Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phương pháp tính điểm thi đua trong quản lí nề nếp học sinh góp phần nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.49 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
_____________________________________________

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG PHÁP TÍNH ĐIỂM THI ĐUA TRONG QUẢN LÝ NỀ NẾP
HỌC SINH GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Lê Thị Kim Anh
Chức vụ:

Giáo viên

SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2017


MỤC LỤC
TT
I

Mục

Trang

MỞ ĐẦU


1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

NỘI DUNG

3


2.1

Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp tính điểm
thi đua

3

2.2

Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp tính điểm
thi đua

4

2.3

Các biện pháp thực hiện

5

2.3.1

Thông qua nội quy và nguyên tắc tính điểm thi đua

5

2.3.2

Cách thực hiện việc tính điểm


8

2.3.3

Các hình thức khen thưởng và kỉ luật của lớp

13

2.4

Hiệu quả của phương pháp tính điểm thi đua

14

III

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

16

3.1

Kết luận

16

3.2

Kiến nghị


16

II


I. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài
Cùng với việc giảng dạy chuyên môn, một số giáo viên còn đảm nhiệm
thêm công tác chủ nhiệm lớp. Chủ nhiệm lớp nghĩa là người đứng đầu và chịu
trách nhiệm chính trong tất cả các hoạt động của lớp học: từ việc học tập đến rèn
luyện đạo đức, thể chất, kĩ năng sống, kĩ năng sinh hoạt tập thể....Khác với chức
vụ chủ nhiệm trong các tổ chức xã hội khác, giáo viên chủ nhiệm ngoài vai trò
quản lí còn phải giáo dục đạo đức nhân cách cho học sinh. Quá trình hình thành
và hoàn thiện nhân cách cho học sinh phụ thuộc rất nhiều vào người giáo viên
chủ nhiệm. Vì vậy làm chủ nhiệm không dễ, mà để làm tốt công tác chủ nhiệm
lại là một vấn đề vô cùng khó khăn.
Chủ nhiệm lớp là một nghệ thuật, giáo viên chủ nhiệm là một người nghệ
sỹ. Mà nghệ thuật thì luôn đòi hỏi sự sáng tạo. Trong trường Đại học Sư phạm
không có môn học nào dạy làm chủ nhiệm; cũng không có một quy định cụ thể
về việc chủ nhiệm thì phải làm những nhiệm vụ gì. Bởi vậy mỗi người giáo viên
chủ nhiệm đòi hỏi phải có một cách thức, một phương pháp quản lí lớp học
riêng tùy vào đối tượng học sinh mình quản lí.
Chủ nhiệm một lớp học THPT đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức; nhất
là những lớp học sinh học kém, lại chưa ngoan thì việc chủ nhiệm là một công
việc hết sức nặng nề. Người giáo viên có tâm huyết, có nhiệt tình nhưng nếu
thiếu phương pháp thì cũng không thể làm tốt công tác này được. Làm thế nào
để học sinh ngoan ngoãn, học giỏi; biết nghiêm túc chấp hành nội quy trường
lớp nhưng lại không quá sợ hãi thầy cô, trường lớp,xa lánh thầy cô là một điều
mà nhiều giáo viên chủ nhiệm luôn luôn trăn trở. Ngay việc đánh giá học sinh

thế nào cho đúng để có được sự công bằng cũng là một việc không dễ vì hạnh
kiểm học sinh không có điểm như môn học mà chỉ đánh giá bằng tiêu chí, bằng
xếp loại. Đánh giá quá rộng học sinh dễ chủ quan mà không tôn trọng nội quy;
đánh giá quá chặt học sinh dễ nản, sinh oán ghét thầy cô chủ nhiệm, thậm chí có
những phản ứng tiêu cực….
Từ nhận thức vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài: Phương pháp tính điểm
thi đua trong quản lí nề nếp học sinh góp phần nâng cao hiệu quả công tác
chủ nhiệm ở trường THPT. Phương pháp tính điểm thi đua này giúp học sinh
tự đánh giá được bản thân từ đó nỗ lực cố gắng; người giáo viên khi đánh giá
cũng dễ dàng hơn và điều quan trọng là học sinh thấy mình được đánh giá một
cách công bằng.


