Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Vận dụng kết hợp các phương pháp giúp học sinh nhận thức các thong điệp trong văn bài hồn trương ba, da hàng thịt của lưu quang vũ, ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.96 KB, 19 trang )

SỞ
SỞGIÁO
GIÁODỤC
DỤCVÀ
VÀĐÀO
ĐÀOTẠO
TẠOTHANH
THANHHỐ
HỐ
TRƯỜNG
TRƯỜNGTHPT
THPTN
NĐỊNH
ĐỊNH22

SÁNG
SÁNGKIẾN
KIẾNKINH
KINHNGHIỆM
NGHIỆM

VẬN
VẬNDỤNG
DỤNGKẾT
KẾTHỢP
HỢPCÁC
CÁCPHƯƠNG
PHƯƠNGPHÁP
PHÁP
GIÚP
HỌC


SINH
NHẬN
THỨC
CÁC
THƠNG
GIÚP HỌC SINH NHẬN THỨC CÁC THƠNGĐIỆP
ĐIỆP
TRONG
TRONGVĂN
VĂNBÀI
BÀI“HỒN
“HỒNTRƯƠNG
TRƯƠNGBA,
BA,DA
DAHÀNG
HÀNGTHỊT”
THỊT”
CỦA
CỦALƯU
LƯUQUANG
QUANGVŨ,
VŨ,NGỮ
NGỮVĂN
VĂN12
12

Người
Ngườithực
thựchiện:
hiện:LêLêThị

ThịLuyến
Luyến
Chức
vụ:
Giáo
viên
Chức vụ: Giáo viên
SKKN
SKKNthuộc
thuộcmơn:
mơn:Ngữ
Ngữvăn
văn

THANH HOÁ, NĂM 2017
THANH HOÁ NĂM 2017

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong kịch nói Việt Nam có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ – một hiện
tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX.
Với một tài năng đến độ chín và lao động nghệ thuật phi thường, chỉ trong
khoảng thời gian chưa đầy chục năm, ông đã sáng tác khoảng 50 kịch bản hầu
hết được các nhà hát trong toàn quốc dàn dựng qua nhiều loại hình sân khấu
kịch nói, chèo, tuồng, cải lương cho đến kịch dân ca. Lưu Quang Vũ đến sân
khấu đúng lúc đất nước ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc và đang
phải đối mặt với những khó khăn của cuộc sống mới. Là một nghệ sĩ nhạy cảm

trước hiện thực, ơng đã hướng ngịi bút của mình vào tất cả ngõ ngách của cuộc
đời cũng như cuộc sống của con người và góp một tiếng nói thiết thực vào công
cuộc đổi mới nước nhà. Những vở kịch của Lưu Quang Vũ là tiếng nói phản ánh
cuộc sống đang diễn ra với một hiện thực vui mới, gần gũi. Có thể nói di sản của
Lưu Quang Vũ đồ sộ về khối lượng, phong phú về nội dung, đa dạng về thể loại
và phong cách. Đúng như nhà nghiên cứu Phan Ngọc nhận định: Lưu Quang Vũ
là nhà viết kịch lớn nhất thế kỉ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa lớn [1].
Trong số những vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý hơn cả là vở kịch
“Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Từ một truyện cổ dân gian nhà viết kịch đã sáng
tác thành một vở kịch hiện đại, phản ánh hiện thực và đặt ra những vấn đề mới
mẻ, có ý nghía tư tưởng triết lí và nhân văn sâu sắc.[2]. Lưu Quang Vũ đã “đổ
rượu mới vào bình cũ” kể lại chuyện cổ như một bi kịch triết lí thời nay với 2
chiều kích đa thoa: chiều kích nhân sinh – xã hội và chiều kích bản thể - siêu
hình. Tác phẩm được đánh giá là một vở kịch đặc sắc nhất và mang ý nghĩa nhân
sinh cao cả.
“Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong số ít kịch bản văn học được
đưa vào chương trình giáo dục ở Trung học phổ thông. Khi giảng dạy văn bản
này, mặc dù giáo viên đã vận dụng phương pháp dạy học mới, song vẫn còn
vướng mắc, hiệu quả giảng dạy chưa cao. Qua thực tế chúng tơi thấy, các em
gặp khơng ít khó khăn trong việc cảm thụ nội dung tư tưởng và nghệ thuật của
đoạn trích kịch, các em khơng nắm được đặc trưng thể loại kịch, không hiểu
hoặc hiểu không thấu đáo về ý nghĩa hàm ẩn sau ngôn ngữ kịch. Các em không
hứng khi đọc văn bản kịch. Nguyên nhân là do các em chưa nắm vững được đặc
trưng thể loại nên chưa hiểu sâu được giá trị nội dung của đoạn trích cũng như
thơng điệp mà nhà văn muốn gửi gắm.
Từ thực tế này đã thơi thúc tơi tìm tịi, nghiên cứu cách thức để giảng dạy
bài học này có hiệu quả và tôi đã nhận thấy rằng cần phải vận dụng kết hợpnhiều
phương pháp trong quá trình giảng dạy bài “Hồn Trương Ba da hàng thịt” giúp
các em lĩnh hội được một cách sâu sắc những thông điệp mang ý nghĩa nhân văn
Ghi chú (giải thích cho việc Trích dẫn TLTK ở Ví dụ nêu trên):

[1] Đoạn văn: “Lưu Quang Vũ đến sân khấu đúng ….nhà văn hóa lớn” tác giả tham khảo từ tài liệu số 3.
[2] Đoạn văn: “Từ truyện … nhân văn sâu sắc” tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 7. Đoạn tiếp theo do
tác giả viết ra.

