Về thái độ:
1


- Đối với học sinh: Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng vận dụng
kiến thức vào làm bài văn, viết đoạn văn nghị luận xã hội trong môn Ngữ văn.
- Đối với giáo viên: Đổi mới quan niệm đánh giá, bàn luận, học tập của
học sinh, tăng cường rèn luyện kỹ năng làm bài viết theo chuẩn kiến thức kĩ
năng.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh cấp THPT và đặc biệt đối với học sinh lớp 12, học sinh cuối cấp,
chuẩn bị cho kỳ thi THPT Quốc gia.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những
phương pháp chủ yếu:
*Phương pháp tích hợp kiến thức.

*Phương pháp bổ trợ kiến thức.
*Phương pháp thực nghiệm qua tiết dạy - học chính khóa.
*Phương pháp so sánh.
5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Kinh nghiệm này rút ra từ thực tế giảng dạy, từ vận dụng các kỹ thuật dạy
học, những lần ra đề thi kiểm tra để đánh giá chất lượng giáo dục môn học của
học sinh lớp 12 cấp THPT nên những điểm mới đó là:
Kinh nghiệm vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào các giờ học
chính khóa để học sinh nắm kiến thức phần lý thuyết.
Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tự học tích lũy bổ trợ những kiến thức
về vấn đề xã hội (những quan niệm đạo đức xưa và nay, quan niệm Nho giáo,
Phật giáo, những khái niệm,...).
Kinh nghiệm rèn kĩ năng trình bày nội dung đoạn văn, kỹ năng xác định
đề, tìm ý, lập dàn ý, bố cục văn bản khoa học.

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được thể hiện
trong Văn kiện đại hội XII, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, Đảng
ta đưa ra đường lối “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của
sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục
nước nhà “dạyngười, dạy chữ, dạy nghề”. Giáo dục toàn diện theo tinh thần đổi
mới hiện nay là: “Phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của người học;
chú trọng cả dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Giáo dục và Đào tạo phải làm
sao để tạo ra được những con người có phẩm chất, năng lực cần thiết để phục
vụ đất nước, xây dựng xã hội; có đủ hiểu biết và kỹ năng cơ bản để sống tốt và
làm việc hiệu quả…” [1]
Trong những điểm mới của chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh việc học tập và

làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh có điểm mới thứ năm: Bộ Chính trị đặc
biệt yêu cầu gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW về “đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo”. Bộ Chính trị không chỉ dành riêng một nội dung
[1]

Trích “Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng: Thông qua "Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, ngày 27-6-1991” - Trang 17.

2


để yêu cầu về công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong hệ thống giáo dục quốc dân và các học viện, trường chính trị, trường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ các cấp, mà còn chỉ rõ từng nội dung cần đưa vào chương
trình để, bảo đảm phù hợp với từng cấp học, bậc học và với yêu cầu giáo dục,
đào tạo.
Trong chỉ thị số 05-CT/TW cũng nêu rõ: “Đó là: phong cách tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ,
khoa học, kỹ lưỡng, cụ thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hóa, tinh
tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách
nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ
làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị; phong cách quần chúng,
dân chủ, tự mình nêu gương,...”
Vì sao phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực? Các văn kiện của Đảng đã chỉ rõ “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và
đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề
nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và các
phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành... Thiếu chú
trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc” [2] nên

dành thời lượng đáng kể cho các tiết làm văn Nghị luận vấn đề xã hội. Về thực
chất, là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực này, hiệu ứng của nó sẽ làm biển đổi
tích cực nhiều mặt của đời sống xã hội Việt Nam, là sự vun trồng “nguyên khí
Quốc gia”, làm cho nền văn học hưng thịnh, đất nước phát triển bền vững. Giáo
dục và Đào tạo phải làm sao để tạo ra được những con người có phẩm chất, năng
lực cần thiết để phục vụ đất nước, xây dựng xã hội; có đủ hiểu biết và kỹ năng
cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả
Về phía học sinh:
Thật ra ở sách giáo khoa và sách giáo viên đều có phần hướng dẫn
phương pháp làm bài khá cụ thể. Nhưng dù có áp dụng theo cách hướng dẫn
làm bài ấy, nhiều học sinh cũng thấy rất khó khăn khi viết - viết mươi dòng đã
hết ý! Đó là vì các em thiếu một phần vô cùng quan trọng: Kiến thức văn hóa và
“vốn sống”. Vậy kiến thức này lấy ở đâu? Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào
khả năng tự học, tự đọc, tự thu thập kiến thức của học sinh. Vậy thầy giáo là
người có đủ điều kiện, kinh nghiệm truyền thụ để giúp các em vượt qua Khó
khăn ấy.
Ngày nay, với các phương tiện hiện đại thì việc truy cập thông tin là điều
đơn giản, nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại học sinh rất nghèo vốn kiến thức
xã hội, văn hóa. Vì vậy, học sinh cần phải được giáo viên định hướng, nắm bắt
những kiến thức cơ bản để làm tốt văn nghị luận xã hội.
Về phía giáo viên: Việc rèn kĩ năng làm bài cho học sinh là điều rất khó
vì số tiết quy định trong chương trình có giới hạn.
Tư liệu về nghị luận xã hội không phong phú như nghị luận văn học nên
cũng ít thuận lợi trong việc soạn giảng.
Từ những thực tế trên, tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm cá nhân khi dạy
nghị luận xã hội để đồng nghiệp tham khảo.
[2]

Trích “Văn kiện trình đại hội Đảng VII”- Ngày 24/6/1991 -Trang 2. GD hiện nay và yêu cầu đổi mới- Trang
nhất.


3


2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾM
KINH NGHIỆM:
Xuất phát từ thực trạng làm văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 12
Trung học phổ thông là khi viết đoạn văn, bài văn nghị luận xã hội thường mắc
các lỗi cơ bản sau:
2.1. Học sinh không nhớ lí thuyết của dạng bài, kiểu bài làm văn nghị luận.
Học sinh viết theo cảm tính, nghĩ gì viết đấy không cần biết có đúng yêu
cầu hay không. Có những bài văn, khi chấm giáo viên đọc mà không hiểu được
học sinh của mình viết gì, muốn nói điều gì.
Minh chứng: ở bài viết số 1, lớp 12A2,12A9: 10% học sinh làm bài lạc đề,
50% làm bài đúng chủ đề, 20% xa đề, 20% viết bài tùy hứng.
2.2. Học sinh chưa biết phân tích đề, tìm trọng tâm vấn đề cần nghị luận.
* Nghị luận về đạo lí: học sinh chủ yếu diễn xuôi vấn đề mình hiểu.
* Nghị luận về một hiện tượng đời sống: học sinh thường sa vào kể lể hiện
tượng mình chứng kiến, nghe thấy...
2.3. Học sinh chưa biết lấy dẫn chứng và chưa phân tích dẫn chứng, không
tạo được sức thuyết phục cho người đọc.
2.4. Học sinh đọc văn mẫu tràn lan, dẫn tới làm bài viết nhại lại như một con
vẹt, viết không theo mẫu, theo “khung” mà viết lan man, tùy tiện diễn đạt.
2.5. Trong các bài viết học sinh thường liệt kê dẫn chứng mà không có ý thức
phân tích dẫn chứng.
Tổng hợp kết quả bài viết số 1 (Nghị luận xã hội) ở các lớp 12 tôi dạy
qua 2 năm học: 2014 - 2015, 2015 - 2016 như sau:
Năm học 2014 - 2015:
Lớp
12 A3

