Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

CƠ CHẾ ỦY QUYỀN VÀ GIÁM SÁT CÁC ĐẠI DIỆN TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.47 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
Môn: Quyền lực Chính trị

ĐỀ TÀI: CƠ CHẾ ỦY QUYỀN VÀ GIÁM SÁT
CÁC ĐẠI DIỆN TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG - THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Học viện thực hiện: Nguyễn Thị Hòa

Hà Nội - 2016
1


CƠ CHẾ ỦY QUYỀN VÀ GIÁM SÁT
CÁC ĐẠI DIỆN - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TS. Lưu Văn Quảng
Viện Chính trị học
I. CƠ CHẾ ỦY QUYỀN VÀ GIÁM SÁT CÁC ĐẠI DIỆN NHƯ LÀ
CÁCH THỨC ĐỂ NGƯỜI DÂN PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Trong các nhà nước dân chủ hiện đại, quyền lực nhà nước không phải là
quyền lực tự thân, mà là quyền lực do người dân uỷ nhiệm thông qua các cuộc
bầu cử.
Với tư cách là những người nhận được quyền lực được uỷ nhiệm, những
người được uỷ quyền cần phải nhận thức được vị trí của họ trong mối quan hệ
với người dân, phải hành động theo cách mà người dân mong đợi. Trong trường
hợp những người được uỷ quyền không làm tròn bổn phận, có hành vi lạm dụng


quyền đại diện, hành động bất chấp những mong đợi của người dân, phá bỏ các
thoả thuận đã ký kết, thì người dân có quyền hủy các “hợp đồng” và chọn các đại
diện khác để uỷ quyền. Nguyên tắc uỷ quyền và giám sát quyền lực buộc những
người cầm quyền phải gắn bó chặt chẽ với nhân dân, quan tâm đến việc phục vụ
nhân dân. Các cuộc bầu cử do vậy không chỉ có vai trò quyết định trong việc
tuyển lựa những người đại diện, mà quan trọng hơn, nó còn có ý nghĩa quan trọng
đối với việc hình thành trách nhiệm của các đại diện.
Tuy nhiên, có một thực tế diễn ra khá phổ biến trong các nền chính trị hiện
đại là sau khi nhận được sự ủy nhiệm quyền lực, các công chức nhà nước, những
người được người dân bầu ra một cách trực tiếp, hoặc được tuyển dụng vào làm
việc trong bộ máy nhà nước đã không thực hiện những gì mà họ cam kết, sử dụng
quyền lực một cách sai mục đích vì lợi ích riêng của mình. Đó chính là các hành
vi tham nhũng, là hiện tượng quyền lực bị tha hóa.

2


Tham nhũng chính là việc sử dụng quyền lực công một cách phi pháp
nhằm trục lợi cá nhân. Có thể nói, ở bất cứ nơi nào có hiện tượng ủy quyền thì
nơi đó có khả năng xảy ra tham nhũng. Khi quyền sở hữu và quyền quản lý tách
rời nhau thì cần có sự ủy thác quyền lực và khả năng tham nhũng sẽ nảy sinh, tỷ
lệ với sự tách rời đó. Chúng ta thử hình dung, trong một công ty tư nhân, giám
đốc là ông chủ. Ông ta sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn về các hoạt động kinh
doanh của mình, tiêu tiền của chính mình, không có sự trao quyền, và do vậy
cũng không xuất hiện hiện tượng tham nhũng. Nhưng đối với các công ty cổ
phần, quyền quản lý và quyền sở hữu đã tách nhau một cách đáng kể, và do vậy,
khả năng tham nhũng của những người được ủy quyền cũng tăng lên. Nếu xem
xét mối quan hệ này trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền quản lý thường
thuộc về các Hội đồng Quản trị, các Ban giám đốc, còn chủ sở hữu lại thuộc về
nhà nước, tức là sự tách biệt giữa hai loại quyền càng lớn, và do vậy, khả năng

tham nhũng cũng cao hơn. Đối với bộ máy nhà nước, nguy cơ xảy ra tham nhũng
lại càng cao, bởi vì bên sở hữu quyền lực gốc (người dân, các cử tri) và bên quản
lý quyền lực được ủy nhiệm (các nhà chính trị, các công chức trong bộ máy) – do
những yếu tố đặc thù có sự độc lập, sự tách biệt khá lớn.1
Tham nhũng thường liên quan đến việc sử dụng quyền lực công, tức là
quyền lực không phải tự người đó có, mà do được người dân ủy nhiệm. Như vậy,
có thể nói, sự ủy quyền và tham nhũng là hai mặt của một vấn đề. Nếu không có
ủy quyền sẽ không thể xuất hiện tham nhũng. Đây có thể được xem là các hiện
tượng mang tính nhân quả, bởi những vấn đề mang tính cấu trúc của mối quan hệ
này.
- Thứ nhất, đây chính là hệ quả của mối quan hệ giữa quyền lực gián đoạn
của người dân với tư cách là người sở hữu quyền lực gốc với các công chức trong bộ
máy nhà nước với tư cách là người được ủy quyền – những người sẽ nắm giữ quyền
lực một cách liên tục trong suốt nhiệm kỳ, hoặc thời gian bổ nhiệm. Khi phát hiện
những người đại diện của mình sử dụng quyền lực không đúng với mong đợi, người
dân phải đợi đến cuộc bầu cử lần sau để dùng lá phiếu phế truất người được bầu,
1