2


trong đoạn trích học nói riêng và tác phẩm nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra phương án dạy học có hiệu quả đối với
văn bản “Hồn Trương Ba da hàng thịt” theo hướng phân tích, cảm nhận những
cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của văn bản để từ đó thấu hiểu những
thông điệp mà kịch gia Lưu Quang Vũ đã gửi gắm
3. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp hoạt động dạy và học của thầy và trò đối với việc giúp học sinh
tiếp cận những thông điệp nhân sinh của văn bản “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ bằng cách kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy như
phương pháp Đàm thoại, phát vấn, thảo luận và đọc phân vai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dạy học kịch bản “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (sách giáo khoa Ngữ văn
12, tập 2, NXB Giáo dục, tiết 86,87) theo hướng tiếp cận những thông điệp mà
kịch gia Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da
hàng thịt”.
Để làm được vấn đề này chúng tôi đã vận dụng các phương pháp sau:
+ Thu thập tài liệu và xử lí thơng tin có liên quan đến đề tài.
+ Phương pháp khái qt hố lí luận.
+ Phương pháp tổng hợp.
+ Phương pháp thể nghiệm sư phạm (thiết kế giáo án thể nghiệm).
+ Phương pháp điều tra (phiếu điều tra; đề kiểm tra).
---------------------------------------------------PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận
Mục tiêu của Văn học là hướng tới chiếm lĩnh nhận thức toàn bộ hiện thực
khách quan và đời sống xã hội. Song đối tượng chủ yếu của văn học là con
người. Văn học phản ánh các quan hệ hiện thực mà trung tâm là con người xã
hội, văn học không miêu tả thế giới như những khách thể tự nó mà lại tái hiện
chúng trong tương quan tình cảm con người. Khái niệm trong đối tượng văn học
là tính cách của con người. Những người sống suy nghĩ cảm xúc hành động
mang bản chất xã hội, lịch sử. Đặc điểm nội dung văn học là khát vọng thiết tha
muốn thể hiện một quang niệm về chân lý đời sống. Một chân lý về cái đẹp, cái
tốt, cái thật thể hiện trong các hiện tượng, thiên nhiên và xã hội trong các quan
hệ giữa người với người. Gắn liền với chân lý là một cảm hứng mãnh liệt muốn
khẳng định điều này, phủ dịnh điều kia. Muốn nhìn thấy lẽ phải được thực hiện.
Nó gắn liền với cảm xúc mạnh mẽ của con người, với sự rung động của con tim.
Đó là những cảm xúc nghệ thuật là một trạng thái đặc biệt của tâm hồn. Đó có
thể là niềm vui, nỗi buồn, yêu thương hay căm giận nhưng dứt khốt khơng phải
là cái nhìn bình lặng, phẳng phiu mà nó là tâm tình, tình cảm sâu xa, máu thịt
bằng tất cả sự từng trải, sự nung nấu và rung động của con tim và khối óc làm
rung động lịng người. Vì vậy, “mỗi tác phẩm là một thông điệp nồng nàn với
đời sống, thắm thiết niềm tin yêu con người. Thông điệp của một tác phẩm văn

3


học là tính thẩm mỹ của nó tác động đến đối tượng tiếp nhận. Từ đây làm thay
đổi thái độ, sự nhận thức hoặc chuyển biến tình cảm của người tiếp nhận”.[3]
Trong truyện cổ dân gian nước ta có truyện “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt”. Từ cốt truyện của truyện cổ dân gian đó, Lưu Quang Vũ đã phát huy năng
lực sáng tạo nghệ thuật, sáng tác một vở kịch lớn gửi đến người đọc những
thông điệp về bản thể và cách sống của con người, cụ thể là quan hệ giữa thể xác
linh hồn vớicách sống chân thực, lẽ sống vì mọi người.

Về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, truyện cổ dân gian cũng quan niệm linh
hồn phải có thể xác thì mới có chỗ trú ngụ và thể xác phải có linh hồn thì mới
sống được nhưng truyện cổ dân gian tuyệt đối hóa vai trị của linh hồn, coi nhẹ
thể xác quá nên khi Trương Ba mượn được thể xác của người bán thịt thì Trương
Ba coi mình là Trương Ba 100% và khơng băn khoăn gì về hình dạng của mình,
cũng khơng có biến đổi gì trong tính cách...
Lưu Quang Vũ có kế thừa truyện cổ dân gian, ơng cũng nhấn mạnh vai trị
cao hơn của linh hồn so với thể xác. Trương Ba khi sống lại trong thân xác anh
hàng thịt thì nhận biết mình là Trương Ba (dựa váo kí ức, tình cảm và ý thức tức
là dựa vào phần hồn của mình). Vợ Trương Ba sau khi kiếm tra kí ức của
Trương Ba cũng nhận chồng; Trương Hoạt, bạn của Trương Ba cũng vậy. Chị
con dâu thì càng thương cha chồng hơn, mặc dù lúc này ơng mang vóc hình
khác vì thấy ở ơng đức tính nhân hậu hệt như cha chồng xưa.[4]
Tuy nhiên, Lưu Quang Vũ không dừng lại ở đó, ơng thấy linh hồn khơng
hồn tồn độc lập với thể xác, ơng nhìn thấy sự chi phối của thân xác đối với
linh hồn. Trương Ba trong xác anh hàng thịt, bắt đầu thích ăn tiết canh, uống
rượu, nói to, tay chân trở nên thô vụng: động vào cây làm gãy chồi non, chân
giẫm lên cả cây sâm quý. Bị Lí trưởng xử ban ngày phải sang nhà vợ anh hàng
thịt, Trương Ba cũng có lúc bị xao động (ít ra là ở cảm giác) trước cử chỉ thân
mật của chị vợ anh ta và phải tự đấu tranh để thốt ra. Chính xác anh đã nói với
hồn Trương Ba: ‘Chính vì âm u, đui mù mà tơi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át
cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”[5]. Cuộc tranh cãi giữa xác anh hàng thịt
và hồn Trương Ba là một cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác, cuộc đấu
tranh trong bản thân con người để chống lại tác động xấu của thể xác làm tha
hóa linh hồn.
Bản thân Trương Ba cũng tự thấy nhiều điều phiền tối và có nguy cơ tự
đánh mất mình. Ơng cảm thấy vướng víu xa lạ trong thân xác khác, cháu gái nội
ông không nhận ông, vợ ông muôn bỏ đi, con dâu thấy ông không chỉ khác lạ về
thân xác mà bắt đầu khác cả về tính tình. Trương Ba cũng đã phải tự nói: “Mày
(thân xác) đã thắng rồi đấy, cái thân xác không phải của ta, mày đã tìm đủ mọi

cách để sấn át ta”. Trương Ba đã phải tiến hanh một cuộc đấu tranh với xác anh
hàng thịt, đây là cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác trong một con người.
Thể xác cũng có tiếng nói riêng của nó, nhu cầu riêng của nó, những nhu cầu
[3] trích đẫn nhận định nguyên văn từ TLTK số 10
[4] tác giả tham khảo từ bài viết trong TLTK số 5
[5] Đoạn văn Trương Ba trong xác …ơng đấy tác giả trích ngun văn trong TLTK số 2