12A5

TS
HS
Giỏi
41 0 = 0%
45 0 = 0%

Khá
04 = 9,8%
8 = 44,4%

Điểm
TB
Yếu
Kém
26 = 63,4% 10 = 24,4% 01 = 2,4%
22 = 31.1% 9 = 20%
04 = 4,5%

Năm học 2015 - 2016:
Lớp

TSHS

12A1
12A2

43
44


Giỏi
0
0

Khá
6= 12,2%
5= 6,7%

Điểm
TB
Yếu
24= 49%
15= 30,6%
18= 40%
22= 48,9%

Kém
2=8,2%
2=4,4%

Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, viết
đoạn văn của học sinh rất yếu, các em không định hướng, xác định dung lượng
kiến thức trước khi viết bài, nên khi viết rất lúng túng, viết không đúng yêu cầu
của đề bài và lạc đề. Thực tế cho thấy bài viết số một chất lượng học sing giỏi
không có (năm học 2015- 2016 chỉ đạt ba giải khuyến khích học sinh giỏi cấp
Tỉnh, Kỳ thi THPT Quốc gia chỉ có 17,5 % đạt điểm khá).
Từ cơ sở lí luận và thực trạng viết bài văn nghị luận xã hội của học sinh tôi đã vạch
kế hoạch: “Rèn kĩ năng viết đoạn văn, làm bài văn nghị luận xã hội” có hiệu quả và
rút ra bài học kinh nghiệm.

4


3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ “RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN
VĂN, LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI”:
Để thực hiện được đề tài, yếu tố đầu tiên mà tôi quan tâm đó là đối tượng
học sinh. Học sinh vùng nông thôn, miền trung du, kinh tế xã hội còn khó khăn,
năng lực cảm thụ văn học còn nhiều hạn chế. Tâm lí chung của các em là lười
suy nghĩ, ít hiểu biết các vấn đề xã hội. Chưa có ý thức lần mò, đam mê tìm hiểu
nội dung nghĩa của một câu tục ngữ, câu châm ngôn. Chính vì vậy các em rất
thiếu hiểu biết sâu về các vấn đề cuộc sống, lại nhút nhát, ngại bày tỏ những
nhận xét đánh giá trước mọi người. Muốn học sinh làm tốt các bài nghị luận văn
học đòi hỏi học sinh phải nắm được lí thuyết, cách làm bài văn, có kiến thức về
vấn đề xã hội từ văn học, từ cuộc sống, sử dụng thành thạo các kĩ năng, thao tác
làm bài. Nên giải pháp đầu tiên là tôi hướng dẫn các em phải biết cách viết đoạn
văn, làm bài văn nghị luận xã hội .
3.1: Hướng dẫn học sinh nhớ lại lý thuyết viết đoạn văn, làm bài văn nghị
luận xã hội, cách thức làm bài văn nghị luận xã hội:
- Trong làm văn nghị luận xã hội thì ba thao tác giải thích, chứng minh,
bình luận là nền tảng. Các thao tác còn lại như so sánh, phân tích ... thực chất
cũng là sự kết hợp pha trộn giữa chứng minh và giải thích, bình luận. Khi phân
tích thì phần giải thích nặng hơn chứng minh, khi bình luận thì phần chứng minh
nặng hơn giải thích. Do đó, nắm rõ phương pháp chứng minh và giải thích sẽ
giúp cho việc làm văn trở nên dễ dàng hơn.
Cơ bản của phương pháp này là các cách thức dễ nhớ, dựa vào các cách
thức này mà người viết có thể tìm ý, xây dựng khung ý tưởng cho bài viết.
* Đối với bài văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh:
Bố cục bài viết có 3 phần: Mở bài - Thân bài - Kết bài
Mở bài: là chìa khóa cho toàn bộ bài văn, phần mở bài phải đạt ba điều kiện:
“Gợi - Đưa - Báo”

Gợi: tức là “gợi ý” ra vấn đề cần bàn bạc.
Đưa: tức là dẫn dắt vào vấn đề cần bàn bạc, đưa ra vấn đề.
Báo: tức là phải thể hiện cho biết mình sẽ làm gì, hướng bàn luận.
Khó nhất là phần gợi ý dẫn dắt vấn đề, có 3 cặp 6 lối để giải quyết như sau:
• Tương đồng/tương phản: đưa ra một vấn đề tương tự hoặc trái ngược để
liên tưởng đến vấn đề cần giải quyết, sau đó mới tạo móc nối để “Đưa vấn đề
ra”, cách này thường dùng khi cần nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, câu tục
ngữ, câu châm ngôn.
• Xuất xứ/đại ý: dựa vào thông tin xuất xứ / đại ý để đưa vấn đề ra, cách
này thường dùng nghị luận một vấn đề triết lí cuộc sống được nhà văn chọn lọc
từ cuộc sống rồi đưa vào tác phẩm,hoặc một nhận định của một tác giả nổi
tiếng.
• Diễn dịch/quy nạp: cách này thường đưa ra câu chốt (khái quát vấn đề),
sau đó dẫn dắt vào vấn đề nghị luận, bày tỏ quan điểm nghị luận.
Thân bài:
Thân bài thực chất là một tập hợp các đoạn văn nhỏ nhằm giải quyết một vấn
đề đưa ra ở phần khái quát. Để tìm ý cho phần thân bài thì có thể dùng các công
thức sau đây để đặt câu hỏi nhằm tìm ý càng nhiều và dồi dào càng tốt, sau đó
có thể sử dụng toàn bộ hoặc một phần ý tưởng để hình thành khung ý cho bài
văn:
5


* Thao tác giải thích: trả lời cho câu hỏi Gì - Nào - Sao - Do đâu - Nguyên
nhân - Hậu quả. (Gì: cái gì, là gì - Nào: thế nào - Sao: tại sao - Do: do đâu Nguyên: nguyên nhân, Hậu: hậu quả)
Đặt vấn đề của đề bài vào khung câu hỏi trên, tìm cách giải đáp câu hỏi, lập
luận với vấn đề cần giải quyết thì sẽ có rất nhiều hướng trả lời, hoặc các ý tưởng
giảng giải, giải thích vấn đề một cách thoả đáng.
* Thao tác phân tích, chứng minh: cần làm rõ các phương diện:
Mặt - Không - Giai - Thời - Lứa.