Xem: Nguyễn Quang A (2005), Tham nhũng và cạnh tranh,

3


hoặc tiến hành các thủ tục bãi miễn. Tuy nhiên, đây là một việc làm khó khăn và tốn
kém, và cơ hội thành công cũng không nhiều, nếu người dân không liên kết thành
những cộng đồng có tiếng nói thống nhất.
- Thứ hai, những người được ủy quyền luôn có động cơ theo đuổi những
lợi ích của cá nhân mình khi sử dụng quyền lực công. Khi lợi ích cá nhân không
trùng với lợi ích của cộng đồng, lợi ích của những người đã ủy nhiệm quyền lực,
sẽ xuất hiện những xung đột, và thường thì người cầm quyền sẽ lựa chọn phương

án có lợi nhất cho bản thân. Họ sẽ dùng quyền lực công để phục vụ cho mục đích
cá nhân.
- Thứ ba, đó là tính không hoàn hảo của các luật lệ, các quy định: Khi xuất
hiện tình huống phải có sự ủy quyền, giữa hai bên phải thỏa thuận với nhau về
các điều kiện thi hành, trong đó có các quy định nhằm ràng buộc hành vi của
người được ủy nhiệm, sao cho họ không thể hành động chệch ra khỏi mục đích
của người ủy nhiệm. Tuy nhiên, các đạo luật quy định về các vấn đề này dường
như luôn có những giới hạn.2 Cùng với sự phát triển của các hệ thống thể chế,
những kẻ hở này có thể dần được khắc phục. Ở những quốc gia có truyền thống
pháp quyền lâu đời thì những kẽ này bị tối thiểu hóa; còn ở những quốc gia đang
phát triển, những cơ hội cho tham nhũng sẽ nhiều hơn.
Ở Việt Nam, tham nhũng được xem là một trong những nguy cơ đối với
chế độ, được xem là “giặc nội xâm” của nhân dân. Để giải quyết vấn nạn này cần
phải áp dụng một cách đồng bộ các giải pháp, với quyết tâm chính trị của Đảng
và sự tham gia tích cực của người dân. Sử dụng hệ thống ủy quyền và giám sát
quyền lực của các đại diện là một công cụ mạnh để người dân tham gia phòng và
chống tham nhũng. Lô gic ở đây là: nếu cách thức lựa chọn người cầm quyền
được thiết kế một cách khoa học, dân chủ và công bằng, người dân hiểu rõ về các
ứng cử viên, thì việc lựa chọn của họ cũng có lý hơn, và do vậy cũng sẽ giảm
thiểu rủi ro cho người dân khi những người được ủy nhiệm nắm giữ quyền lực.
Khả năng lạm quyền, tham nhũng của những người này sẽ thấp hơn rất nhiều so
2

Xem: Ngô Huy Đức (2008), Hiệu quả chống tham nhũng qua khảo sát mô hình một số nước trên thế
giới, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay”, PGS, TSKH Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm)

4



với những người mà người dân có rất ít thông tin. Tất nhiên, một người đến thời
điểm được bầu được cho là người tốt, trung thực, luôn hành động vì lợi ích công,
cũng không phải là đảm bảo chắc chắn rằng anh ta sẽ hành động tương tự khi
nhận lãnh một vai trò mới với tư cách là người đại diện. Khả năng xấu vẫn có thể
xảy ra, nhưng ít nhất xác suất sẽ thấp hơn nhiều so với một người đã từng có
“thành tích” lạm dụng quyền lực công, hoặc có hành vi gây hại cho cộng đồng.
Sau khi được bầu, các đại diện sẽ tiếp tục chịu sự giám sát của người dân thông
qua các phương thức khác nhau. Nếu họ không đảm nhận tốt vị trí đại diện, có
hành vi lạm quyền, tham nhũng, họ có thể sẽ bị bãi miễn khỏi chức vụ đang nắm
giữ.
Như vậy, thông qua cơ chế ủy quyền và giám sát quyền lực, người dân có
kiểm soát được các hành vi lạm quyền, tham nhũng của các đại diện. Nếu có một
cơ chế ủy quyền và giám sát quyền lực được ủy nhiệm tốt sẽ giảm thiểu được
nguy cơ tham nhũng của các đại diện.
II. THỰC TRẠNG NGƯỜI DÂN PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
THÔNG QUA CƠ CHẾ ỦY QUYỀN VÀ GIÁM SÁT CÁC ĐẠI DIỆN
2.1. Sự tham gia phòng, chống tham nhũng của người dân thông qua
cơ chế ủy quyền
Có thể nói, một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng tham nhũng
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng là cơ chế ủy quyền chưa được
thiết kế một cách hợp lý. Hình thức ủy quyền ở đây có thể được xem xét từ hai
góc độ: (1) người dân trực tiếp lựa chọn các đại diện thông qua các cuộc bầu cử;
và (2) người dân lựa chọn một cách gián tiếp các công chức trong bộ máy thông
qua hệ thống tuyển dụng cán bộ.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để người dân có thể lựa chọn được
những người “có tài” - có khả năng biểu đạt lợi ích của nhân dân, thay mặt nhân
dân đưa ra những quyết định “đúng” và vừa có “đức” – sẽ không sử dụng quyền
lực công phục vụ cho mục đích cá nhân, không tham nhũng? Ở đây xuất hiện
vấn đề “bất đối xứng thông tin” giữa người ủy quyền và người được ủy quyền.
Chỉ các ứng cử viên mới biết rõ họ là ai? Khả năng của họ đến đâu? Họ có thể