4


này có cái chính đáng, có cái khơng chính đáng, con người phải biết tiết chế,
biết đè nén nhu cầu thè xác, thậm chí phải hi sinh một số nhu cầu...
Trước những phiền tối và nguy cơ tha hóa do sống trong thân xác mượn
của kẻ khác, Trương Ba muốn trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Nhưng như có
nghĩa là Trương ba lại phải chết. Trương Ba sẵn sàng chết vì nếu sống mà khơng
là mình, mà mất dần nhân cách, mà nhìn thấy những người khác đau khổ (ví dụ
chị vợ anh hàng thịt, “chị ta thật đáng thương”, rồi vợ, rồi con, rồi cháu, như đã
nói trên), thì thà chết, cịn hơn.
Lúc đó có cháu Tị chẳng may ốm chết, Đế Thích định cho hồn Trương Ba
nhập vào thân xác cháu, thì cháu Tị được sống lại với hồn Trương Ba, còn hồn
Trương Ba được sống trong thân xác bé bỏng của cháu. Trương Ba cũng từ chối
vì nếu thế, bi kịch sống khơng là mình lại tiếp diễn sống gây phiền toái, đau khổ
cho những người khác (trước nhất là cho mẹ cháu Tị rồi đến vợ mình...). Trương
Ba đề nghị Đế Thích dùng phép thiêng cứu sống cho cháu Tị cịn mình chấp
nhận cái chết.[6]. Đó là cách duy nhất để hồn Trương Ba có thể thanh thản - ở
thế giới bên kia. ‘Từ lúc tơi có đủ can đảm đi đến quyết định này, tơi bỗng cảm
thấy mình là Trương Ba thật, tâm hồn tôi trở lại thanh thản, trong sáng như
xưa...
Trương Ba chết nhưng linh hồn Trương Ba vẫn sống trong nỗi nhớ của mọi
người, sống trong sự sống vẫn đang sinh sơi của cây cỏ, của con người... (Đoạn

kết).
Tóm lại, qua vở kịch, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một tình huống ẩn dụ
có sức lơi cuốn và gợi suy nghĩ sâu sắc, gửi tới người đọc thông điệp: “Trong
con người có hai thực thể là thể xác và linh hồn, hai thực thể đó có quan hệ hữu
cơ với nhau nhưng cũng có tính độc lập tương đối với nhau. Con người phải
luôn luôn đấu tranh với bản thân, điều chỉnh, làm chủ những nhu cầu, ham
muốn để có được sự thống nhất hài hòa giữa linh hồn và thể xác hướng tới sự
hồn thiện nhân cách. Đó là sống thành thật, sống trong sạch, là sống vì mọi
người, không thể sống giả dối, sống bằng mọi giá, sống trên sự đau khổ của
người khác...”[7]. Tư tưởng triết lí của Lưu Quang Vũ, về con người, về quan
hệ giữa linh hồn và thể xác, về cách sống và lẽ sống của con người vừa biện
chứng, vừa lạc quan và cao thượng. Điều này cùng với tài năng sáng tạo nghệ
thuật của tác giả đã làm cho vở kịch có giá trị nhân văn cao, vươn tới tầm nhân
loại.
2. Thực trạng
Trong cuộc sống ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường,
cơ hội giao lưu hội nhập càng nhiều, con người cũng có sự thay đổi rất lớn. Thứ
nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật
chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ
tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng
Ghi chú ( giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở VD trên):
[6] tác giả tham khảo từ TLTK số 8
[7] tác giả tham khảo từ TLTK số 10

5


đến sinh hoạt vật chất, khơng phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan
niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngồi ra, vở kịch cịn đề cập
đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải

sống giả, khơng dám và cũng khơng được sống là bản thân mình. Đấy là nguy
cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Thực tế dạy - học văn trong trường THPT hiện nay đang đứng trước
“sự khủng hoảng” (Phan Trọng Luận), hiệu quả giờ học tác phẩm văn chương
giảm sút, học sinh thờ ơ, khơng có sự rung cảm, đồng cảm với nỗi niềm nhân
vật. Học sinh học đối phó, đạo văn, cóp văn của người khác là hiện tượng phổ
biến, khiến nhân cách, tâm hồn, năng lực cảm thụ và kĩ năng viết văn của các
em còn nhiều thiếu sót, nhiều vấn đề cần xem xét lại.
Như chúng ta đã biết, kịch là một loại hình tổng hợp. Đó là sự kết
hợp giữa nghệ thuật và sân khấu. Song, ở trường THPT, chúng ta chỉ học kịch
bản văn học bởi thế dạy - học kịch còn rất nhiều khó khăn với giáo viên và
học sinh. Dù giáo viên đã được trang bị đầy đủ lý thuyết về loại thể kịch
nhưng không mấy ai áp dụng vào bài dạy của mình. Họ vẫn dạy kịch bản văn
học như dạy tác phẩm tự sự khiến học sinh không hiểu, không phân biệt được
sự giống và khác nhau giữa các loại thể tác phẩm. Bên cạnh việc dạy học tác
phẩm tự sự và trữ tình, dạy học kịch vẫn là vấn đề khá mới mẻ.
Giáo viên và học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi lĩnh hội loại tác phẩm
này. Học sinh lĩnh hội tác phẩm qua sự tiếp nhận từ thầy cô với thái độ thờ ơ,
lạnh nhạt. Hầu hết học sinh chỉ quen với truyện ngắn, thơ, kí còn kịch lại tương
đối xa lạ cho dù đã được tiếp xúc với kịch từ bậc trung học cơ sở. Các em chỉ
quen với những vở kịch sống động trên ti vi hay trên sân khấu. Với các thể loại
văn học khác, học sinh thường đón nhận hào hứng và tiếp nhận nhanh. Cịn
những vở kịch ở hình thức kịch bản văn học thường khơng được u thích và
nói theo kiểu của học sinh thì đó là những “món khó nuốt”...
Thực tế dạy học cho thấy, rất ít kì kiểm tra, kì thi lớn hay nhỏ có sử dụng
câu hỏi liên quan đến những đoạn trích kịch. Đây cũng là một
lý do khiến học sinh “học xong rồi quên ngay” khi các em vẫn chưa thực sự
thấu hiểu hết nội dung và ý nghĩa nhân văn của vở kịch. Tình trạng này đã
kéo dài trong suốt những năm qua, đến nay cần thay đổi; cần tìm một hướng
đi mới cho phù hợp, nhằm giúp học sinh nắm được giá trị nội dung, giá trị