Mặt: các mặt của vấn đề
Không: không gian xảy ra vấn đề (thành thị, nông thôn, Việt Nam hay nước
ngoài...)
Giai: giai đoạn (ví dụ: giai đoạn trước năm 1945, sau năm 1945..)
Thời: thời gian - nghĩa hẹp hơn so với giai đoạn (có thể là mùa thu, mùa
đông, mùa mưa, mùa nắng, buổi sáng, buổi chiều..)
Lứa: lứa tuổi (thiếu niên hay thanh niên, thiếu nữ hay người già,...)
* Thao tác lập luận, bình luận: Đúng, sai, phải, trái, hạn chế, tích cực,thông
điệp cuộc sống...?
Đúng: ở phương diện nào, mức độ đúng?
Sai: ở phương diện nào, mức độ sai? Hoặc đặt vào hoàn cảnh giao tiếp, hoàn
cảnh cuộc sống như thế nào sẽ không phù hợp?
Thông điệp cuộc sống từ vấn đề bàn luận là gì?
3.2: Hình thành đoạn văn từ khung ý tưởng:
Sau khi dựa vào khung câu hỏi bạn hình thành được khung ý tưởng, điều tiếp
theo là từ từng ý tưởng đó ta triển khai ra các đoạn văn hoàn chỉnh. Cách triển
khai đoạn văn theo: Nào - Sao - Cảm
Nào: vấn đề đó được hiểu như thế nào?
Sao: tại sao, cơ sở gì để hiểu vấn đề đó. Cơ sở, căn cứ đó có điểm gì tích cực?
hạn chế?
Cảm: cảm xúc, cảm giác, cảm tưởng của bản thân về vấn đề đó.
Cứ như vậy sẽ có nhiều đoạn văn. Các đoạn văn này hợp lại là thân bài.
Kết bài
Có công thức Tóm - Rút - Phấn để thực hiện phần này
- Tóm: tóm tắt lại vấn đề nghị luận.
- Rút: rút ra kết luận gì, bài học kinh nghiệm
- Phấn: hướng phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân theo các chiều
hướng như phát huy, để giảm thiểu điều xấu.
3.3: Định hướng kĩ năng tích luỹ những kiến thức cơ bản để làm văn nghị
luận xã hội (lập đề cương kiến thức để các em tự tìm trên các nguồn, kênh

thông tin: sách, báo, mạng internet...)
Đây là những kiến thức giúp các em làm tốt văn nghị luận xã hội. Tùy theo
yêu cầu cụ thể của từng đề bài, giáo viên sẽ hướng dẫn có sự ứng dụng linh hoạt.
Riêng với học sinh theo chương trình Nâng cao, giáo viên có điều kiện thời gian
thuận lợi để đi sâu, rộng hơn ở từng đơn vị kiến thức.
* Giáo viên cần bổ túc cho học sinh những khái niệm, kiến thức mở
rộng (là kiến thức tích hợp liên môn mà các em đã học ở các môn học như
lịch sử, giáo dục công dân, địa lý, toán học, hóa học...v.v)
6


Xã hội: Hiểu theo nghĩa rộng, xã hội là hình thái sinh hoạt cuả cộng đồng loài
người. Hình thái xã hội luôn luôn phát triển, gắn với sự phát triển của loài người.
Mác đã định nghĩa: “Xã hội – bất cứ hình thức nào cũng là kết quả của sự tác
động lẫn nhau giữa người và người”. Trong lịch sử, cộng đồng người đã phát
triển từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc đến dân tộc. Hiểu theo nghĩa hẹp, cộng đồng
xã hội chính là những cộng đồng nghề nghiệp chính trị, tôn giáo, văn hóa…
trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia.
Chính trị: Ngày nay, chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các
mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc mà cốt lõi của nó là vấn đề
giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công
việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động
của nhà nước.[3]
Bản sắc văn hóa:
Bản sắc văn hóa là cái riêng, cái độc đáo mang tính bền vững và tích cực của
một cộng đồng văn hóa. Văn hoá Việt có bản sắc riêng trong mối quan hệ với
các nền văn hóa khác. Bản sắc này hình thành từ chính thực tế địa lý, lịch sử,
đời sống cộng đồng của người Việt và quá trình giao lưu, tiếp xúc, tiếp nhận,
biến đổi các giá trị văn hóa của một số nền văn hóa khác (Trung Hoa, Ấn Độ).
Văn hóa Việt giàu tính nhân bản, tinh tế, hướng tới sự hài hòa trên mọi phương

diện (tôn giáo, nghệ thuật, ứng xử, sinh hoạt)
Môi trường:
Hiện nay thế giới đang đứng trước một loạt khó khăn, trong đó có 5 cuộc khủng
hoảng lớn là dân số. lương thực, năng lượng, tài nguyên và sinh thái. Năm cuộc
khủng hoảng lớn này đều liên quan rất chặt chẽ với môi trường. Nói một cách
đơn giản, môi trường là tất cả mọi thứ xung quanh chúng ta. Môi trường
tự nhiên là tổng thể các nhân tố tự nhiên như: bầu khí quyển, nước, thực phẩm,
động vật, thổ nhưỡng, nham thạch, khoáng sản, bức xạ mặt trời…
Mối quan hệ giữa con người với cuộc sống:
Quan hệ với thế giới tự nhiên:
Người Việt Nam yêu thiên nhiên, yêu những thắng cảnh hùng vĩ, mĩ lệ của non
sông đất nước và cũng yêu cảnh vật gần gũi, thân quen trong cuộc sống hàng
ngày (cây cỏ, hoa lá, chim muông…). Đó là cội nguồn của tình yêu quê hương
đất nước.
Quan hệ với quốc gia, dân tộc:
Đặc điểm cơ bản của dân tộc Việt Nam là cuộc đấu tranh gần như liên tục và
quyết liệt để giành độc lập và bảo vệ độc lập. Người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, tự hào, ý thức dân tộc, sẵn sàng xả thân để bảo vệ độc lập tự do dân tộc;
quá khứ anh hùng thêm sức mạnh cho hiện tại. Ngày nay, giặc ngoại xâm không
còn nhưng tinh thần đấu tranh của dân tộc vẫn được phát huy để chống cái ác,
cái xấu, cái tiêu cực…
Quan hệ với xã hội:
Người Việt yêu hòa bình, chuộng công lý, tôn trọng những giá trị nhân văn của
nhân loại. Tư tưởng nhân đạo bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người
Việt, chịu ảnh hưởng những giá trị nhân văn tích cực của Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo; biểu hiện qua lối sống “thương người như thể thương thân”; qua
những nguyên tắc đạo lý “Tôn sư trọng đạo”, thái độ ứng xử tốt đẹp giữa người
[3]

Trích “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam A-Đ” - Trang 479 - Xuất bản năm 2000


7


với người (tình anh em,tình bằng hữu, tình mẫu tử,…) khẳng định quyền sống
quyền hạnh phúc; lên án những thế lực tàn bạo (nạn bạo hành trẻ em, bạo lực
gia đình…); đề cao phẩm chất tài năng của con người.
Các nguồn tư tưởng khác:
Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo là những tôn giáo có ảnh hường mạnh nhất
đến văn hóa truyền thống và đời sống của người Việt Nam từ xưa đến nay. Phần
này chúng ta chỉ đề cập đến những vấn đề mang tính ảnh hưởng chứ không đi
sâu tìm hiểu về cội nguồn hoặc lịch sử phát triển của các tôn giáo này như Đại
cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi theo tư tưởng giáo lí nào? Chữ hiếu trong nhận
thức của Thúy Kiều từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, chữ hiếu trong nhận thức
của Mỵ trong Vợ chồng A Phủ, của Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia
đình theo tư tưởng đạo đức, giáo lý nào của người Việt? Nghĩa là giáo viên định
hướng cho học sinh tự tìm hiều một số vấn đề đời sống xã hội, để khi gặp những
đề bài có liên quan các em sẽ làm bài đúng hướng và trình bày gãy gọn, dễ hiểu
tạo sức thuyết phục cho văn bản nghị luận. (Ví dụ: Thế nào là “tiên học lễ, hậu
học văn”?, “Công, dung, ngôn, hạnh” có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống
hiện đại? “Cần, kiệm, liêm, chính” là gì? Những đức tính ấy có còn giá trị với
con người hiện đại?...)
Hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu những khái niệm cơ bản qua việc tự tra
từ điển tiếng Việt, Hán Việt:
Tam cương: ba mối quan hệ kết hợp cá nhân để tạo nên một xã hội có trật tự.
Đó là:
Quân thần cương: Vua phải xứng đáng làm đầu mối để muôn dân nương tựa.
Bề tôi (dân chúng) phải trung thành với vua, với phép nước.
Phụ tử cương: Đạo cha con: cha phải xứng đáng để con cái nương tựa; con
cái phải hiếu thảo với mẹ cha để báo đền ơn sinh thành, dưỡng dục.