5


làm gì? Và họ có động cơ gì khi chạy đua vào các chức vụ, các vị trí quyền lực?
Trong quá khứ họ đã từng tham nhũng chưa?....Tuy nhiên, với mục tiêu giành
chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh, các ứng cử viên sẽ không bao giờ tiết lộ
các thông tin bất lợi đối với mình cho cử tri, và họ chỉ chú ý cung cấp những
thông tin có tác động tích cực đến lá phiếu của họ. Trong khi đó, người dân với tư
cách là các cử tri sẽ không thể nào có được đầy đủ thông tin về người mình sẽ
bầu chọn khi mà nguồn cung cấp thông tin bị hạn chế. Và do vậy, việc bầu nhầm
những người thiếu năng lực, những người từng có “tiền sự” về tham nhũng, vẫn
có thể xảy ra. Đây chính rủi ro luôn tiềm ẩn trong các cuộc bầu cử, đặc biệt là khi
người dân không có mấy thông tin về các đại diện.
Cách tốt nhất để giảm thiểu những chi phí mà những rủi ro này có thể đem
lại cho hệ thống là phải có một hệ thống bầu cử dân chủ, được thực hiện một cách
công khai, minh bạch cho phép người dân thực sự chọn được người đại diện xứng
đáng, không lạm quyền, tham nhũng khi trúng cử, hoặc khi được tuyển dụng làm
việc trong các cơ quan công quyền.
2.1.1. Hệ thống bầu cử
Những tiêu chí để đánh giá một hệ thống bầu cử tốt, có thể giúp người dân
lựa chọn được các đại diện xứng đáng và ít rủi ro nhất khi họ trở thành người đại
diện là: (1) Khi đi bầu người dân phải có đầy đủ các thông tin về ứng cử viên,
những thành tích cũng như những khuyết điểm mà họ gặp phải, quá trình tham
gia hoạt động xã hội và hoạt động chính trị; (2) Phải có sự cạnh tranh giữa nhiều
ứng cử viên cho một chức danh; (3) Sự khách quan, trung lập của Hội đồng bầu
cử; (4) Các ứng cử viên phải trình bày cương lĩnh hay chương trình hành động
của mình khi tranh cử.
Nhìn chung, ở nước ta đã thiết lập được những chế định để có thể tổ chức
những cuộc bầu cử dân chủ. Các cuộc bầu cử đã góp phần tuyển chọn cho bộ
máy nhà nước nhiều nhà chính trị có đức, có tài, có khả năng đáp ứng được các

nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng trong mỗi thời kỳ. Các cuộc bầu cử cũng cho
phép nhân dân thể hiện quyền dân chủ thông qua lá phiếu lựa chọn người đại diện
vào các cơ quan quyền lực nhà nước.

6


Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, công
tác bầu cử ở nước ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, chưa hoàn toàn đảm bảo
được quyền dân chủ của người dân trong việc lựa chọn những người đại diện
cũng như giám sát quyền lực đã uỷ nhiệm. Các biểu hiện của tình trạng dân chủ
hình thức trong quá trình bầu cử, từ khâu giới thiệu ứng cử viên, tiếp xúc cử tri
đến khâu bỏ phiếu vẫn diễn ra. Quá trình hiệp thương bầu cử còn nặng về hợp
thức hoá sự chỉ đạo, định hướng từ cấp trên, nên có thể có người được bầu mà
chưa thực sự xứng đáng, chưa phát huy được tính tích cực chính trị của người
dân.
Do vấn đề cơ cấu thành phần các đại biểu trong quốc hội và các cơ quan
dân cử, nên các cuộc bầu cử quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp ở nước ta
hiện vẫn chưa thực sự thể hiện được tính dân chủ và tính cạnh tranh. Theo quy
định của luật bầu cử, danh sách ứng cử viên phải nhiều hơn số người được bầu,
nhưng nhiều hơn bao nhiêu lại không được lượng hoá khiến cho việc vận dụng
tại mỗi địa phương không có sự thống nhất. Việc áp dụng hình thức đơn vị bầu
cử đa đại diện để bầu ra các đại biểu quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
cũng bộc lộ những khuyết điểm, đặc biệt là vấn đề trách nhiệm của đại biểu
trước cử tri.
Ở nước ta hiện nay, việc tuyên truyền vận động bầu cử còn hạn chế cả về
nội dung và hình thức. Các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài phát
thanh, đài truyền hình… chủ yếu mới dừng lại ở mức độ tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về bầu cử cho nhân dân, chứ ít quan tâm đến việc cung cấp thông tin
về các ứng cử viên. 3 Những thông tin chính thức được cơ quan phụ trách bầu cử

cung cấp cũng rất nghèo nàn. Đối với một số người, việc bầu cho người này hay
người khác chỉ mang tính ngẫu nhiên, cảm tính, hoặc được quyết định bởi một
vài dòng thông tin sơ sài về ứng cử viên tại nơi bỏ phiếu. Sau khi cuộc bầu cử
3

Xem: Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2002), Kỷ yếu công tác mặt trận tham gia cuộc bầu cử

đại biểu quốc hội khoá XI, nhiệm kỳ 2002- 2007, Hà Nội, tr.71.