nhân văn sâu sắc của những văn bản kịch ngay trên lớp học; tạo và duy trì
hứng thú cho các em với kịch bản văn học; tạo dư ba về đoạn trích cho học
sinh khi giờ học trên lớp, kết thúc nhằm làm tăng tính thẩm mĩ và hiệu quả
giáo dục của kịch bản văn học lên mức cao nhất có thể.
Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu kịch
Lưu Quang Vũ. Một số khoá luận, luận văn tốt nghiệp về kịch Lưu Quang Vũ
theo nhiều hướng. Song vấn đề hướng dẫn học sinh cảm nhận sâu sắc những
thông điệp trong dạy học đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại chưa có.
Với thực tế dạy học hiện nay, việc dạy học đoạn trích theo hướng tập

6


trung phân tích, khai thác giá trị nhân văn được gửi gắm qua những thơng điệp
cịn gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế khiến hiệu quả giờ dạy học chưa cao.
Trong năm 2010, PSG. TS Nguyễn Văn Long có bài “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” in trên Văn học tuổi trẻ, số tháng 5 – 6. Bài viết đã phân
tích đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” theo hướng tập trung phân
tích các cuộc đối thoại chính trong đoạn trích. Tác giả chỉ đề cập nhiều tới
phần ngơn ngữ của tác phẩm và đoạn trích, ngồi ra các vấn đề khác chỉ được
“điểm mặt nhắc tên” cho đủ mà khơng đi sâu khai thác, phân tích. Trên tinh
thần đó, giá trị nhân văn cũng được đề cập, song đó chỉ là những vấn đề khái
quát và chung nhất về giá trị nhân văn của kịch bản văn học này. Việc phân
tích các giá trị nhân văn đó như nào thì tác giả lại khơng nhắc đến [8].
Nhìn chung tồn bộ tác phẩm và đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” của Lưu Quang Vũ đã được nhắc đến và nghiên cứu trên rất nhiều khía
cạnh khác nhau. Song, đi sâu vào vấn đề hướng dẫn học sinh phân tích các thơng
điệp trong dạy học đoạn trích thì chưa. Cho đến nay vẫn chưa có tác giả
hay nhà khoa học nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ phương pháp
giảng dạy bộ mơn Ngữ văn. Có thể nói, đây là một đề tài khoa học mới, có nhiều

vấn đề khai thác để góp phần làm đa dạng phương pháp dạy học đoạn trích
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
3. Giải pháp đã sử dụng
Gv vận dụng kết hợp các phương pháp đọc phân vai, phát vấn, đàm thoại và
một số phương pháp khác vào soạn giảng bài “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
của tác giả Lưu Quang Vũ như sau:
I. Mục tiêu bài học:
Giúp HS:
- Hiểu được bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh: Phải sống nhờ,
sống vay mượn, trái với tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu, thanh cao bị nhiễm
độc và bị tha hóa bởi sự lấn át của thể xác phàm tục..
- Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh
chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực cùng khát
vọng hồn thiện nhân cách. Hiểu được những thơng điệp mà nhà văn gửi gắm.
- Thấy được kịch Lưu Quang Vũ đặc sắc ở: sự hấp dẫn của kịch bản văn học và
nghệ thuật sân khấu; sự kết hợp giữa tính hiện đại với các giá trị truyền thống;
sự phê phán mạnh mẽ và chất trữ tình đằm thắm [9].
II. Phương tiện dạy học:
- GV: Sách giáo khoa, sách giáo viên, giáo án, tư liệu tham khảo.
- HS: vở ghi, vở soạn, Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2.
III. Phương pháp:
- Phân tích mâu thuẫn xung đột qua hành động ngôn ngữ đối thoại của các nhân
vật. HS tập làm diễn viên nhập vai thể hiện nội dung đoạn trích
Ghi chú ( giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở VD trên):
[8] Đoạn văn : Trong năm 2010 … không nhắc đến tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 9
[9] Cả phần Mục I tác giả tham khảo từ TLTK số 6

7



- Vận dụng phương pháp đọc phân vai, đàm thoại, phát vấn, diễn giảng giúp học
sinh tiếp cận những thông điệp quan trọng của văn bản
IV. Trọng tâm bài học [10]
- Những ràng buộc mang tính tương khắc giữa thể xác và linh hồn trong nghịch
cảnh: linh hồn nhân hậu, thanh cao phải sống nhờ, sống tạm một cách trái tự
nhiên trong thể xác thô lỗ, phàm tục.
- Cuộc đấu tranh của linh hồn với thể xác để bảo vệ những phẩm chất cao q và
khát vọng hồn thiện nhân cách để có một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, xứng
đáng với con người.
- Sự kết hợp hài hoà giữa tính phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất thơ sâu
lắng, bay bổng tạo nên sức hấp dẫn của kịch Lưu Quang Vũ.
V. Tiến trình tổ chức:
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ:
- Phân tích cuộc đấu giữa ông già và con cá kiếm.
- Mối quan hệ giữa ông lão và con cá.
3. Bài mới [11]
3. Giảng bài mới:
Vào bài: Lưu Quang Vũ được đánh giá là một trong những nhà viết kịch vĩ
đại của văn học Việt Nam. Ơng có những đóng góp lớn lao trong sự chuyển đổi
mạnh mẽ của nền kịch nói Việt Nam những năm 80 của thế kỉ XX. Và vở kịch
Hồn Trương Ba da hàng thịt của ông đánh dấu cho nghiệp sáng tác của Lưu
Quang Vũ. Để hiểu rõ hơn điều đó, chúng ta cùng tìm hiểu bài học hơm nay.
Hoạt động của
Nội dung cần đạt
giáo viên và học sinh
Hoạt động 1: Tổ chức tìm I. TÌM HIỂU CHUNG:
hiểu chung về tác giả và tác 1. Tác giả
phẩm.
a. Cuộc đời:

- Thao tác 1: Tìm hiểu chung - Lưu Quang Vũ (1948- 1988), sinh tại Phú
về tác giả.
Thọ, quê gốc ở Đà Nẵng.
+ GV: Yêu cầu 1 HS đọc phần - Tuổi thơ Lưu Quang Vũ gắn liền với vùng
Tiểu dẫn (SGK) và nêu những ý Phú Thọ, đến năm 1954, ông về sống và đi
chính về tác giả Lưu Quang Vũ học ở Hà Nội.
+ HS: Đọc Tiểu dẫn (SGK) và - Từ 1965 đến 1970: Lưu Quang Vũ vào bộ
nêu những ý chính về tác giả
đội, phục vụ trong quân chủng Phịng khơng
+ GV: Nhận xét đồng thời mở - Không quân.
rộng một số vấn đề về quê - Sau đó, ơng xuất ngũ, làm nhiều nghề để
hương, gia đình và con người mưu sinh.
nhà văn.
- Từ 1978 đến khi mất, ơng là biên tập viên
Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch.
b. Sự nghiệp sáng tác:
- Sinh ra trong gia đình trí thức, cha là nhà
viết kịch Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ

8


- Thao tác 2: Tìm hiểu chung
về vở kịch.
+ GV: Cung cấp hoàn cảnh
sáng tác của tác phẩm.

+ GV: Yêu cầu HS nêu những ý
chính về vở kịch Hồn Trương
Ba da hàng thịt và vị trí của

đoạn trích học.

sớm bộc lộ năng khiếu.
- Vở kịch đầu tay Sống mãi với thủ đơ chưa
gây được tiếng vang, nhưng sau đó, với một
nguồn sáng tạo đột khởi mạnh mẽ, Lưu
Quang Vũ đã cho ra đời những vở kịch gây
xôn xao dư luận như:
+ Lời nói dối cuối cùng, Nàng Si – ta, Chết
cho điều chưa có, Bệnh sĩ, Lời thề thứ 9,
Tơi và chúng ta, Hai ngàn ngày oan trái,
Hồn Trương Ba, da hàng thịt,…
- Lưu Quang Vũ không chỉ trở thành hiện
tượng đặc biệt của sâu kịch những năm 80
của thế kỉ XX mà còn được coi là một trong
những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn
học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- Lưu Quang Vũ còn là một nghệ sĩ đa tài:
làm thơ, vẽ tranh, viết truyện, viết tiểu luận,
… nhưng thành cơng nhất là kịch.
- Với những đóng góp đặc biệt cho nền văn
học nước nhà, Lưu Quang Vũ được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
vào năm 2000.
2. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Là một trong những vở kịch gây được
nhiều tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ.
- Vở kịch được viết từ năm 1981, được công
diễn vào năm 1984.

- Tác phẩm nhanh chóng tạo được nhiều
thiện cảm cho người xem, được công diễn
nhiều lần trên các sân khấu trong và ngồi
nước.
b. Đoạn trích:
- Phần lớn là cảnh VII của vở kịch.
- Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng
vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên
đến đỉnh điểm.

+ GV giới thiệu:
o Từ một cốt truyện dân gian, tác giả đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện
đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu
sắc.
o Truyện dân gian gây kịch tính sau khi Hồn Trương Ba nhập vào xác anh

9


hàng thịt dẫn tới "vụ tranh chấp" chồng của hai bà vợ phải đưa ra xử, bà
Trương Ba thắng kiện được đưa chồng về. Lưu Quang Vũ khai thác tình
huống kịch bắt đầu ở chỗ kết thúc của tích truyện dân gian. Khi hồn Trương
Ba được sống "hợp pháp" trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở nên rắc rối,
éo le để rồi cuối cùng đau khổ, tuyệt vọng khiến Hồn Trương Ba không chịu
nổi phải cầu xin Đế Thích cho mình được chết hẳn.
* Hoạt động 2: Tổ chức đọc- hiểu văn bản.
- Thao tác 1: Hướng dẫn học sinh đọc, tóm tắt nội dung đoạn trích.
+ GV: Giới thiệu bối cảnh đoạn trích: Sau mấy tháng sống trong tình trạng
"bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo", nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng
trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình. Trương Ba dần dần đổi

tính: cũng uống nhiều rượu, ham bán thịt, khơng cịn mặn mà với trị chơi
thanh cao trí tuệ là đánh cờ nữa
Trương Ba càng khổ sở hơn vì ông ý thức được những điều đó mà không thể
giải quyết được. Ơng tự chán ghét chính mình, muốn thốt ra khỏi nghịch
cảnh trớ trêu. Nghịch cảnh đó được đây lên cao trào qua các cuộc đối thoại.
+ GV phân vai và hướng dẫn HS đọc theo vai.
II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN:
- Thao tác 2: GV tổ chức cho 1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác
HS tìm hiểu, thảo luận phần hàng thịt:
đầu của đoạn trích theo một
số câu hỏi
+ GV: Chúng ta hãy tưởng a. Nội dung đối thoại
tượng lớp kịch đang được trình Hồn Trương Ba
Xác hàng thịt
diễn trên sân khấu không gian - Nghịch cảnh: linh - Mang sức mạnh
ba chiều. Dưới ánh đèn kĩ sân hồn nhân hậu, trong âm u đen tối
khấu, hồn Trương Ba tác ra sạch phải trú nhờ - Khống chế, ve
khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ trong một thân xác vãn, kêu gọi hồn
của anh hàng thịt và hiện hình thơ phàm
Trương Ba thỏa
lờ mờ trong dáng nhân vật - Bị xác thịt thô phàm hiệp bằng những
Trương Ba thật. Thân xác anh điều khiển, lấn át, dần lí lẽ ti tiện (SGK
hàng thịt vẫn ngồi nguyên trên dần bị tha hóa
145)
chõng và lúc này chỉ cịn là - Ý thức sâu sắc về
thân xác. Cuộc đối thoại của sự tha hóa; dằn vặt - Khẳng định sự
hồn và xác bắt đầu.
đau khổ, tìm cách thắng thế của
GV phát vấn:
thốt khỏi xác thịt để mình “ chẳng còn