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm góp phần giúp giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác quản lí lớp
của mình
- Ghi lại những việc đã làm thành công để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 10A1, 11B1, 12C1 khóa học 2014-2017
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin: dùng để thu thập thông tin của từng học sinh
- Phương pháp giao nhiệm vụ: dùng để giao nhiệm vụ cho từng học sinh,
đặc biệt là cán bộ lớp
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu


II. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp tính điểm thi đua
Điều 27 Luật giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005 của Quốc hội

nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”[2]Như vậy, để
thực hiện được mục tiêu đó cần có sự tham gia của Nhà trường, Gia đình và toàn
xã hội. Về phía Nhà trường, người giáo viên không chỉ có nhiệm vụ giảng dạy
nâng cao kiến thức cho học sinh mà còn giáo dục đạo đức, nhân cách, thể
chất,các kĩ năng…cho người học. Điều này đặt lên vai người thầy, nhất là những
người vừa giảng dạy bộ môn vừa làm công tác chủ nhiệm lớp trách nhiệm khá
nặng nề nhưng cũng rất đỗi tự hào.
Công tác chủ nhiệm lớp là công tác tổ chức quản lí một lớp học sao cho
khi thầy cô có hoặc không có ở lớp thì mọi hoạt động vẫn được duy trì ổn định,
có tính tự giác cao và mọi việc vẫn hoàn thành tốt. Sự phát triển về nhận thức,
nhân cách của học sinh chỉ thực sự hiệu quả khi đó là một tập thể lớp vững
mạnh và lớp học phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi trò. Trong lớp học cần phải tạo
ra một bầu không khí sư phạm ấm cúng, những yêu cầu về việc thực hiện nội
quy lớp học cần phối hợp và duy trì đều đặn, giáo viên chủ nhiệm luôn khuyến
khích, động viên những học sinh của mình phát huy hết khả năng, năng lực học
tập, năng lực công tác và khả năng làm các công việc khác, cần phát hiện sớm
để hạn chế những biểu hiện chưa tích cực của học sinh, luôn tạo không khí vui
vẻ, yêu thương, đoàn kết giữa học sinh trong lớp. Tất cả các em học sinh đều
mong muốn có một giáo viên chủ nhiệm mẫu mực, đó là một đòi hỏi hết sức
chính đáng để mỗi người giáo viên chủ nhiệm luôn phấn đấu.
Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân
cách của học sinh trong lớp phát triển một cách toàn diện. Bởi lẽ họ là người
trực tiếp đảm đương vai trò quản lí học sinh trong một lớp, trực tiếp tổ chức cho
học sinh thực thi mọi yêu cầu giáo dục của nhà trường đưa ra. Giáo viên chủ
nhiệm là người gần gũi học sinh nhất, hiểu tâm tư tình cảm của các em, luôn

trực tiếp uốn nắn những hành vi sai trái của học sinh và giúp học sinh phát triển
đúng hướng.
- Ở mục 2.1: Đoạn: “ Điều 27 Luật Giáo dục… và bảo vệ Tổ quốc”, tác giả trích nguyên văn
từ TLTK số 2. Phần tiếp theo do tác giả tự viết


Giáo viên chủ nhiệm là người có năng lực quản lí toàn diện học sinh của
lớp, quản lí và giáo dục học sinh là hai thể thống nhất có liên kết trực tiếp với
nhau. Muốn giáo dục tốt phải quản lí tốt, quản lí tốt sẽ giúp giáo dục tốt.
Giáo viên chủ nhiệm phải đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh và tập
thể lớp. Chức năng này có ý nghĩa cực kì quan trọng với quá trình học tập, rèn
luyện và phát triển nhân cách của học sinh. Sự đánh giá khách quan, chính xác,
đúng mực là một trong những điều kiện quan trọng để thầy và trò tiếp tục điều
chỉnh mục đích kế hoạch hoạt động cho cả lớp và mỗi thành viên.
Cho điểm chính là cách số hóa những thành tích cũng như những lỗi vi
phạm của học sinh; điểm giúp cho việc đánh giá được chính xác, công bằng.
Điểm giúp người được đánh giá biết mức độ phấn đấu cũng như những lỗi phạm
phải để ngay lập tức điều chỉnh. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp đánh giá
cho điểm là phương pháp này có kết cấu rõ ràng, việc tiêu chuẩn hóa cho phép
kết quả xếp hạng dễ dàng được so sánh và đối chiếu. [5]
Việc cho điểm, tính điểm được thực hiện một cách công khai, bản thân
học sinh cũng tự tính được. Điều này vừa giảm bớt gánh nặng cho giáo viên
trong việc đánh giá vừa tạo cho học sinh tính tự lập, biết tự nhìn nhận, đánh giá
bản thân mình, không ỷ lại, trông chờ vào người khác. Học sinh được cạnh tranh
một cách lành mạnh, từ đó thúc đẩy sự tiến bộ nhanh hơn.
2.2. Thực trạng việc quản lí lớp chủ nhiệm trước khi sử dụng phương
pháp tính điểm thi đua
Được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp là một vinh dự, cũng là một trách
nhiệm khá nặng nề đối với người giáo viên khi mới ra trường. Bắt đầu nhận lớp
chủ nhiệm từ năm 2003, tôi đã thực sự lúng túng bởi chưa hề được học điều này