Phu thê cương: Đạo vợ chồng. Người chồng phải xứng đáng để vợ nương
tựa, Vợ có bổn phận phải chung thủy, đạo nghĩa với chồng.
Ngũ thường: năm đức tính thiết yếu hằng ngày mà mỗi cá nhân phải trau dồi
để thực hiện tốt trong cuộc sống. Đó là:
Nhân: Yếu tố cơ bản của tình cảm. Đó không chỉ là lòng thương người,
thương mình, khoan dung độ lượng mà còn là đạo làm người.
Nghĩa: Cư xử cho đúng phép với tất cả mọi người. Trong hành xử, nghĩa
thường kèm theo lợi, bởi vậy mà cần suy nghĩ chín chắn, chọn cái nghĩa làm
đầu.
Lễ: Sự cúng tế và tôn kính trời-thần, và cũng là nghi thức phải áp dụng khi
giao tiếp với người khác.
Trí: Dùng sự hiểu biết và kinh nghiệm để xét người, xét sự vật trước khi hành
xử.
Tín: Lòng tin, đức tin, tin cậy…
Tam tòng: Ba điều phải theo:
Tại gia tòng phụ: Khi còn ở nhà, phải tuân theo sự dạy dỗ, chỉ bảo, định
hướng của cha mẹ.
Xuất giá tòng phu: Khi lấy chồng, phải làm tròn nhiệm vụ của người vợ.
Phu tử tòng tử: Chồng chết thì phải thủ tiết nuôi con để giữ gìn phẩm hạnh
của mình và cho con.
8


Tứ đức: Bốn đức tính cần học cho thuần thục lúc còn ở nhà với cha mẹ để
chuẩn bị đi lấy chồng:
Công: Khéo léo trong công việc nội trợ.
Dung: Vẻ mặt hiền hậu, dịu dàng, tươi tắn.
Ngôn: Nói năng nhỏ nhẹ, nghiêm trang, đúng mực.
Hạnh: Tính tình thuần hậu, kín đáo, đoan chính.
3.4: Rèn kĩ năng vận dụng các thao tác nghị luận:

Thao tác giải thích:
+ Yêu cầu đặt ra:
Đi sâu vào những phát ngôn rất súc tích để tìm hiểu và lý giải nội dung, ý
nghĩa bên trong. Tức là ta phải làm sáng tỏ, giảng giải, bóc tách vấn đề người
đọc hiểu được thấu đáo cái đang được đề cập khi chúng còn đang mơ hồ theo
một chính kiến.
+ Công việc cụ thể:
Trong thao tác giải thích vừa dùng lý lẽ để phân tích, lý giải là chủ yếu; vừa
dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, xác lập một cách hiểu đúng đắn, sâu sắc
có tính biện chứng nhằm chống lại cách hiểu sai, hiểu không đầy đủ, không hết
ý. Bước kết thúc của thao tác giải thích là rút ra điều chúng ta cần vận dụng khi
đã tìm hiểu được chân lý. Phương hướng để vận dụng những chân lý này vào
cuộc sống hàng ngày, tuỳ theo cho cá thể hay cho cộng đồng mà có hướng vận
dụng phù hợp, và mỗi chúng ta phải như thế nào?
→ Từ những điều nói trên, ta rút ra một sơ đồ tổng quát theo ba bước:
- Bước 1: giải thích.
- Bước 2: lí giải tại sao.
- Bước 3: đặt vấn đề theo chiều thuận nghịch để hiểu.
Thao tác chứng minh:
+ Yêu cầu đặt ra:
Phải làm sáng tỏ chân lý bằng các dẫn chứng và lý lẽ. Khi ta đã chấp nhận cái
chân lý thể hiện trong một phát ngôn nào đó, nhiệm vụ là ta sẽ phải thuyết phục
người khác cũng chấp nhận như mình bằng những dẫn chứng rút ra từ thực tế
cuộc sống xưa và nay, từ lịc sử, từ văn học (nếu đề yêu cầu) và kèm theo dẫn
chứng là những lý lẽ dẫn dắt, phân tích tạo ra lập luận vững chắc, mang đến
niềm tin cho người đọc.
+ Công việc cụ thể:
Bước đầu tiên là phải tìm hiểu điều cần phải chứng minh, không những chỉ
bản thân mình hiểu, mà còn phải làm cho người khác thống nhất, đồng tình với
mình cách hiểu đúng nhất.

Tiếp theo là việc lựa chọn dẫn chứng. Từ thực tế cuộc sống rộng lớn, tư liệu
lịch sử rất phong phú, ta phải tìm & lựa chọn từ trong đó những dẫn chứng xác
đáng nhất, tiêu biểu, toàn diện nhất (nên chỉ cần vài ba cái để làm sáng tỏ điều
đó). Dẫn chứng phải thật sát và kèm theo dẫn chứng phải có lý lẽ phân tích - chỉ
ra những nét, những điểm ta cần làm nổi bật trong các dẫn chứng kia. Để dẫn
chứng và lý lẽ có sức thuyết phục cao, ta phải sắp xếp chúng bởi một hệ thống
chặt chẽ: theo trình tự thời gian, không gian, từ xưa đến nay, từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong hoặc ngược lại...miễn sao hợp logic.
Bước kết thúc vẫn là bước vận dụng, đặt vấn đề vào thực tiễn cuộc sống hôm
nay để đề xuất phương hướng nỗ lực. Chân lý chỉ giá trị khi soi rọi cho ta sống,
9


làm việc tốt hơn. Ta cần tránh công thức và rút ra kết luận cho thoả đáng, thích
hợp với từng người, hoàn cảnh, sự việc.
Từ những điều nói trên, ta thấy phần này theo ba bước:
- Giới thiệu điều cần chứng minh trong luận đề được nêu lên.
- Các minh chứng và lý lẽ để làm sáng tỏ điều cần chứng minh.
- Kết luận và phương hướng giải quyết.
Thao tác bình luận:
Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn
chứng minh. Nên những yêu cầu của giải thích và chứng minh cũng là yêu cầu
đối với văn bình luận, nhưng giải thích và chứng minh sẽ được viết cô đọng,
ngắn gọn hơn so với chỉ một thao tác chứng minh hoặc giải thích để tập trung
cho phần việc quan trọng nhất là bình luận - phần mở rộng vấn đề.
Trước khi bình luận, ta thường phải bày tỏ thái độ, để khách quan và tránh
phiến diện, ta phải xem xét kĩ luận đề để từ đó có thái độ đúng đắn, có ba khả
năng:
Hoàn toàn nhất trí.
Chỉ nhất trí một phần. (có giới hạn, có điều kiện)