+ Xác đã đưa ra những bằng tồn tại độc lập
cách nào khác nữa
chứng nào mà hồn cũng phải - Khinh bỉ, mắng mỏ đâu- cả hai đã hịa
thừa nhận?
lí lẽ ti tiện của xác làm một rồi”
+ Xác đã cười nhạo lí lẽ nguỵ hàng thịt nhưng rồi
biện nào của Trương Ba?
ngậm ngùi thấm thía
+ Xác tuyên bố điều gì?
nghịch cảnh của
+ GV: Xác cịn khẳng định điều mình và phải nhập

10


gì?
vào xác hàng thịt
+ GV: Trước những “lí lẽ đê một cách tuyệt vọng
tiện” của xác, hồn Trương Ba
có thái độ như thế nào?
+ GV: Sau đó, trước những
bằng chứng, kí kẽ của xác, hồn
có tâm trạng như thế nào?
+ GV: Cuối cùng, phần thắng
đã nghiêng về nhân vật nào?
HS tìm hiểu và trả lời
GV phát vấn:
Thơng điệp mà tác giả muốn Thông điệp của đối thoại
gởi gắm qua màn đối thoại là - Trương Ba được trả lại sự sống nhưng đó
gì?

là một cuộc sống đáng hổ thẹn, vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục
HS tìm hiểu và trả lời
đồng hóa
- Khi con người phải sống trong dung tục thì
tất yếu cái dung tục ấy sẽ ngự trị, thắng thế
và sẽ tàn phá những gì trong sạch cao q
của con người
- Thao tác 2: Hướng dẫn học 2. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và
sinh tìm hiểu cuộc đối thoại những người thân:
giữa hồn Trương Ba với a. Nội dung đối thoại:
những người thân:
Những người thân
Hồn Trương Ba
+ GV: Lí lẽ mà hồn Trương Ba - Vợ : đau khổ, giàu - Không chỉ bản
đưa ra là “Ta vẫn có một đời lịng vị tha nhưng thân đau khổ mà
sống riêng: nguyên vẹn, trong quyết định sẽ bỏ đi
còn gây đau khổ
sạch, thẳng thắn”. Nhưng theo - Con dâu: thông cảm cho những người
em, hồn Trương Ba có bảo lưu cho hồn cảnh trớ ơng thương u
được điều đó khơng? Hãy tìm trêu của bố chồng nhất
câu trả lời từ phía những người nhưng không giúp - Nỗi đau khổ tuyệt
thân trong gia đình Trương Ba? được gì.
vọng đã lên đến
+ HS tái hiện kiến thức để trả - Cháu Gái : phản ứng điểm đỉnh .
lời câu hỏi.
dữ dội quyết liệt,
+ GV: Thế là đã rõ. Không phải không chấp nhận sự
ngẫu nhiên mà thân xác có thể tồn tại của Trương
cất tiếng cười trước câu nói Ba.

ngây thơ, ngộ nhận của hồn
Trương Ba. Trong thân xác của
anh hàng thịt, Trương Ba khơng
cịn là mình. Tất cả những
người thân đều đã nhận thấy và
đau đớn, lo lắng, bàng hoàng

11


khi nói ra điều đó. Thể xác
đang xâm chiếm, đang lấn lướt
linh hồn, đang tha hoá cái linh
hồn ấy.
GV phát vấn :
b. Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm :
Thơng điệp mà tác giả muốn - Tình huống bi kịch thúc đẩy hồn Trương Ba
gửi gắm là gì ?
phải lựa chọn với sự phản kháng mãnh liệt
HS tìm hiểu và trả lời
"chẳng cịn cách nào khác…, Khơng cần đến
cái đời sống do mày mang lại. Không cần".
- Con người phải đấu tranh với nghịch cảnh,
với chính bản thân, chống lại sự dung tục để
hoàn thiện nhân cách.
Người đọc người xem có thể nhận ra những
ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua lời
thoại này. Thứ nhất con người là một thể
thống nhất hồn và xác phải hài hịa. Khơng
thể có một tâm hồn thanh cao trong một

thân xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị
chi phối bởi những nhu cầu bản năng của
thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác
không thể tự an ủi vỗ về mình bằng vẻ đẹp
siêu hình của tâm hồn. Thứ hai sống thực sự
cho ra con người quả không hề dễ dàng đơn
giản. Khi sống nhờ sống gửi sống chắp vá
khi khơng được là mình thì cuộc sống ấy
thật vô nghĩa.
Thao tác 3
3. Màn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và
GV phát vấn : Những phản ứng Đế Thích
của người thân đã đưa hồn a. Nội dung đối thoại:
Trương Ba đến quyết định gì? Hồn Trương Ba Đế Thích
Quyết định đó có ý nghĩa gì?
- Khơng chấp - Ngạc nhiên vì những
HS tìm hiểu và trả lời
nhận kiểu sống “ yêu cầu của Trương Ba
GV phát vấn :
bên trong một -Khuyên Trương Ba
Mâu thuẫn kịch được giải đằng, bên ngoài nên chấp nhận hoàn
quyết như thế nào qua màn đối một nẻo” muốn cảnh vì “thế giới vốn
thoại giữa Hồn Trương Ba và được là chính khơng tồn vẹn”
Đế Thích?
mình một cách - Sửa sai bằng cách
HS tìm hiểu và trả lời
trọn vẹn
cho hồn Trương Ba
- Chỉ ra sai lầm nhập vào xác cu Tị
của Đế Thích “ nhưng bị từ chối vì

Ơng chỉ nghĩ đơn Trương Ba sẽ trở nên
giản là cho tôi “bơ vơ, lạc lõng, thảm

12


GV phát vấn : Quan niệm về sự
sống của Hồn Trương và Đế
Thích có gì khác nhau?
HS tìm hiểu và trả lời

sống nhưng sống hại…”
thế nào thì ơng - Chấp nhận yêu cầu
chẳng cần biết”
của Trương Ba với
- Kiên quyết từ thắc mắc :“Con người
chối việc nhập hạ giới các ơng thật kì
vào xác cu Tị, vì lạ”
đó cũng là một
nghịch cảnh khác,
cuộc sống đó “
cịn khổ hơn cái
chết”
b. Quan niệm về sự sống :
- Đế Thích : cái nhìn hời hợt, phiến diện về
con người
- Trương Ba : ý thức sâu sắc về ý nghĩa của
sự sống: Sống thực cho ra một con người
không phải là điều đơn giản- Hồn và Xác
phải hài hịa, khơng thể có một tâm hồn

thanh cao trong một thân xác phàm tục tội
lỗi
4. Màn kết :
- Trương Ba trả xác cho anh hàng thịt; chấp
nhận cái chết để được là chính mình và linh
hồn được trong sạch.
- Hóa thân vào cây cỏ, các sự vật thân
thương để tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những
người thân yêu với niềm tin cuộc sống vẫn
tuần hoàn theo quy luật của muôn đời.
- Bi kịch mang âm hưởng lạc quan; thông
điệp về sự chiến thắng của cái Thiện- cái
Đẹp- của cuộc sống đích thực.