ở trường đại học. Hỏi đồng nghiệp thì mỗi người có một cách khác nhau tùy
thuộc vào đối tượng học sinh ở từng khóa. Không có một tiêu chí nào cụ thể cho
việc đánh giá học sinh bởi đạo đức là cái trừu tượng, rất khó đo đạc, đánh giá
một cách rõ ràng, chính xác [3]. Phần nhiều giáo viên dựa vào cảm tính để xét
hạnh kiểm: học sinh này mắc nhiều lỗi trong tuần, trong học kì: hạnh kiểm trung
bình, yếu; học sinh này mắc ít lỗi hơn : hạnh kiểm khá, tốt. Sự nhiều lỗi và ít lỗi
cũng chỉ tương đối. Ngoài ra những sự nỗ lực phấn đấu của học sinh ít được
nhìn nhận, thậm chí bị phủi sạch khi chính học sinh đó lại mắc một vài lỗi nào
đó…
- Ở mục 2.1. Câu: “Ưu điểm lớn nhất… đối chiếu” do tác giả trích nguyên văn TLTK số 5
- Ở mục 2.2.: Câu: “Không có một… chính xác” do tác giả trích nguyên văn TLTK số 3


Năm đầu tiên chủ nhiệm, lớp tôi thường bị xếp loại B,C trong tháng; trong
tuần có cả giờ học Trung bình, Yếu; cuối năm có 3 học sinh phải ở lại lớp, 10
học sinh hạnh kiểm trung bình. Thực trạng đáng buồn đó khiến tôi trăn trở tìm ra
giải pháp mới cho công tác chủ nhiệm ở lớp. Tôi nhận ra rằng: để đánh giá một
con người không thể cảm tính, chung chung mà cần đề ra những tiêu chí cụ thể,
và điểm cho mỗi tiêu chí là cách tốt nhất để có được một nhận định khách quan.
Nếu đánh giá đúng khách quan, khoa học thì sẽ phản ánh được kết quả giáo dục
đạo đức học sinh, là động lực giúp học sinh vươn lên rèn luyện, hoàn thiện nhân
cách. Ngược lại, nếu đánh giá không đúng thì hậu quả rất xấu, mà hậu quả lớn
nhất là làm hỏng nhân cách của học sinh. [3]
Cho điểm như vậy có thể bao quát được cả những mặt ưu cũng như nhược
điểm của học sinh để học sinh khắc phục và phấn đấu. Qua hơn 10 năm làm
công tác chủ nhiệm, tôi đã sử dụng và hoàn thiện dần phương pháp tính điểm thi
đua. Thực tế cho thấy, phương pháp này đã phát huy tác dụng khá tốt trong việc
quản lí lớp chủ nhiệm của người giáo viên.
2.3. Các biện pháp thực hiện
2.3.1. Thông qua nội quy và nguyên tắc tính điểm thi đua

Ngay từ đầu năm học, GVCN tổ chức sinh hoạt, đề xuất nội quy của lớp trên
cơ sở điều lệ trường phổ thông và quy định của nhà trường. Dựa trên bản soạn thảo
mang tính chất gợi ý của GVCN, học sinh chủ động đưa ra ý kiến để đi đến thống
nhất. Bản nội quy này sau khi được sự nhất trí của học sinh và GVCN sẽ được
thông qua Cha mẹ học sinh trong Hội nghị Cha mẹ học sinh lần thứ nhất của năm
học. Nếu được sự đồng ý của Cha mẹ học sinh, bản nội quy mới được đưa vào sử
dụng chính thức. Mỗi thành viên trong lớp kí tên cam kết thực hiện và giữ bản nội
quy đó trong suốt năm học. Nếu trong quá trình thực hiện có những bất cập, học
sinh có thể đề xuất cùng GVCN để sửa đổi cho phù hợp.
Nguyên tắc tính điểm thi đua cũng được GVCN xây dựng và thông qua
học sinh trong bản nội quy này. Điều quan trong là học sinh phải thật sự cảm
thấy thoải mái, hợp lí. Học sinh có thể đề xuất tăng hoặc giảm mức điểm cộng
hoặc trừ trong từng trường hợp cụ thể.
Qua các khóa học tôi làm công tác chủ nhiệm, học sinh đều thống nhất
với cách cho điểm như sau:
- Ở mục 2.2.: Đoạn: “Nếu đánh giá đúng… của học sinh” do tác giả trích nguyên văn TLTK
số 3