Không chấp nhận. (bác bỏ)
Sau đó, ta bình luận - mở rộng lời bàn để vấn đề được nhìn nhận sâu hơn,
toàn diện hơn, triệt để hơn. Cuối cùng, ta lại chỉ ra phương hướng vận dụng để
đưa lý luận vào áp dụng thực tế cuộc sống.
3.5: Rèn kĩ năng xác định các dạng nghị luận xã hội
* Dạng nghị luận về một tư tưởng, đaọ lý:
Đề tài:
Về nhận thức (lí tưởng, mục đích sống..)
Về tâm hồn, tính cách ( lòng yêu nước, lòng nhân ái, tính khiêm tốn..)
Về quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em…)
Về quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn…)
Cấu trúc triển khai tổng quát:
Giới thiệu tư tưởng, đạo lý cần nghị luận.
Giải thích tư tưởng, đạo lý cần bàn luận (từ ngữ, khái niệm, nghĩa đen, nghĩa
bóng…)
Bàn luận về tư tưởng đạo lý.
Rút ra bài học nhận thức và định hướng hành động hành động về tư tưởng,
đạo lý.
Đề minh chứng:
Đề bài:
Hãy viết một bài văn khoảng 600 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị
về quan niệm sau:
“Hỏi một câu chỉ dốt trong một lát. Không hỏi sẽ dốt suốt cuộc đời”.[4]
(Danh ngôn)
Hướng dẫn chấm:
1/ Giải thích:
- Nội dung câu danh ngôn đề cập đến vấn đề nhận thức, hỏi hay không hỏi
khi bản thân mỗi người gặp phải những vấn đề nan giải.
[4]


Trích “Từ điển danh ngôn: Thế giới và Việt Nam” của Nguyễn Nhật Hoài và Vũ Tiến Quỳnh.

10


- Có thể khi ta hỏi, ta có khả năng bị cho là chưa đủ trình độ để giải đáp
sự việc, thậm chí bị xem là dốt, nhưng đó chỉ là cái dốt trong thoáng chốc
vì ngay sau đó ta đã có được câu giải đáp đầy đủ về vấn đề.
- Nếu sĩ diện không hỏi, sự thiếu thông suốt về vấn đề sẽ đeo đẳng ta, có
khi là suốt cả một đời.
2/ Bàn luận về quan niệm:
- Hỏi là một nhu cầu tất yếu của mỗi người khi gặp phải vấn đề chưa thật
rõ hoặc vượt qua nhận thức của mình.
- Mục đích của việc hỏi là để được biết, được giỏi hơn. Việc hỏi để được
hiểu biết và nâng cao nhận thức cần được xem là một việc bình thường và cần
thiết vì những điều ta biết là rất có giới hạn.
- Quan niệm cho rằng khi mình hỏi ai đó một vấn đề gì sẽ bị người khác
cho là trình độ của mình còn thấp kém là một quan niệm không đúng cả về mặt
khoa học lẫn
nhận thức.
3/ Bài học nhận thức và định hướng hành động:
- Câu danh ngôn giúp mỗi người nhận thức thêm về vấn đề cần trao đổi
để nâng cao kiến thức.
- Việc học trong và ngoài nhà trường cần được bổ sung liên tục bằng việc
mọi người trao đổi với nhau những điều mình chưa rõ để tất cả cùng rõ.
* Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống:
Đề tài:
- Môi trường (hiện tượng Trái đất nóng lên, thiên tai, ô nhiễm…)
- Ứng xử văn hóa (lời cám ơn, lời xin lỗi, cách nói năng nơi công cộng…)
- Hiện tượng tiêu cực (nghiện thuốc lá, bạo lực gia đình, học sinh đánh nhau

trong trường học…)
- Hiện tượng tích cực (hiến máu nhân đạo, chương trình mùa hè xanh, xây
nhà tình nghiã, người tốt việc tốt…)
Cấu trúc triển khai tổng quát:
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Giải thích cách hiểu về hiện tượng: Chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng.
- Nêu thực trạng và bàn luận về hiện tượng: Phân tích mặt đúng, sai, lợi, hại
(Dùng dẫn chứng từ cuộc sống)
- Bài học nhận thức, định hướng hành động: bày tỏ thái độ, ý kiến của bản
thân về hiện tượng trên.
3.6: Rèn kỹ năng thực hiện các bước làm bài văn nghị luận xã hội :
Bước 1: Rèn kỹ năng tìm hiểu đề:
Để thực hiện tốt được thao tác này học sinh cần đọc kỹ đề, tìm và gạch chân
các cụm từ quan trọng (cụm từ chứa thông tin căn bản của vấn đề: vấn đề cần nghị
luận, thao tác nghị luận,...). Học sinh phải xác định đầy đủ, chính xác các yêu cầu
sau:
- Yêu cầu về nội dung: Vấn đề cần nghị luận là gì?
- Yêu cầu về hình thức:
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Có thể lấy dẫn chứng từ những tác phẩm
văn học, hay cuộc sống?.
Bước 2: Rèn kĩ năng lập dàn ý
11


Lập dàn ý là một khâu quan trọng. Dàn ý giúp người viết không bỏ sót
những ý cơ bản, trọng tâm, đồng thời loại bỏ được những ý không cần thiết. Lập
dàn ý tốt, có thể sẽ viết dễ dàng hơn, nhanh hơn và hay hơn.
Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý từng kiểu bài, tôi đưa ra mô hình
tổng quát của một bài văn nghị luận cho học sinh tham khảo:

Mô hình tổng quát một bài văn nghị luận xã hội: ( Bố cục)
Mở bài (còn gọi là đặt vấn đề):
Dẫn dắt từ vấn đề rộng hơn thu
hẹp dần đến việc giới thiệu luận đề.
Thân bài (còn gọi là giải quyết vấn
đề):
Bao gồm nhiều đoạn văn, mỗi
đoạn văn là một luận điểm. Các luận
điểm đều tập trung làm nổi bật luận
đề ở phần ở bài.
Kết bài (còn gọi là kết thúc vấn đề):
Tổng hợp lại từ các luận điểm
đã trình bày, đánh giá và gợi mở.

Mở bài
Luận điểm 1
Luận điểm 2

Thân bài

Luận điểm: n...
Kết bài

Từ mô hình tổng quát đó, tôi hướng dẫn các em lập dàn ý của từng kiểu
bài.
Bước 3: Rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn:
- Dựa vào khung dàn ý bài văn luyện viết từng luận điểm. Hoặc cho học
sinh lựa chọn luận điểm thích hợp để viết.
- Hướng dẫn học sinh viết theo tiến trình:
+ Thứ nhất: chuyển luận điểm thành câu chủ đề.

+ Thứ hai: Trên cơ sở phân tích các khía cạnh của luận điểm, viết các
câu triển khai.
+ Thứ ba: Viết câu có tính chất kết đoạn.
- Giáo viên thu một số bài để chấm, nhận xét, sửa.
Để cụ thể hóa các bước rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội, tôi thiết kế một
giáo án dạy thực nghiệm tiết tự chọn:
*Đối với viết đoạn văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự tìm, đọc lại SGK Ngữ văn lớp 6, 8,
9 để nhớ lại khái niệm về đoạn văn sau đó kiểm tra, khắc sâu vấn đề: Khái niệm
đoạn văn, các cách trình bày nội dung đoạn văn đó là:
Khái niệm: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết
hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý
tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành.
Đặc điểm:
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ
được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ,
đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề

12


mang nội dug khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và
đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai
làm sáng tỏ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, quy nạp, song hành,...[5]
Tiếp theo, giáo viên hướng dẫn cách viết đoạn văn thông qua việc xác định
đề: Đề tài được đề cập đến ở đề tài là gì? (hiện tượng đời sống hay tư tưởng đạo
lí) Giới hạn bài viết bao nhiêu chữ? (200 chữ thì tương đương với 20 - 25 dòng
giấy thi và khoảng 15-17 câu). Sơ đồ cấu trúc của đoạn:
→ Từ dòng 01 đến dòng 02: Viết câu chủ đề.
→ Từ dòng 03 đến dòng 08: Giải thích cách hiểu về chủ đề nghị luận (hiện

tượng đó có nguồn gốc, nguyên nhân từ đâu?).
→ Từ dòng 09 đến dòng 12: Nêu thực trạng của vấn đề đó.
→ Từ dòng 13 đến dòng 17: Bình luận vấn đề theo từng phương diện đúng/sai.
→ Từ dòng 18 đến dòng 19: Mở rộng, liên hệ, bài học nhận thức, định hướng.
→ Dòng 20: Kết luận vấn đề.
Đề bài thực nghiệm:
Đề bài:
SỞ GD & ĐT THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LAM SƠN

ĐỀ THI KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG HỌC KỲ II
NĂM HỌC 2016 - 2017

Đề chính thức
Gồm có 01 trang

Môn: Ngữ văn – Lớp 12
Thời gian: 120 phút ( Không kể thời gian giao đề)

I. Đọc - hiểu(3,0 điểm)
Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu:
NƠI DỰA
Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?
Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào…
Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước,
bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.
Và cái miệng líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.
Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người
đàn bà kia sống.
***

Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?
Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.
Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.
Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi
nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.
Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người
chiến sĩ kia đi qua những thử thách.[6]
1. Xác định những cặp hình tượng được nhắc đến trong văn bản trên? (0,5
điểm)
2. Nêu hai biện pháp tu từ được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích? (0,5 điểm)
3. Xác định nội dung chính của phần văn bản trên? (1,0 điểm)
[5]
[6]

Trích “SGK Ngữ Văn 8 tập 1” - Trang 36 - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2016.
Trích “SGK Ngữ Văn 10 tập 2” - Trang 121-122 - Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2006.

13


4. Có ý kiến cho rằng nơi dựa cũng có cùng ý nghĩa với sống dựa, đúng hay
sai? Vì sao? (1,0 điểm)
II. PHẦN: TỰ LUẬN (7.0 điểm)
Câu 1(2,0 điểm )
Anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ
về chủ đề sống dựa?
Câu 2( 5,0 điểm):....
...............................Hết...........................................
Hướng dẫn chấm:
Câu 2( 2,0 điểm)

Câu

Ý

II.
Phần :
TỰ
LUẬN

1 Hãy viết một đoạn văn (khoảng200 chữ) trình bày suy nghĩ của
em về chủ đề: Sống dựa.
A/ Yêu cầu về kĩ năng:
- Nắm vững phương pháp viết đoạn văn nghị luận xã hội.
- Bố cục đoạn văn làm hợp lí, lập luận chặt chẽ, chữ viết
rõ ràng, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp và lỗi chính
tả.
- Thao tác lập luận rõ ràng mạch lạc, dùng liên kết câu ,…
B/ Yêu cầu về kiến thức:
Yêu cầu học sinh tìm ra được vấn đề cần nghị luận và triển
khai được những ý cụ thể như sau:
0,25
1 -Giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận:
Giải
thích
cách
hiểu
về
chủ
đề:
Sống

dựa

lối
sống
phụ
thuộc
vào
0,25
2

Câu 1

3
4

5
6

Nội dung

Điểm

người khác về cả thể xác và tinh thần, dễ bị người khác kiểm soát
nên không khẳng định đượcquyền con người, thiếu tự do, tự chủ,
thiếu tính tự lập, không tự tin vào khả năng bản thân.Vì không đủ
can đảm, sự quyết đoán để làm chủ được bản thân, không tự quyết
định và không tự giải quyết được mọi vấn đề trong cuộc sống, nên
phải dựa vào người khác.
- Thực trạng vấn đề: Dù tài giỏi, có trí tuệ nhưng không có ý thức tự 0,25
lập mà dựa vào người khác thì khó có cơ hội tự khẳng định mình.

(Dẫn chứng)
- Bàn luận: Khi sống dựa sẽ thiếu tự tin, bi quan, ỷ lại. Nên khi buộc 0,25
phải sống tự lập sẽ khó hòa nhập cuộc sống và dễ bị thất bại (Dẫn
chứng). Tuy nhiên, cần sự giúp đỡ, tinh thần tương thân tương ái,
đoàn kết, hợp lực sẽ khác với “sống dựa” (dẫn chứng)
- Bài học nhận thức:Trong cuộc sống chúng ta cần có sự quan tâm, 0,5
yêu thương và chia sẻ của người khác, nhưng không phụ thuộc vào
người khác.
- Định hướng hành động: Sống dựa là một lối sống sai lầm nên từ 0,5
bỏ, cần lên án lối sống dựa. Phải tạo cho mình môi trường sống lành
mạnh, tự do, tự chủ để khẳng định cái tôi cá nhân chân chính.

Giáo án thực nghiệm (Tự chọn tiết 12 - Ngữ văn 12 - chương trình chuẩn)
Ngày soạn : 25/8/2016
Tiết 12( PPCT)

14


NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
I. Mục tiêu bài học:
Giúp học sinh:
1. Về kiến thức: Nắm vững cách làm bài NLXH về một hiện tượng đời sống.
2. Về kĩ năng:
- Nhận diện hiện tượng về vấn đề đời sống.
- Rèn kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, viết đoạn văn cho học sinh lớp 12.
- Biết huy động kiến thức, vận dụng thành thạo các thao tác nghị luận để viết
bài văn hoàn chỉnh.
3. Về thái độ : Có ý thức trách nhiệm của người cầm bút để bàn luận, bày tỏ một
vấn đề

II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh :
1. Chuẩn bị của giáo viên:
• Phương án lên lớp :
- Phương án 1: dạy bài theo giáo án điện tử và sử dụng máy chiếu
→ kiểm tra máy tính, máy chiếu.
- Phương án 2: dạy bài theo phương pháp truyền thống (phấn trắng - bảng
đen)
→ chuẩn bị SGK, sách tham khảo, phiếu học tập, một số đề bài
nghị luận về một hiện tượng đời sống, thiết kế bài dạy, tài liệu tham khảo.
• Phương pháp và kĩ thuật dạy học:
Dạy học theo phương pháp H/S tích hợp kiến thức có hướng dẫn của GV.
• Kĩ thuật dạy học: câu hỏi gợi ý, dẫn dắt, thảo luận nhóm, khảo sát ngữ liệu.
• Hình thức tổ chức hoạt động: H/S đọc văn bản, tích hợp kiến thức.
2. Chuẩn bị của học sinh:
- Soạn bài theo hướng dẫn SGK.
- Hoàn thành bài tập được giao: Xác định đề, tìm ý, lập dàn ý cho bài văn nghị
luận xã hội.
III.Tổ chức hoạt động dạy - học:
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra: Việc chuẩn bị bài của học sinh.
3. Giới thiệu bài mới: Nghị luận về một vấn đề đời sống là một hình thức nghị
luận, một dạng thuộc nghị luận xã hội không có nội dung lí thuyết riêng nên đây
là một hình thức luyện tập kĩ năng nghị luận cho các em. Giúp các em vận dụng
tổng hợp các thao tác nghị luận vào một loại đề cụ thể.
Hoạt động của thầy và trò
Nội dung kiến thức cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn HS
I. Cách làm một bài nghị luận về một hiện
tìm hiểu cách làm một bài tượng đời sống
nghị luận về một hiện tượng