GV phát vấn :
? Nhận xét về đoạn kết.
? Khái quát chủ đề?
? Những nét đặc sắc về nghệ
thuật?
+ Xung đột kịch Hồn Trương
Ba với Xác hàng thịt- với
những người thân – Đế Thích
và với chính mình
+ Ngơn ngữ: Vừa chứa đựng
mâu thuẫn vừa mang tính hành
động, thúc đẩy tình huống
truyện phát triển ; thể hiện quan
điểm đánh giá của tác giả
Hoạt động 3:
GV phát vấn: qua văn bản trên III. Tổng kết :

nhà văn Lưu Quang Vũ muốn
1. Thông điệp của văn bản
gửi gắm thơng điệp gì ?
Qua đoạn trích và vở kịch, tác giả muốn
HS tìm hiểu và trả lời
gửi gắm thơng điệp:
- Được sống làm người quý giá thật,
GV phát vấn :
nhưng được sống đúng là mình, sống trọn
Những đặc sắc nghệ thuật trong vẹn, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn cịn
đoạn trích ?
q hơn.
HS suy nghĩ và trả lời
- Con người phải luôn luôn đấu tranh với

13


nghịch cảnh, chống lại sự tầm thường, dung
tục để hoàn thiện nhân cách.
2. Nghệ thuật
- Những đoạn đối thoại được xây dựng giàu
kịch tính, đậm chất triết lí, tạo chiều sâu cho
vở kịch.
- Hành động của nhân vật phù hợp với hồn
cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình
huống truyện.
- Những đoạn độc thoại nội tâm góp phần
thể hiện rõ tính cách nhân vật và quan niệm
về lẽ sống đúng đắn.

- Xung đột giàu kịch tính
- Chất thơ, chất trữ tình bay bổng.
* Ghi nhớ: SGK.
IV. Luyện tập
a- Anh/ chị suy nghĩ gì về quan niệm sống sau đây:
“Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi muốn được là
tơi tồn vẹn”.
(Hồn Trương Ba da hàng thịt - Lưu Quang Vũ)
b-Nêu cảm nhận của anh chị về nhân vật Trương Ba
c- Anh chị có đồng ý với đoạn kết của vở kịch khơng? Giải thích?
V. HƯỚNG DÂN HỌC BÀI VÀ LÀM BÀI
* Củng cố:
- Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt cho ta biết bi kịch gì
của nhân vật Trương Ba?
- Những người thân của Trương Ba có thái độ như thế nào trước sự thay đổi
của Trương Ba?
- Quyết định cuối cùng của Trương Ba khi gặp Đế Thích là gì? Quyết định này
thể hiện nhân cách gì của nhân vật?
- Cảm nhận về đoạn kết của vở kịch?
*. Dặn dò:
- Tìm đọc truyện dân gian Hồn Trương Ba da hàng thịt. Thử so sánh những yếu
tố kế thừa và sáng tạo của Lưu Quang Vũ?
- Chuẩn bị bài học mới: Nhìn về vốn văn hố dân tộc - Trần Đình Hượu.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trước đây, tôi thường dùng phương pháp đàm thoại để giảng dạy bài này. Làm
như vậy sẽ khắc phục được khơng khí nặng nề, buồn tẻ thường có trong các bài
dạy về thể loại kịch. Tuy nhiên, chỉ có một số học sinh có năng lực mới tiếp thu
được, số học sinh cịn lại lười tư duy, nhác phát biểu dẫn đến không hiểu gì.
Ghi chú ( giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở VD trên):
[10] mục IV tác giả tham khảo từ TLTK số 6

[11] mục V.3 tác giả tham khảo từ các TLTK số 1, 2, 4, 5, 6.

14


Số học sinh nắm được nội dung bài học còn hạn chế.
Sau khi vận dụng kết hợp những phương pháp đọc phân vai, đàm thoại, phát
vấn… vào giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh có hứng thú học văn bản kịch. Các
em thích thú khi được đóng vai các nhân vật để cảm nhận tâm trạng trong từng
hoàn cảnh. Lớp học trở nên sơi nổi hơn rất nhiều. Từ đó các em đã nhận thức
được giá trị tác phẩm và ở đây các em đã hiểu rõ hơn về những gì kịch gia Lưu
Quang Vũ muốn gửi gắm. Điều này tác động rất lớn đến quá trình tu dưỡng, rèn
luyện và hoàn thiện nhân cách của học sinh.
Sau bài học kiểm tra lại, số học sinh nắm được bài học gần như tối đa.
Kết quả đánh giá sau tiết dạy về mức độ hiểu bài như sau:
Lớp
Sĩ số
Không vận dụng kết
Vận dụng kết hợp các
hợp các phươnng pháp:
phươnng pháp: Số
Số lượng và tỷ lệ học sinh lượng và tỷ lệ học sinh
hiểu bài
hiểu bài
12C4
46
19
41.3 %
44
95.6 %

12C8
38
15
39.5 %
35
92.1%
12C9
39
17
43.6 %
38
97.4%
12C10
39
14
36.0
37
94.9 %
Kết quả cụ thể thông qua bài kiểm tra 15 phút với câu hỏi như sau:
Qua đoạn trích, anh/chị hãy trình bày quan niệm sống của nhà văn Lưu
Quang Vũ. Quan niệm đó có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình hồn thiện
nhân cách của con người trong cuộc sống ngày nay?
Điểm
TT
1
2
3
4