Cho điểm và quy ước
Đầu tiên giáo viên cho mỗi học sinh 10 điểm/tháng. Quy định như sau:
- Hạnh kiểm tốt: 10 điểm
- Hạnh kiểm khá: 8- 9 điểm
- Hạnh kiểm trung bình: 5- 7 điểm
- Hạnh kiểm yếu: <5 điểm
* Được cộng điểm thi đua khi:
- Có điểm kiểm tra bài cũ cao (GV ghi trong số đầu bài):
+ Điểm từ 7-8: cộng 1 điểm
+ Điểm từ 9-10: cộng 2 điểm
- Tham gia các hoạt động của Nhà trường, Đoàn trường tổ chức một cách

tích cực, tự giác: Cộng 2 điểm
- Tham gia các cuộc thi văn hóa, văn nghệ, thể thao:
+ Đạt giải nhất: cộng 5 điểm
+ Đạt giải nhì: cộng 4 điểm
+ Đạt giải ba + khuyến khích: cộng 3 điểm
+ Không có giải: cộng 2 điểm
- Cán bộ lớp chịu trách nhiệm theo dõi, quản lí, nhắc nhở Đoàn viên,
thanh niên trong lớp: cộng 2 điểm/ tháng
(Học sinh có điểm hạnh kiểm cao được GVCN tuyên dương vào cuối
tháng, được nhận thưởng từng tháng, thông báo khen thưởng gửi về gia đình
qua hệ thống Vn.edu)
* Bị trừ điểm thi đua khi:
- Bị điểm thấp khi kiểm tra bài cũ:
+ Điểm từ 0-2: trừ 2 điểm
+ Điểm từ 3- 4: trừ 1 điểm
- Nghỉ học vô lí do, bỏ học, đi học chậm: trừ 5 điểm/ lần
- Không tham gia các buổi tập trung ( chào cờ, mit tinh, sinh hoạt tập thể
bắt buộc): trừ 5 điểm/ lượt


- Bị ghi sổ đầu bài: trừ 5 điểm/ lần(nếu tái phạm GVCN mời phụ huynh đến
trường dự buổi sinh hoạt cuối tuần với lớp)
- Vi phạm các quy định khác của lớp như: ăn quà, vứt rác bừa bãi, thiếu sách,
vở, đồ dùng học tập, nói chuyện….: trừ 2 điểm/ lần
- Vi phạm quy định 7 (đánh nhau, vô lễ với GV) hạ xuống HK yếu trong tháng.
(Học sinh bị trừ điểm thi đua có thể tự nâng mức điểm của mình bằng cách cố
gắng phấn đấu để được cộng điểm)
* Hạnh kiểm học kì là hạnh kiểm bình quân của các tháng, có xem xét khi
có sự tiến bộ ở các tháng sau.
BẢNG NỘI QUY CỦA LỚP 10A1 NĂM HỌC 2014-2015 [4]

(Áp dụng cho cả khóa học 2014-2017)
1. Đi học đúng giờ, khẩn trương vào lớp khi có hiệu lệnh trống.
2. Nghỉ học có giấy phép, có ý kiến và chữ kí của phụ huynh hoặc phụ
huynh trực tiếp gọi điện cho GVCN (buổi sáng trước 06h45; chiều trước 13h45).
Nếu gia đình không có điện thoại, nhà quá xa trường, vì lí do đặc biệt phải nghỉ
có thể gửi giấy phép sau (có xác nhận và chữ kí của bố mẹ).
3. Không bỏ tiết (trường hợp đặc biệt muốn xin về phải có đơn xin nghỉ
tiết và được giáo viên bộ môn đồng ý).
4. Học và làm bài đầy đủ trước khi đến lớp (CB lớp kiểm tra định kì sách
vở, đồ dùng).
5. Trang phục đúng quy định của nhà trường; không nhuộm tóc; sơn móng
tay, móng chân, đánh phấn son; đeo nhiều đồ trang sức khi đến lớp.
6. Không làm mất trật tự trong giờ học; không làm việc riêng (đọc truyện;
học môn khác, sử dụng điện thoại di động, nghe nhạc, ăn quà vặt..); không được
tự tiện đổi chỗ ngồi.
7. Không được có những hành vi, thái độ, cử chỉ vô lễ với các thầy cô
giáo và cán bộ nhân viên trong nhà trường. Không gây sự đánh nhau trong và
ngoài nhà trường.
8. Không quay cóp, nhìn bài trong giờ kiểm tra.
- Ở mục 2.2.: Bảng nội quy lớp 10 A1 năm học 2014-2015 do tác giả tham khảo từ TLTK số 4


9. Trực nhật đúng giờ, sạch sẽ; giặt giẻ lau bảng ít nhất 2 lần trong một
buổi học.
10. Giờ ra chơi không chạy nhảy lên bàn ghế; không ngồi lên mặt bàn;
không đánh bài hoặc các trò chơi ăn tiền; có ý thức bảo vệ, giữ gìn vệ sinh
phòng học.
2.3.2. Cách thực hiện việc tính điểm
a) Công việc của tổ trưởng
* Mẫu sổ theo dõi của tổ trưởng

* Mỗi thành viên trong tổ được ghi 2 trang giấy; ghi số thứ tự cá nhân
theo sổ điểm
* Kẻ bảng ghi theo thứ tự ngày tháng; chốt điểm từng tháng cho thành
viên tổ
HỌC KÌ I
Ngày P

K

Vi phạm / Tham gia các hoạt động Điểm Điểm
của trường, lớp
tốt
xấu

Tổng hợp.
Ghi sổ đầu bài:.............
Bỏ học:.............
Số ngày nghỉ:
*Chính khóa:..........
*Ôn tập............