7


kết thúc, nhiều người không thể nhớ tên các đại diện của mình. Điều này cho
thấy mối quan hệ giữa các chủ thể quyền lực (các ông chủ) với những người
được uỷ quyền (các đại diện) mờ nhạt đến mức độ nào.
Công tác tổ chức và giám sát bầu cử ở nước ta cũng còn chưa được quan
tâm một cách đúng mức, dẫn đến tình trạng vi phạm các nguyên tắc bầu cử dân
chủ. Mặc dù nguyên tắc bình đẳng “một người, một phiếu” đã được công bố,
nhưng ở một số nơi, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, một số
cử tri vẫn vi phạm nguyên tắc này. Hiện tượng bỏ phiếu hộ, bỏ phiếu thay người
khác không phải là chuyện hiếm. Xét trên bình diện lý thuyết, hành vi bỏ phiếu
hộ thực chất là một kiểu gian lận bầu cử, vi phạm nguyên tắc “một người một
phiếu”.
Với một hệ thống bầu cử được thiết kế và thực hiện như đã nêu trên, mối
quan hệ giữa người dân và người được ủy quyền sẽ khó có thể là mối quan hệ
giữa người chủ và người đại diện. Bởi vì, qua các vòng hiệp thương, người ta có
cảm giác người dân không phải là chủ thể duy nhất quyết định ai là người trúng
cử. Do việc trúng cử không hoàn toàn phụ thuộc vào lá phiếu của người dân,
nên mối quan hệ giữa người đại diện với người bầu ra họ cũng sẽ trở nên mờ
nhạt. Thay vì phải hành động để “trả ơn” cử tri, họ có thể lại hướng vào việc

“trả ơn” những người đã có tiếng nói quyết định trong việc đưa họ vào các cơ
cấu. Do thiếu áp lực của “người chủ”, nên người đại diện cũng thiếu động cơ
hành động vì lợi ích chung. Đây cũng là một lý do giải thích tại sao trước những
bức xúc của người dân đối với tình trạng tham nhũng, một số quan chức được
bầu lại tỏ ra “thiếu quyết tâm chính trị” trong việc áp dụng các biện pháp phòng
chống tham nhũng.
2.1.2. Hệ thống tuyển dụng công chức:
Đối với hệ thống tuyển dụng công chức, các yêu cầu như tính công khai,
minh bạch, cạnh tranh bình đẳng giữa các ứng cử viên, tính khách quan của hội
đồng tuyển chọn …cũng là khá hiển nhiên. Những quy tắc này làm hạn chế thấp
nhất khả năng chọn nhầm người vào các vị trí quyền lực, và do vậy, có thể giảm

8


thiểu khả năng rủi ro những người được tuyển lựa có thể tham nhũng trong tương
lai.
Từ các nguyên tắc trên nhìn vào cách thức tuyển dụng cán bộ, công chức ở
nước ta cho thấy, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết.
Tình trạng các công chức bộ máy nhà nước cố ý làm sai, dùng quyền lực công
vào các mục đích riêng, trục lợi, tham nhũng được nhiều nghiên cứu đánh giá là
khá nghiêm trọng và mang tính hệ thống. Điều này có thể do một số nguyên nhân
cụ thể:
- Cơ chế tuyển lựa công chức theo nhiệm kỳ “suốt đời”: Ở nước ta, đã
thành lệ, khi một người được tuyển vào biên chế có nghĩa là anh ta có thể yên
tâm công tác suốt đời. Trừ trường hợp phải chịu kỷ luật hay truy tố, còn thì hiếm
khi xảy ra chuyện người này bị sa thải. Nhưng vấn đề còn ở chỗ, để chuyển từ
ngạch bậc thấp lên một ngạch bậc cao hơn, một người thường phải trải qua một
kỳ thi, mà dường như những nội dung thi chẳng mấy có liên quan đến công việc
mà anh ta đang và sẽ phải làm sau khi vượt qua kỳ thi. Và thường thì dù là ngạch

bậc có thể khác, nhưng tính chất công việc của anh ta cũng không có nhiều thay
đổi.
Theo các số liệu thống kê, hiện trên cả nước có khoảng 210.000 công chức
hành chính; 1,4 triệu viên chức làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp (giáo dục, y tế,
khoa học kỹ thuật, văn hóa thể thao…); 70.000 cán bộ làm việc trong các cơ quan
Đảng, đoàn thể và khoảng 250.000 công chức chính quyền cơ sở. Tuy nhiên,
pháp lệnh công chức hiện chưa đề cập đến vấn đề rất quan trọng là việc tuyển
dụng công chức được thực hiện theo kiểu biên chế suốt đời hay ký hợp đồng lao
động như các lực lượng lao động khác? Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm vì
nó liên quan đến lợi ích, đến “cơm áo, gạo tiền” của toàn bộ đội ngũ công chức
trong bộ máy, kể cả những người đang hoạch định chính sách về vấn đề này.
Việc xây dựng bộ máy công chức kiểu này đã dẫn tới hàng loạt những hệ
lụy, đó là tệ quan liêu, trì trệ, bộ máy bị khép kín, hoạt động kém hiệu quả. Do
không có cơ chế sàng lọc thường xuyên, nên không ít trường hợp các công chức
lợi dụng vị trí đang nắm giữ để tham nhũng.
9