Lớp



số

12C4
12C8
12C9
12C10

46
38
39
39

9-10
SL %

7-8
SL %

5-6
SL %

3- 4
TB trở lên
SL % SL
%

25
18

20
17

18
16
14
18

3
4
5
4

0
0
0
0

54.4
47.4
51.3
43.6

39.1
42.1
35.9
46.2

6.5
10.5

12.8
10.2

0
0
0
0

46
38
39
39

100%
100%
100%
100%

----------------------------------------------PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Với sự đổi mới của kì thi Trung học phổ thông quốc gia 2017, phần Đọc –
hiểu ln viết về các tư tưởng đạo lí và các hiện tượng đời sống, là cở sở và
cũng là một phần yêu cầu về nội dung trong câu nghị luận xã hội của phần Làm
văn. Mà văn bản kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại có ý nghĩa nhân văn rất
lớn, nó gắn liền với hiện tượng đời sống ngày nay, khi con người đang bị lôi

15


cuốn bởi nền kinh tế thị trường, chạy theo nhu cầu vật chất; bộ phận khác lại
viện vào cớ đời sống tinh thần mà cả hai lối sống này đều vênh lệch thì vở kịch

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại các có ý nghĩa sâu sắc hơn. Những lời thoại
của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh
trớ trêu đầy tính chất bi hài của mình thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày
càng vênh lệch giữa hồn và xác đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát
nung nấu của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện. Qua màn đối thoại có thể
thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp vừa mạnh mẽ
quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy chỉ cần
nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu
tranh chống lại sự dung tục giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn hợp với
lẽ tự nhiên cùng sự hồn thiện nhân cách.
Khơng chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người trong vở
kịch nói chung và đoạn kết nói riêng Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán
một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất con người đang
có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất chỉ thích hưởng
thụ đến nỗi trở nên phàm phu thô thiển. Thứ hai lấy cớ tâm hồn là quý đời sống
tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất
khơng phấn đấu vì hạnh phúc tồn vẹn. Cả hai quan niệm cách sống trên đều cực
đoan đáng phê phán. Ngồi ra vở kịch cịn đề cập đến một vấn đề cũng khơng
kém phần bức xúc đó là tình trạng con người phải sống giả khơng dám và cũng
khơng được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha
hóa do danh và lợi.
Như vậy qua việc vận dụng kết hợp các phương pháp vào giảng dạy bài “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” của kịch qia Lưu Quang Vũ, tôi đã giúp học thấu hiểu
được những thông điệp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Quan trọng hơn cả là tôi
đã tạo được một khơng khí sơi nổi, tích cực trong giờ dạy, từ đó học sinh hiểu
bài hơn, hứng thú học tập hơn, thấy được cái hay, cái đẹp trong văn bản kịch nói
riêng và các văn bản văn học nói chung, từ đây các em cũng u thích mơn Văn
hơn.
Qua quá trình nghiên cứu để tìm ra những phương pháp dạy học tích cực, hiệu
quả cũng như q trình giảng dạy trên lớp, tơi chỉ có một kiến nghị nhỏ đó là

trong những năm gần đây mơn Ngữ văn ngày càng giữ vai trị quan trọng trong
kì thi Trung học phổ thông Quốc gia, đặc biệt là môn duy nhất thi theo hình thức
tự luận. Vì vậy kính mong nhà trường cũng như Ban chuyên môn tạo điều kiện
cho chúng tôi thêm thời gian để ôn luyện kiến thức và kĩ năng diễn đạt cho học
sinh, đặc biệt là học sinh lớp 12.
Trên đây là những suy nghĩ, cảm nhận của tôi sau nhiều trăn trở, băn khoăn
khi giảng dạy văn bản kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng và các văn
bản kịch nói chung, nhưng văn chương là giếng vơ tận, thiết nghĩ những trình
Ghi chú ( giải thích cho việc trích dẫn TLTK ở VD trên):
[12] Đoạn văn: Với sự đổi mới … sâu sắc hơn do tác giả tự viết ra còn đoạn văn “Những lời thoại … hoàn thiện
nhân cách tác giả tham khảo từ TLTK số 10 và 11.

16


bày của tơi ở đây cũng chỉ là những tìm tịi mang tính cá nhân cho nên khơng
tránh khỏi những bất cập, thiếu sót, hi vọng nhận được sự bổ sung, góp ý của
các đồng nghiệp để bài viết tốt hơn, khả dụng hơn. Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan SKKN trên là do tôi
viết, không sao chép của người khác
Người viết
Lê Thị Luyến

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
*********
1. Thiết kế dạy học Ngữ văn 12, tập 2, Lưu Đức Hạnh (Chủ biên), NXB giáo
dục 2008.
2. 37 đề thi Ngữ văn, Đào Thị Thu Hằng (chủ biên), NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2010
3. Chuyên đề dạy – học Ngữ văn 12, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”Lê Thị
Hường (chủ biên), NXB Giáo dục 2009.
4. Bài tập Ngữ văn 12, tập 2, Phan Trọng Luận (chủ biên), NXB Giáo dục
2007
5. Bộ đề luyện thi Ngữ văn 12, tập 2, Phan Trọng Luận (chủ biên), NXB Đại
học Sư phạm 2009
6. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12, Phan Trọng
Luận (chủ biên), NXB Đại học Sư phạm, 2009.
7. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 2, Phan Trọng Luận (chủ biên), NXB Giáo
dục 2007
8. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 2, Phan Trọng Luận (chủ biên), NXB Giáo
dục 2007.
9. “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” PSG.TS Nguyễn Văn Long, bài in trên Văn
học tuổi trẻ, số tháng 5 – 6/2010
10. Những lời bình về tác giả, tác phẩm Ngữ văn 12, Nguyễn Đan Quế,
Nguyễn Kiều Tâm (đồng chủ biên), NXB giáo dục Việt Nam, 2010.
11. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet:
- Nguồn:
- Nguồn:
- Nguồn: http://thuviengiaoan violet.vn

18



MỤC LỤC
Nội dung

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

2
PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận

2

2. Thực trạng

5


3. Giải pháp đã sử dụng

6

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

13

PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Phần kết luận và kiến nghị

14

Tài liệu tham khảo

17

Mục lục

18

19



×