Điểm
thi
đua


HẠNH KIỂM KÌ I
Tháng8

Tháng 9


Tháng
10

Tháng
11

Tháng
12

HK Kì I ĐTB

Danh
hiệu

4 tổ trưởng ghi chép cụ thể và chủ động tính điểm cho từng thành viên
trong tổ; cuối tháng tổ trưởng công khai điểm và hạnh kiểm như đã quy ước cho
các thành viên được biết. Những học sinh đạt điểm từ 10 trử lên được hạnh kiểm
tốt và có phần thưởng do Cha mẹ học sinh trao. Những học sinh có điểm hạnh
kiểm trung bình, yếu bị phê bình trước lớp.
b) Từng thành viên tự lập bảng theo dõi cho mình
Học sinh có thể tự sáng tạo một mẫu ghi chép theo dõi riêng cho bản thân
đảm bảo có ngày tháng; những việc làm tốt, những con điểm tốt được cộng theo
quy định cũng như những lỗi mắc phải bị trừ điểm. Cuối tháng, học sinh căn cứ
theo bảng nội quy của lớp để tự tính điểm cho mình(có so sánh đối chiếu với sổ
theo dõi của cán bộ lớp)
Bằng cách tự ghi chép học sinh vừa tự nhìn nhận, đánh giá bản thân vừa
có biện pháp khắc phục kịp thời. Nhiều học sinh biết mình mắc lỗi đã rất nhanh
chóng phấn đấu để có điểm cộng bù vào điểm đã bị trừ trước đó. Từng thành
viên cũng có thể so sánh kết quả với cán bộ lớp để tránh sai sót, tạo sự công

bằng trong đánh giá thi đua.
c) Bảng theo dõi hạnh kiểm công khai từng tổ
Để việc theo dõi hạnh kiểm được công bằng, GVCN cho học sinh được
ghi chép công khai những thành tích được biểu dương, cộng điểm cũng như
những lỗi mắc phải lên một bảng theo dõi của tổ theo tuần. Bảng này ghi tên tất
cả các thành viên trong tổ, gần giống như sổ theo dõi của tổ trưởng nhưng gọn
hơn. Bảng được dán ở vị trí của tổ để tiện theo dõi. Mỗi thành viên có một ô để
tự ghi cho mình. Cuối tuần, tổ trưởng dán bảng tuần kế tiếp. Cuối tháng, tổ
trưởng cùng lớp trưởng, lớp phó đối chiếu, so sánh với sổ ghi chép để chốt điểm
hạnh kiểm cho từng thành viên trong tổ.
Ưu điểm của việc sử dụng bảng là ở chỗ: học sinh tự xem xét sự tiến bộ
cũng như khuyết điểm của mình trong từng tuần trong tương quan so sánh với
các thành viên khác trong tổ. Học sinh sẽ tự hào khi có thành tích được ghi công
khai ở ô theo dõi tên mình cũng như sẽ cảm thấy xấu hổ khi mắc lỗi.Từ đó sẽ
kích thích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các học sinh để tất cả cùng tiến bộ.


Tuy nhiên, một số học sinh mắc nhiều khuyết điểm xấu hổ, ngại ghi vào
bảng theo dõi nên bảng chỉ thực hiện được khi tất cả các thành viên trong tổ phải
có tinh thần tự giác. GVCN cần giáo dục cho học sinh tinh thần dũng cảm nhận
lỗi để sửa chữa; rằng việc mắc lỗi là bình thường, chỉ khi giấu diếm khuyết
điểm, không có can đảm nhận lỗi, trốn tránh đối mặt với thực tế mới thật sự là
đáng trách.
* BẢNG THEO DÕI HẠNH KIỂM TỔ 1 LỚP 11B1 NĂM HỌC 2015-2016
TUẦN 1- THÁNG 9
STT Họ và tên

Ưu điểm/Khuyết điểm

Điểm


1

Nguyễn Ngọc Anh

Địa: 8(+1); Công dân: 9(+2); Văn: +4 điểm
8(+1)

2

Nguyễn Thanh Bình

Hóa: 8(+1); Anh: 10(+2); Công +3 điểm;
nghệ: 4(-1)
-1 điểm

3

Lê Ngọc Hà

- Tham gia tập văn nghệ chuẩn bị + 4 điểm
ngoại khóa cho lớp(+2)
- Quốc phòng: 9(+2)
- Ghi sổ đầu bài giờ Anh(-5)
-5 điểm