- Cơ chế tuyển dụng cán bộ ở nước ta nhìn chung còn thiếu công khai,
minh bạch: So với trước đây, việc tuyển dụng cán bộ cho bộ máy nhà nước ở
nước ta đã có bước tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục được giải
quyết. Việc tuyển dụng cán bộ cho bộ máy ở nhiều nơi, nhiều cơ quan còn thiếu
công khai, minh bạch. Các thông tin như vị trí tuyển dụng, tiêu chuẩn, số lượng,
phương thức tuyển dụng, cách thức đánh giá kết quả tuyển dụng không công khai
dẫn đến những tiêu cực. Ở mức thấp, đó là sự tuyển dụng theo “chủ nghĩa thân
quen”, “có đi có lại”, tuyển những người kém năng lực và phẩm chất, nhưng lại
là “con ông cháu cha” vào bộ máy; ở mức cao, đó là sự mua bán sòng phẳng,
nhưng núp dưới những hình thức khá tinh vi.
Với cách thức tuyển dụng cán bộ như trên, cùng với chế độ lương bổng
còn tương đối thấp, thì nguy cơ các công chức khi vào làm việc trong bộ máy có

động cơ lạm quyền, tham nhũng cũng điều có thể hiểu được. Do phải bỏ ra một
khoản tiền lớn để mua cơ hội vào làm việc trong bộ máy, nên khi trở thành công
chức, họ sẽ tìm cách để “thu hồi vốn” đối với khoản “đầu tư” ban đầu, và sau đó
là phải có lãi để “tái đầu tư” ở những cuộc thi tuyển cao hơn.
Trên thực tế, vai trò của người dân trong quá trình phòng, chống tham
nhũng thông qua cơ chế ủy quyền là tương đối hạn chế do các quy định hiện tại
của chế độ bầu cử và tuyển dụng công chức chưa được được thiết kế một cách
thực sự khách quan và khoa học. Người dân với tư cách là chủ thể gốc của quyền
lực nhà nước không có nhiều lựa chọn khi dùng lá phiếu để quyết định ai sẽ là
người đại diện cho mình.
2.2. Giám sát quyền lực của các đại diện và các điều kiện để người dân
thực hiện sự giám sát nhằm ngăn ngừa nguy cơ tham nhũng
Trong một xã hội dân chủ, người dân sau khi đã uỷ nhiệm quyền lực cho
các đại diện có quyền được biết những người họ đang thực thi quyền lực của
mình như thế nào. Thường thì các công dân bao giờ cũng mong đợi các công
chức được bầu, được lựa chọn làm việc trong bộ máy nhà nước sẽ hoạt động vì
lợi ích của toàn dân. Người dân cũng sẽ hy vọng rằng, các công chức sẽ không sử
dụng quyền lực của mình để làm lợi cho bản thân giới lãnh đạo, các quan chức
10


đang làm việc trong bộ máy, hoặc là làm lợi các nhóm lợi ích đặc biệt nào đó với
sự trả giá của đông đảo các công dân.
Có hai điều kiện để người dân giám sát quyền lực được ủy nhiệm là: (1)
Bộ máy nhà nước phải công khai, minh bạch trong các hoạt động của mình; và
(2) Người dân có thể phế truất những người đại diện không đủ năng lực hoặc bị
tha hóa, biến chất.
+ Công khai minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà nước là một
điều kiện để người dân giám sát quyền lực của các đại diện:
Để tạo điều kiện cho người dân giám sát quyền lực của các đại diện cần

phải có một khuôn khổ pháp lý đủ sức răn đe, phòng ngừa, cũng như trừng phạt
thích đáng những hành vi tham nhũng của các đại diện. Do hiện tượng tham
nhũng gắn liền với những người có quyền, nên các hoạt động của các công chức
trong bộ máy nhà nước cần được công khai, minh bạch. Đây cũng là tiền đề để
người dân và những người không nắm giữ quyền lực nói chung có thể giám sát
hành vi của họ, đồng thời tự bảo vệ bản thân khi tham gia chống tham nhũng.
Công khai, minh bạch các hoạt động của bộ máy nhà nước chính là điều
kiện để người dân giám sát quyền lực được ủy nhiệm, buộc những người đại diện
phải có trách nhiệm với dân, chống lại nguy cơ tham nhũng. Cơ chế trách nhiệm
của nhà nước nói chung, của các công chức nói riêng bao gồm cả trách nhiệm
pháp lý, trách nhiệm chính trị và trách nhiệm tài chính…
Cơ chế trách nhiệm pháp lý bao gồm việc tuân thủ hiến pháp, các đạo luật,
sắc lệnh quy định những gì mà công chức nhà nước được làm và không được
làm, và công dân có thể hành động ra sao để phản đối các quan chức nhà nước
khi họ không đáp ứng được sự mong đợi của người dân.
Về mặt chính trị, chính quyền hay bộ máy nhà nước phải có trách nhiệm
giải trình trước nhân dân rằng, các chính sách, cách thức tổ chức và phương thức
thực hiện chính sách nào đó phải được dựa trên những cơ sở khoa học.
Về mặt tài chính, những người đại diện cho quyền lực công phải đảm bảo
việc chi dùng tiền thuế của dân vào những mục đích đã được cơ quan lập pháp
phê duyệt.
11