- Tìm hiểu đề.
đời sống.
- Lập dàn ý.
- Cách viết từng phần.
1. Học sinh đọc tư liệu tham 1. Tìm hiểu đề :
khảo (SGK) Chia bánh của
Ngữ liệu: SGK
mình cho ai (Tạ Minh
- Đề bài yêu cầu nghị luận về hiện tượng chia
Phương, báo điện tử
chiếc bánh thời gian của các bạn trẻ hôm nay.
nguoiduongthoi.com.vn).
- Luận điểm:
- Giáo viên đặt câu hỏi:
+ Việc làm của Nguyễn Hữu Ân .
+ Đề bài yêu cầu nghị luận → Dẫn chứng: Ân không chỉ chăm nuôi mẹ đẻ,
15


về hiện tượng gì?
+ Anh/chị dự định ý kiến của
mình gồm những luận điểm
nào?
+ Bài nên có những dẫn
chứng minh hoạ gì?
+ Cần vận dụng những thao
tác lập luận nào?
HS: làm việc cá nhân
Giáo viên yêu cầu học sinh
sử dụng các ý đã nêu để lập

dàn ý hợp lý theo 3 phần.
- Tất cả học sinh đều làm
theo phiếu học tập
- Giáo viên gọi một số học
sinh trình bày, cả lớp xây
dựng dàn ý.
- Giáo viên chốt lại ý chính.
- Mở bài cần đạt những vấn
đề gì?
- Thân bài cần đạt yêu cầu
nào( dựa theo sơ đồ)
Hiện tượng gì?
Người viết phân tích hiện
tượng ntn?
Bình luận, đánh giá vấn đề
theo quy trình nào?

Kết bài được tổng hợp như

vừa tự học mà còn chăm sóc người mẹ nuôi
sau khi mẹ đẻ đã mất .
+ Nguyễn Hữu Ân là một hiện tượng sống
đẹp của thanh niên ngày nay → dẫn chứng.
+ Trái với hiện tượng trên: lối sống tiêu cực
trong cuộc sống “lãng phí chiếc bánh thời gian
và những trò chơi vô bổ” của một số ít thanh
niên, học sinh → dẫn chứng.
- Thao tác lập luận: cần vận dụng tổng hợp
các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bình
luân, ....

2. Lập dàn ý
Có thể lập dàn ý như sau:
Mở bài: Nêu hiện tượng, trích dẫn nhận định
chung.
Thân bài:
- Nguyễn Hữu Ân đã dành hết thời giân của
mình cho những người bệnh ung thư giai đoạn
cuối.
- Phân tích hiện tượng. Hiện tượng Nguyễn
Hữu Ân có ý nghĩa giáo dục rất lớn đối với học
sinh, thanh niên ngày nay. Hiện tượng này
mang tính tích cực chứng tỏ thanh niên Việt
Nam đã và đang phát huy truyền thống “lá lành
đùm lá rách, thương người như thể thương
thân” của cha ông xưa. Hiện tượng Nguyễn
Hữu Ân tiêu biểu cho lối sống đẹp, tình thương
yêu con người của thanh niên ngày nay.
- Bình luận:
+ Đánh giá chung về hiện tượng: Chúng ta cần
thấy rằng: đa số thanh niên Việt Nam có ý thức
với việc làm của mình, có hành vi ứng xử đúng
đắn, có tấm lòng nhân hậu, bao dung. Tuy
nhiên cũng còn một bộ phận thanh niên có thái
độ, mục đích sống và hành động không hợp
đạo lí. Nhưng không vì thế mà ta đánh giá sai
toàn bộ thanh niên.
+ Tuy vậy một vài hiện tượng tiêu cực trong
lối sống “lãng phí chiếc bánh thời gian vào
những trò chơi vô bổ thì nhất thiết phải phê
phán, lên án.

+ Biểu dương việc làm của Nguyễn Hữu Ân:
mỗi thanh, thiếu niên Việt Nam cần phải sống
có lí tưởng, có mục tiêu, không để thời gian
trôi đi một cách vô ích hoặc không được sống
hoài, sống phí.
+ Kêu gọi, động viên bạn bè, những người
16


thế nào?

GV: Hãy rút ra những kết
luận chung về cách làm bài
văn nghị luận về một hiện
tượng đời sống? Khi làm bài
phải thực hiện những bước
nào?
HS: thảo luận và phát biểu.
GV: tổng hợp kiến thức .

Hoạt động 2 - luyện tập
GV cho H/S đọc, tìm yêu cầu
của bài tập
? Đề bài yêu cầu làm rõ vấn
đề gì?
? Bài viết có mấy luận điểm?
Bố cục của bài viết như thế
nào?
? Tác giả sử dụng những
thao tác nào?

? Ngôn ngữ bài viết có sức
thuyết phục do đâu?

xung quanh cùng hưởng ứng bằng những hành
động cụ thể để chiếc bánh thời gian có một ý
nghĩa trong cuộc đời của mỗi cá nhân và sự
phát triển của xã hội.
Kết bài: Bày tỏ suy nghĩ của cá nhân đối với
hiện tượng này. Những giải pháp để thực hiện
có hiệu quả.
3. Những kết luận: Cách làm bài văn nghị
luận về một hiện tượng đời sống.
- Khái niệm: Nghị luận về một hiện tượng đời
sống là trình bày, giảng giải, bàn luận về một
hiện tượng đã và đang diễn ra trong đời sống
xã hội, bằng những nhận thức, đánh giá, bàn
luận vừa mang tính chủ quan vừa mang tính
khách quan.
- Quy trình làm bài
+ Xác định đề, tìm ý, giới hạn cho bài viết.
+ Lập dàn ý: mở bài, thân bài (xác định luận
điểm) và kết bài.
→ Bài nghị luận cần nêu rõ nguồn gốc của
hiện tượng, lập luận, phân tích mặt đúng, mặt
tốt, tích cực, tìm ra cái sai, cái hại, chỉ ra
nguyên nhân, căn nguyên của hiện tượng. Bày
tỏ thái độ, ý kiến của người viết.
→ Ngoài việc vận dụng các thao tác lập luận,
phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận đúng,
người viết cần điễn đạt bằng ngôn ngữ trong

sáng, giản dị, dễ hiểu, tạo sức thuyết phục.
II - Luyện tập
Bài tập 1:
- Tác giả bài viết bàn về hiện tượng: sự lãng
phí thời gian của thanh niên An Nam. Hiện
tượng này diễn ra vào những năm đầu của thế
kỉ XX.
- Ở xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XXI, hiện
tượng này còn hay hết? Mức độ (học sinh tự
nêu ý kiến của mình.)
- Trong văn bản tác giả sử dụng thao tác lập
luận, phân tích, so sánh, bình luận…
Chẳng hạn: Thao tác lập luận so sánh
Tác giả so sánh thanh niên An nam với thanh
niên Trung Hoa.
- Cách dùng ngôn ngữ (từ) giản dị, không hoa
mĩ, câu văn chuẩn mực gần với những phán
đoán lô-gíc, trong một hệ thống lập luận, câu
trước liên kết với câu sau, trong một mạch suy
luận tạo sức thuyết phục.
17


Bài tập 2:
GV: hướng dẫn học sinh
Hoạt động nhóm:
Nhóm 1: Lập dàn ý cho mở
bài.
Nhóm 2: Lập dàn ý cho thân
bài.