4

Nguyễn Minh Hằng


-

Không mang sách GK Toán(-2)
+ 4 điểm
Văn: 10(+2)
Địa: 0(-1)
Tham gia dẫn chương trình ngoại -3 điểm
khóa(+2)

5

(…..)
d) GVCN lập sổ theo dõi cho từng thành viên lớp
Để quản lí lớp đến từng học sinh trong từng ngày, tháng, GVCN cũng cần
lập sổ theo dõi học sinh dựa trên sổ của tổ trường; sổ đầu bài; sự phản ánh của
giáo viên bộ môn
Mẫu sổ theo dõi học sinh của GVCN:


HỌ VÀ TÊN:......................................Số điện thoại DĐ:......................Số TT:....
Ngày sinh:
ĐH:.........

....................................

Nơi

sinh:............................Khối

thi


Họ và tên bố: ………………Nghề nghiệp:.....................SĐT:………………..
Họ và tên mẹ: ………………Nghề nghiệp:....................SĐT:…………………
Địa chỉ:....................................................................................................................
HỌC KÌ I
Ngày P

K

Vi phạm / Tham gia các hoạt động Điểm Điểm Điểm
của trường, lớp
tốt
xấu
Thi
đua

Tổng hợp.
Ghi sổ đầu bài:.............
Bỏ học:.............
Số ngày nghỉ:
*Chính khóa...........
*Ôn tập............

HẠNH KIỂM KÌ I
Tháng8 Tháng 9

Tháng
10

Tháng

11

Tháng
12

HK Kì
I

ĐTB

Danh
hiệu


HỌC KÌ II
Ngày P

K

Vi Phạm / Tham gia các hoạt động Điểm Điểm
của trường, lớp
tốt
xấu

Điểm
thi
đua

Tổng hợp.
Ghi sổ đầu bài:.............

Bỏ học:.............
Số ngày nghỉ:
*Chính khóa...........
*Ôn tập............

HẠNH KIỂM KÌ II
Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5

HK Kì
II

ĐTB

Cả năm

Việc ghi chép vào sổ theo dõi của GVCN là rất cần thiết. Đây là hồ sơ
chính thức để chốt điểm thi đua cho từng học sinh trong từng tháng, từng học kì.
Mặc dù học sinh đã tự đánh giá được hạnh kiểm của mình qua tự theo dõi, qua
sổ của cán bộ lớp nhưng còn kênh thông tin của GV bộ môn, của Giám thị, Ban
nề nếp thì ngươi GVCN cần cập nhật để có được kết quả hạnh kiểm cuối cùng.


Cẩn thận, tỉ mỉ, công tâm là những phẩm chất mà người làm công tác chủ nhiệm
cần có khi tiến hành lập bảng theo dõi. Căn cứ vào bảng này, từng tuần, từng
tháng GVCN có thể nhận xét về sự tiến bộ cũng như chậm tiến của từng thành
viên trong lớp từ đó có biện pháp kỉ, luật cũng như biểu dương kịp thời.
Ngoài ra, sổ theo dõi còn có một ý nghĩa tinh thần to lớn. Mỗi một năm
học, mỗi học sinh có 2 trang sổ để GV ghi chép theo ngày, tháng. 3 năm học cấp
3, học sinh có 6 trang sổ với những con điểm, những thành tích cũng như những
lỗi vi phạm học trò. Nhiểu học sinh ra trường đã lâu khi về thăm cô giáo vẫn

muốn được giở lại trang sổ có tên mình, tên các bạn, nhiều em bật khóc vì nhớ
những ngày tháng cũ…
2.3.3. Các hình thức khen thưởng và kỉ luật của lớp
Việc tính điểm thi đua chỉ thực sự đạt hiệu quả cao khi có sự kết hợp với
các hình thức khen thưởng và kỉ luật. Những hình thức này ngay từ đầu năm
GVCN tùy vào tinh hình thực tế của lớp mình bàn với học sinh, cha mẹ học sinh
để đi đến thống nhất. Sao cho khen thưởng phải đúng để kịp thời khích lệ, kỉ luật
phải cứng rắn, nghiêm khắc nhưng không hà khắc để học sinh có quyết tâm cố
gắng. Tuyệt đối không mạt sát, xúc phạm lòng tự trọng để đẩy học sinh đến
những hành động tiêu cực.
a. Các hình thức khen thưởng
- Khen trước lớp [1]
- Gửi thông báo về sự tiến bộ của học sinh qua tin nhắn VN.edu theo từng
tuần, từng tháng về cho phụ huynh.
- Tặng thưởng cho học sinh vào cuối kì, cuối năm với những mục thưởng
như: học sinh giỏi, học sinh tiên tiến, điểm hạnh kiểm cao nhất kì; điểm kiểm tra
miệng nhiếu nhất kì, đi học chuyên cần, cán bộ lớp….
- Từng tháng có phần thưởng nhỏ cho những học sinh đạt hạnh kiểm tốt
và 5 học sinh có điểm hạnh kiểm cao nhất tháng.
- Ở mục a.: Câu: “Khen trước lớp” do tác giả trích nguyên văn từ TLTK số 1