Ngoài ra, các quy định cũng yêu cầu các quan chức nhà nước phải công
khai nguồn thu nhập và tài sản của mình để công dân có thể xem xét liệu những
hành động của họ có bị ảnh hưởng bởi những lợi ích tài chính hay không.
Có thể nói, sự thiếu công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà
nước đã tạo điều kiện cho các hành vi tham nhũng của các công chức. Ánh sáng
của sự công khai, minh bạch soi rọi đến đâu thì những cơ hội cho lạm quyền và

tham nhũng cũng sẽ bị đẩy lùi tới đó. Trong quá trình này, việc tạo điều kiện cho
các công dân được tiếp cận với hồ sơ của chính quyền cũng là yếu tố quan trọng
của việc bảo vệ quyền tự do của người dân. Những quy định này là điều kiện cần
thiết để thúc đẩy quá trình công khai, minh bạch.
Một thách thức có thể dự báo đối với quá trình công khai, minh bạch các
hoạt động của bộ máy nhà nước, đó là động cơ để các công chức nhà nước bưng
bít thông tin là rất lớn, và cơ hội để họ vi phạm bất kỳ quy định nào về việc cung
cấp thông tin cũng không hề nhỏ.
Ở nước ta trong thời gian qua, chúng ta đã tiến hành các cải cách hành
chính, đặc biệt là các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho người dân giám sát
các hoạt động của các công chức nhà nước. Trên cơ sở xác định công khai, minh
bạch là trụ cột đặc biệt quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng, tạo
điều kiện cho người dân giám sát bộ máy nhà nước, Chính phủ đã ban hành Luật
phòng chống tham nhũng và nhiều quy định pháp luật về vấn đề này. Luật phòng,
chống tham nhũng năm 2005 là đạo luật quy định một cách đầy đủ, hệ thống và
toàn diện nhất về vấn đề công khai, minh bạch từ trước tới nay.
Về nội dung cần công khai, minh bạch trong các hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, Luật quy định “cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động
của mình, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước và những nội dung khác theo quy
định của chính phủ” (Điều 11).
Ngoài việc nêu các nguyên tắc quy định nội dung, hình thức đảm bảo công
khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nói chung, Luật
phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể về công khai, minh bạch trong một số
lĩnh vực mà thực tế cho thấy xảy ra nhiều hành vi tham nhũng gây thất thoát lớn
12


về tiền, tài sản của nhà nước cũng như tồn tại nhiều sự phiền hà, sách nhiễu, đòi
hối lộ từ phía công chức nhà nước.
Các lĩnh vực phải công khai, minh bạch (từ Điều 13 dến Điều 30) như:

mua sắm công; xây dựng cơ bản; quản lý đầu tư xây dựng; tài chính và ngân sách
nhà nước; quản lý sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ; quản lý doanh nghiệp nhà
nước; cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; sử dụng ngân sách, tài sản nhà nước;
quản lý sử dụng đất, nhà ở…
Việc công khai, minh bạch các thủ tục hành chính là một bước tiến quan
trọng, tuy nhiên vẫn là chưa đủ. Công việc cần làm tiếp theo là phải rà soát các
thủ tục hành chính hiện có nhằm phát hiện những thủ tục không cần thiết để đơn
giản hóa theo hướng dễ hiểu, dễ thực hiện, giảm chi phí và rủi ro cho người dân
và doanh nghiệp.
Bên cạnh minh bạch hoá các thủ tục hành chính, các bộ, ngành, địa phương
cũng phải công khai thu nhập, tài sản của cơ quan và cá nhân, công khai trong
việc mua sắm tài sản công và công khai tài sản của cán bộ, công chức theo quy
định của Luật phòng, chống tham nhũng.
+ Phế truất các đại diện không xứng đáng – hậu quả của việc giám sát
quyền lực của người dân:
Thường thì người dân không thực hiện sự ủy nhiệm quyền lực của mình
cho các đại diện mãi mãi, suốt đời, mà là sự đại diện có điều kiện và có thời hạn.
Nếu trong thời gian được ủy nhiệm, những người đại diện không thực hiện được
những gì đã hứa, không chứng tỏ được năng lực của mình, có các hành vi lạm
dụng chức quyền hay tham nhũng, thì người dân sẽ loại bỏ các đại diện đó trong
cuộc bầu cử lần sau. Tuy nhiên, để đi đến quyết định đó, người dân phải có thông
tin và bằng chứng xác thực về hoạt động của những người đại diện. Điều quan
trọng là hồ sơ tranh luận và bỏ phiếu tại các cuộc họp của Quốc hội, hay Hội
đồng nhân dân các cấp của các đại diện cần được lưu giữ và công khai cho người
dân được biết. Từ các thông tin này, người dân sẽ hiểu được quan điểm chính trị
của từng ứng cử viên, thái độ của họ trước các vấn đề chính sách, cùng các lập
luận của họ. Do vậy, khi người dân bỏ phiếu bầu các đại diện thì lá phiếu của
13