Nhóm 3: Lập dàn ý cho kết
bài.
Đại diện của nhóm trình bày
kết quả thảo luận, nhóm khác
bổ sung.
- Giáo viên nhận xét, tổng
hợp, kết luận.

Bài tập 2
Lập dàn ý bài viết về hiện tượng nghiện
karaôkê và internet trong giới bạn trẻ hiện nay.
- Học sinh cần:
Mở bài: Nêu hiện tượng, trích dẫn đề, nhận
định chung.
Thân bài:
- Giảng giải, phân tích hiện tượng
- Nêu thực trạng của vấn đề
- Bình luận về vấn đề đó
- Bài học nhận thức.
- Định hướng giải pháp.
- Bài học kinh nghiệm.
*Đánh giá chung về hiện tượng.
Kết bài:
Bày tỏ suy nghĩ riêng của mình, kêu gọi mọi
người tránh xa tệ nạn xã hội
3. Tổng kết, hướng dẫn học tập
a. Tổng kết:Nắm vững, nhớ chính xác:
- Phân biệt được nghị luận xã hội và nghị luận văn học ở các phương diện: đặc
điểm, yêu cầu và các dạng đề quen thuộc.
- Biết cách nhận diện, phân tích một bài văn nghị luận theo đặc điểm và yêu

cầu
b. Hướng dẫn luyện tập :
- HS cần nắm được khái niệm, cách thức viết đoạn văn, làm bài văn nghị luận về
một vấn đề đời sống để ứng dụng vào việc làm bài văn các bài viết số 1,2,3 và
thi học kì, thi Trung học phổ thông Quốc gia.
- Tìm, tự chọn một số đề bài, lập dàn ý.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua việc áp dụng một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học
sinh. Tôi nhận thấy, học sinh đã có tiến bộ, đạt được kết quả cao hơn, học sinh làm bài
câu nghị luận xã hội (2,0 điểm) kết quả khả quan hơn, các em không “ngại” khi phải
làm câu nghị luận xã hội. Học trò làm phần đề này trong thời gian ngắn (15 đến 20 phút)
vẫn đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Sau đây là bảng thống kê điểm kiểm tra học kỳ 2 đối với câu nghị luận xã hội:
Tổng hợp kết quả bài kiểm tra học kỳ 2 và kỳ thi thử THPT Quốc gia (Câu
nghị luận xã hội) ở các lớp 12 tôi dạy qua các năm học: 2015 - 2016 và đặc
biệt vận dụng sáng kiến này trong năm học 2016 - 2017 như sau:
Năm học 2015 - 2016
Điểm
TS
Lớp
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
12A1 43
03 = 6,6% 20 = 44,5% 18 =39,8% 01= 2,2%
0 = 0%
12A2 41

06 = 12,2% 23 = 46,9% 18 = 36,8% 0 = 0%
0 = 0%
Năm học 2016 - 2017
Điểm
TS
Lớp
HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
12A2 46
03 = 9,6% 25 = 47,5% 18 =43,8% 0 = 0 % 0 = 0%
18


12A9 44
06 = 12,2% 20 = 46,9% 18 = 36,8% 0 = 0%
0 = 0%
Thi THPT Quốc gia năm học 2015 - 2016, môn Ngữ văn của trường các lớp
tôi thực nghiệm đạt 100% điểm bài thi từ trung bình trở lên. Trong đó đạt 39%
đạt điểm giỏi( 8,0 điểm trở lên)
Thi học sinh giỏi Cấp Tỉnh ba năm liên tục đều có học sinh đạt giải Nhất 2 em,
Giải Nhì 4 em, giải Ba 3 em và 5 giải khuyến khích trên tổng 15 em dự thi.
Bài học kinh nghiệm:
Từ thực tế giảng dạy tôi rút ra một số kinh nghiệm về rèn kĩ năng làm
văn nghị luận xã hộicho tôi và đồng nghiệp:
Một là: Giáo viên cần phải hiểu tâm lí, khả năng nhận thức, vốn hiểu biết,
vốn sống, kĩ năng của học sinh vận dụng phương pháp phù hợp với khả năng lập

luận bàn luận vấn đề của học sinh.
Hai là: Hướng dẫn học sinh tích lũy kiến thức xã hội trong các tác phẩm
văn học được học và đọc thêm và qua các môn học khác như GDCD, Lịch sử,
Sinh học, Địa lí.....qua các phương tiện thông tin đại chúng, đời sống xã hội…
Ba là: Giáo viên cần rèn cho học sinh thói quen: Phân tích đề, lập dàn ý trước
khi viết bài trong các giờ học tiết lý thuyết làm văn trên giờ học chính khóa. Trong
các bài kiểm tra 15 phút tôi yêu cầu các em lập dàn ý cho bà văn, đoạn văn để
chấm. Chủ yếu tạo thói quen lập dàn ý và hướng dẫn viết theo dàn ý cho các em.
Bốn là: Trong giờ dạy học Ngữ văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh
giải thích các từ ngữ, khái niệm và chú ý tích hợp kiến thức xã hội, giáo dục môi
trường, phát huy trí tưởng tượng phong phú của các em. Học trò cần phải biết
tìm ra thông điệp cuộc sống từ vấn đề nghị luận thì vấn đề đó mới trở nên có ý
nghĩa.
Năm là: Việc ra đề kiểm tra đánh giá cần được coi trọng, giáo viên nên ra
những đề “mở” để phát huy năng lực sáng tạo của học sinh, đồng thời khơi gợi
hứng thú cho học sinh tìm hiểu các tác phẩm văn học.

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Trên đây chỉ là “Một vài kinh nghiệm hướng dẫn cách học và làm tốt bài
văn nghị luận xã hội cho học sinh THPT- đặc biệt đối với học sinh lớp 12 ”,
giúp học sinh làm tốt phần bài thi trong kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia. Tuy
nhiên cũng phải thấy rằng để khơi gợi hứng thú đối với phần làm văn nghị luận xã
hội, ngoài hướng dẫn học lý thuyết gọn nhẹ, dễ hiểu, các kỹ năng, cùng bổ túc kiến
thức xã hội là rất cần thiết. Giáo viên cần tìm những đề tài hay đảm bảo tính vừa
sức, nhưng vẫn kích thích sự sáng tạo, tạo cơ hội cho học sinh được phát biểu
những suy nghĩ riêng, được nói bằng tiếng nói của riêng mình. Có thế thì việc học
văn, làm văn nghị luận xã hội trong nhà trường phổ thông mới có kết quả.
Tôi tin tưởng rằng với nhiệt tình, tâm huyết của giáo viên và sự cố gắng, khả
năng sáng tạo của học sinh thì chất lượng môn Ngữ văn sẽ ngày càng nâng lên.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi trong quá trình giảng dạy.

Tôi thiết nghĩ, đề tài này có thể áp dụng đối với việc rèn kĩ năng Nghị luận xã
hội cho học sinh trung học phổ thông chúng tôi nói riêng và tất cả các trường
Trung học phổ thông trong toàn ngành học nói chung.
Rất mong quý độc giả khi đọc bản sáng kiến này sẽ có đồng thuận, đồng nhất
quan điểm đổi mới với tôi. Tuy nhiên, vẫn có thể vận dụng linh hoạt từng phần
vào đối tượng học sinh của mình.
Kính xin sự góp ý chân thành của các đồng chí, đồng nghiệp.
19


Xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 17 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác!
Người viết
Hà Thị Tình

20



×