Công việc tặng thưởng GVCN phối kết hợp với cha mẹ học sinh, cán bộ
lớp làm một cách hết sức tỉ mỉ, công tâm. Muốn vậy việc thống kê trong sổ theo


dõi cần làm một cách chính xác sao cho học sinh nhận thưởng với các mức khác
nhau cảm thấy thoải mái nhất. Học sinh được thưởng nhiều cảm thấy tự hào vì
mình xứng đáng; học sinh được thưởng ít cảm thấy mình phải cố gắng để kì sau,
năm sau được bằng bạn, hơn bạn.
Thực tế cho thấy, buổi trao thưởng của lớp rất vui, học sinh nào cũng có

quà dù nhiều, dù ít. Quà là vở và tiền cho các mục thưởng khác nhau. Học sinh
so với nhau xem ai hơn ai mấy quyển vở rồi đùa năm sau sẽ được nhiều vở hơn
bạn. Có học sinh được thưởng nhiều vở sẵn sàng tặng lại vở cho bạn được ít
hơn. Có tổ đóng góp tiền thưởng để hình thành quỹ tổ….
b. Các hình thức kỉ luật
- Viết bản tự kiểm có chữa kí của Bố hoặc mẹ
- Phạt trực nhật, tưới cây
- Phạt lấy ghế, xếp ghế trong các buổi chào cờ, mít tinh, ngoại khóa…
- Chép phạt nội quy
- Chép bài học chưa thuộc
- Nghỉ học một ngày có sự đồng ý, quản lí của gia đình
2.4. Hiệu quả của phương pháp tính điểm thi đua
Qua quá trình áp dụng cách tính điểm thi đua trong quản lí lớp chủ nhiệm,
tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt trước và sau khi áp dụng phương pháp này.
Trong 3 khóa tôi đã làm chủ nhiệm, lớp đều đạt lớp Tiên tiến 3 năm liền; khóa
2014-2017 đã có 6 kì lớp đạt Tiên tiến, hàng tháng đều được xếp loại A, nhiều
tháng được xếp giải thi đua của nhà trường và Đoàn trường.
Với phương pháp này, người giáo viên chủ nhiệm không mất quá nhiều
thời gian trong việc xử lí học sinh do bản thân các em đã tự ý thức được việc
làm của mình; học sinh chủ động hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn đối với mỗi
việc mình làm. Đặc biệt sự khách quan trong đánh giá khiến học sinh cảm thấy
thoải mái và tin tưởng ở giáo viên chủ nhiệm. Điều này rất quan trọng trong quá
trình hình thành nhân cách ở học sinh.
BẢNG THỐNG KÊ HẠNH KIỂM HỌC SINH LỚP 10A1, 11B1, 12C1
KHÓA HỌC 2014-2017


Lớp/năm học

Sĩ số


HK Tốt

HK Khá

HK T
bình

HK Yếu

10A1
(2014-2015)

50

26
52%

18
36%

05
10%

01
2%

11B1
(2015-2016)


49

35
71,43%

12
24,49%

2
4,08%

0

12C1(20162017)

49

46
93,88%

03
6,12%

0

0

BẢNG THỐNG KÊ HỌC LỰC HỌC SINH LỚP 10A1, 11B1, 12C1
KHÓA HỌC 2014-2017


Lớp/năm học

Sĩ số

Giỏi

Khá

Trung
bình

Yếu

Kém

10A1
(2014-2015)

50

0

27
54%

22
44%

01
2%


0

11B1
(2015-2016)

49

0

35
71,43%

14
28,57%

0

0

12C1
(2016-2017)

49

06
10,2%

43
89,8%


0

0

0

Nhận xét:
Bảng số liệu trên cho thấy: về hạnh kiểm cũng như học lực của học sinh
qua các năm học đã có sự tiến bộ rõ rệt. Số học sinh đạt hạnh kiểm khá, tốt tỉ lệ
thuận với số học sinh có học lực giỏi, khá. Cùng với sự trưởng thành về nhận
thức, học sinh đã có kết quả học tập tốt hơn qua các năm học.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
Trong suốt quá trình giảng dạy cũng như trong nhiều năm làm công tác
chủ nhiệm, bản thân tôi đã từng gặp phải những khó khăn rất lớn khi làm chủ
nhiệm lớp. Những khó khăn ấy cũng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan về năng
lực, nhận thức của tôi; cũng có những nguyên nhân từ phía gia đình học sinh hay