người dân là kín, trong khi lá phiếu của những người được ủy quyền khi đưa ra
các quyết định chính sách cần phải được công khai để người dân được biết, để
kiểm soát xem những người đại diện có thực hiện những điều họ đã hứa khi vận
động bầu cử hay không, và họ có đưa ra quyết định dựa trên lợi ích của người dân
hay không.
Ở nước ta hiện nay hồ sơ phát biểu, tranh luận của đại biểu quốc hội vẫn
chưa được chú ý đúng mức, và người dân cũng chưa có điều kiện để tiếp cận với
các nguồn tài liệu liên quan đến vấn đề này.
Trong trường hợp người dân nhận thấy những người đại diện đưa ra các
quyết định đi ngược lại mong đợi của họ, phạm những sai lầm nghiêm trọng, sử
dụng quyền lực công sai mục đích, người dân có thể sử dụng quyền bãi nhiệm
các đại diện. Ở nước ta, quyền này của người dân đã được ghi nhận trong Hiến
pháp. Theo điều 7 của Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì: “Đại
biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân
bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân”.
Tuy nhiên, cho đến nay, các thủ tục để người dân thực hiện quyền bãi nhiệm
các đại diện vẫn chưa rõ ràng và cụ thể. Theo quy định, cử tri bãi nhiệm đại biểu quốc
hội chỉ khi có đề nghị của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cách
thức lại do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Nhưng những quy định cụ thể
như thế nào thì vẫn chưa được làm rõ. Với các quy định còn chung chung như vậy,
người dân vẫn chưa thể thực hiện được quyền hiến định của mình, và trong một số
trường hợp, có những đại diện không còn đủ tư cách nhờ đó vẫn tiếp tục nắm giữ các
cương vị quyền lực cho dù người dân không còn tín nhiệm họ nữa.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NGƯỜI DÂN THỰC
HIỆN PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG THÔNG QUA CƠ CHẾ ỦY QUYỀN
VÀ GIÁM SÁT CÁC ĐẠI DIỆN
Có thể nói, sự tham gia phòng chống tham nhũng của người dân thông qua
cơ chế ủy quyền ở nước ta cũng đang xuất hiện một số nan giải. Những vấn đề
này xuất hiện cả trong cơ chế ủy quyền và giám sát quyền lực của nhân dân.

14


3.1.

Đối với cơ chế ủy quyền

- Về mặt lý thuyết, thông qua các cuộc bầu cử, người dân có thể lựa chọn
được những người tiêu biểu sẽ đại diện cho họ trong các cơ quan công quyền.
Khi bỏ phiếu, người dân kỳ vọng các đại diện sẽ sử dụng quyền lực được ủy
nhiệm vào các mục đích công và không tham nhũng. Tuy nhiên, điều này chỉ có
thể đạt được với điều kiện, đó phải là những cuộc bầu cử thực sự dân chủ và
mang tính cạnh tranh.
Xét từ các dữ kiện thực tế cho thấy, các cuộc bầu cử ở nước ta ít nhiều vẫn
còn mang tính hình thức. Nhận định này được thể hiện rõ nhất trong vấn đề cơ
cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Do theo một khuôn
mẫu cơ cấu có trước, nên để đảm bảo cho cơ cấu trở thành hiện thực, việc sắp xếp
các đơn vị bầu cử theo kiểu “quân xanh, quân đỏ” vẫn diễn ra và vì thế cuộc bầu
cử sẽ giảm đi ý nghĩa đích thực của nó.
Bên cạnh đó, các công đoạn của quá trình hiệp thương bầu cử cũng xuất
hiện một số vấn đề cần được nghiên cứu. Bởi vì thông thường khi kết thúc ba
vòng hiệp thương, hầu như tất cả các đơn vị bầu cử chỉ giữ lại số lượng ứng cử
viên theo một công thức: Đơn vị bầu cử bầu 3 đại diện thì giữ lại 5 ứng cử viên,
đơn vị bầu cử bầu 2 đại diện thì giữ lại 4 ứng cử viên. Điều này có thể giúp xác
định nhanh kết quả bầu cử do số phiếu không bị chia cho nhiều ứng cử viên khác
nhau, nhưng nó lại ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của cuộc bầu cử.
Ngoài ra, do các ứng cử viên không được phép vận động tranh cử, nên
nhiều cử tri khi đi bầu thiếu các thông tin cần thiết về ứng cử viên, ngoại trừ một
vài dòng thông tin ít ỏi được in trên bảng danh sách tại nơi bầu cử. Với các thông
tin như vậy, khó có thể là cơ sở để cử tri lựa chọn chính xác.