các đối tượng học sinh. Tuy nhiên, đó chỉ là những khó khăn khi những năm đầu
mới được phân công làm công tác chủ nhiệm. Nhưng, sau một thời gian làm chủ
nhiệm lớp, bản thân tôi tự nhận ra rằng chính mình sẽ làm thay đổi cách thức
chủ nhiệm của mình, để có thể làm tốt được công tác chủ nhiệm.
Chính vì lí do đó, bản thân tôi đã từng trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những
giải pháp có thể áp dụng được cho công tác chủ nhiệm đối với bất kì môi trường
nào, đối tượng học sinh nào. Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi, bản
thân đã tìm ra được một số giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, đã áp dụng

những kinh nghiệm đó vào công tác chủ nhiệm của mình và đã đạt được một số
thành công. Những thành công ấy không chỉ cho chính bản thân mình mà còn
cho cả chính tập thể lớp mình chủ nhiệm.
Điều quan trọng hơn nữa là, trong quá trình chủ nhiệm, để làm tốt công
tác chủ nhiệm của mình, tôi đã không nôn nóng, vội vàng mà luôn điềm tĩnh,
vạch định kế hoạch rõ ràng về thời gian, về nội dung công việc và hình thức
thực hiện công việc. Đồng thời luôn tranh thủ được sự giúp đỡ của những nguồn
lực khác trong nhà trường, từ phía gia đình học sinh và từ chính sự tích cực của
các đối tượng học sinh.
3.2. Kiến nghi
Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, luôn đòi hỏi nhiều yếu tố quan trọng.
Nhưng trong đó, quan trọng nhất là phương pháp và là tâm huyết của giáo viên chủ
nhiệm, chứ bản thân tôi không đòi hỏi hay kiến nghị các cấp Lãnh đạo, Ban giám
hiệu nhà trường cũng như các tổ chức, cá nhân hay gia đình học sinh phải làm như
thế này, như thế khác. Mà điều tôi luôn mong muốn đó là sẽ luôn nhận được giúp
đỡ, phối hợp để công tác chủ nhiệm của mình sẽ luôn đạt kết quả cao hơn.
Chính vì vậy, là một giáo viên chủ nhiệm, tôi thiết nghĩ điều cần thiết
nhất đối mỗi giáo viên khi làm công tác chủ nhiệm là: Người giáo viên phải thật
sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng từ nhận thức đến hành động, từ lời nói, cử
chỉ, điệu bộ đến thái độ ứng xử hàng ngày…để học sinh noi theo. Giáo viên chủ
nhiệm cần có lí tưởng nghề nghiệp đúng đắn, phải thật sự am hiểu,nắm chắc chủ
trương giáo dục của Đảng và nhà nước trong thời kì đổi mới. Chính lí tưởng và
lòng yêu nghề sẽ là nghị lực niềm tin để người giáo viên vững bước trong sự
nghiệp mình đã chọn.
Tóm lại, để làm tốt công tác chủ nhiệm, đòi hỏi người giáo viên chủ


nhiệm không chỉ là một giáo viên dạy tốt văn hóa mà còn phải quan tâm đến sự
phát triển ở học sinh cả những giá trị đạo đức, thể chất, thẩm mĩ… Vì vậy, theo
tôi, hai yếu tố cốt lõi không thể thiếu đối với giáo viên chủ nhiệm là cái tài của

một nhà tâm lí và cái tâm của một nhà giáo dục. Khi làm tốt hai yếu tố này thì
người giáo viên nói chung và người giáo viên chủ nhiệm nói riêng đều có thể
làm tốt trách nhiệm của mình trong thời đại mới ngày nay và luôn để lại ấn
tượng tốt trong lòng mỗi thế hệ học trò yêu dấu.
Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực của mỗi giáo viên cần biết
lựa chọn và kết hợp sử dụng các phương pháp phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Bằng những kinh nghiệm ít ỏi của mình trong những năm tham gia làm
công tác chủ nhiệm, tôi đã tự đúc rút được một số phương pháp cho bản thân
trong đó có phương pháp tính điểm thi đua. Dù sao, đó cũng là những ý kiến
mang tính cá nhân, tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng giáo dục nhà
trường cũng như các quý thầy cô, đặc biệt những thầy cô đã từng làm công tác
chủ nhiệm lớp để đề tài được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 2 tháng 5 năm2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Lê Thị Kim Anh


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Điều lệ trường THCS, trường THPT và trường THPT có nhiều cấp
học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[2]. Luật Giáo dục và những quy định mới nhất về giáo dục và đào tạo,
NXB Lao động
[3]. Mô đun THPT 30 “Đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức của học sinh
THPT” của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

[4]. Nội quy học sinh trường THPT Nguyễn Trãi
[5]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng Internet
- Nguồn: http: //eduviet.net
- Nguồn:



×