- Về cơ chế tuyển dụng và đề bạt cán bộ:
Cách thức tuyển lựa công chức cho các cơ quan nhà nước hiện nay vẫn
chưa thực sự khoa học, thiếu tính công khai, minh bạch, nên chưa chắc đã chọn
được những người giỏi làm việc cho bộ máy.
Ngoài ra, hệ thống thể chế chưa gắn quyền lực với trách nhiệm cá nhân của
người cầm quyền, chưa vạch ra được những giới hạn và trách nhiệm cụ thể của
15


người sử dụng quyền lực. Thực tế này dẫn đến việc người có quyền lạm dụng
quyền lực, tham nhũng, nhưng khi bị phát hiện và xử lý họ lại đổ lỗi cho cơ chế,
cho tập thể.
3.2. Đối với cơ chế giám sát và phế truất đại diện:
Về mặt pháp lý các quyền của dân trong việc giám sát các chủ thể quyền
lực chưa được xác định một cách rõ ràng. Các điều luật thường chỉ đưa ra những
điều khoản chung chung rằng, người dân có quyền này, nhưng làm thế nào để
thực hiện quyền đó, các thủ tục tiến hành ra sao lại chưa được cụ thể hóa. Do vậy,
trên thực tế, nhiều quyền theo luật định người dân chưa thể thực hiện.
Như chúng ta đã biết, các hoạt động giám sát người đại diện đều phải chi
phí. Trong trường hợp người dân tự mình thực hiện việc giám sát, cũng đồng
nghĩa với việc họ phải tự bỏ tiền bạc và công sức của mình cho hoạt động này. Ở
đây xuất hiện vấn đề “kẻ ăn theo” (Free - rider). Nếu việc giám sát thành công,
lợi ích của hành vi giám sát sẽ được người dân cả nước, hoặc một khu vực bầu cử
nào đó cùng hưởng, nhưng chi phí thì chỉ một mình cá nhân công dân tham gia
phải gánh chịu. Xét từ góc độ lý thuyết, những người “vác tù và hàng tổng” như
vậy sẽ không nhiều, và đa số người dân sẽ chọn cách “khoanh tay đứng nhìn”
thay vì phải hành động, vì ai cũng chờ đợi người khác làm, nếu thành công thì
mình ăn theo. Do vậy, về dài hạn, sự giám sát của người dân đối với các đại diện
cần được tập hợp trong các tổ chức để các thành viên cùng chia sẻ chi phí, và
cũng làm tăng thêm tính hiệu quả của hoạt động tập thể.

Bên cạnh đó, các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát đại diện của người
dân cũng chưa đảm bảo, chẳng hạn như quyền tiếp cận hồ sơ của quốc hội, của
bộ máy hành chính; khả năng xử lý và phân tích thông tin; sự phối hợp giữa
người dân với các cơ quan phòng, chống tham nhũng các cấp; và đặc biệt là ở
nước ta vẫn chưa có luật bảo vệ người chống tiêu cực, chống tham nhũng nên
những rủi ro cho người dân chống tham nhũng vẫn còn khá cao.
Về cơ chế truất quyền các đại diện không đủ tư cách: Mặc dù hiến pháp đã
quy định công dân có quyền bãi miễn những người đại diện khi họ không còn
được người dân tín nhiệm, nhưng trên thực tế, các thủ tục bãi miễn, trừng phạt
16


đối với các cá nhân tham nhũng, hoặc kém năng lực, còn bất hợp lý, quá phức tạp
hay không khả thi trên thực tế.
IV. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ NGƯỜI DÂN THAM GIA PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG THÔNG QUA CƠ CHẾ ỦY QUYỀN VÀ GIÁM SÁT CÁC
ĐẠI DIỆN MỘT CÁCH HIỆU QUẢ
4.1. Đổi mới công tác bầu cử
Để người dân có thể tham gia phòng chống tham nhũng một cách hiệu quả
từ góc độ ủy quyền và giám sát quyền lực, chúng ta cần nghiên cứu áp dụng một
số biện pháp cụ thể.
- Tạo cơ chế cạnh tranh bình đẳng giữa các ứng cử viên
Một cuộc bầu cử dân chủ bao giờ cũng là một cuộc bầu cử mang tính
cạnh tranh. Nếu không có cạnh tranh, bầu cử mất đi ý nghĩa đích thực của nó.
Cạnh tranh là một cơ chế phản biện lẫn nhau giữa các ứng cử viên, khiến cho
các ứng cử viên phải đưa ra các chính sách phù hợp với thực tế xã hội và đáp
ứng được sự mong đợi của người dân mà họ đại diện. Trong điều kiện một đảng
cầm quyền như ở nước ta thì chắc chắn đó phải là một cuộc cạnh tranh giữa các
đảng viên trong nội bộ Đảng. Ngoài ra, ở một mức độ nhất định, đó có thể là sự
cạnh tranh giữa các ứng cử viên do Đảng đề cử với các ứng cử viên ngoài Đảng.

Để có thể tiến hành các cuộc bầu cử dân chủ thực sự, chúng ta cũng cần
có một quy chế rõ ràng và công khai về qui trình giới thiệu nhân sự. Các quy
chế này tạo điều kiện cho những người có khả năng có thể tự ứng cử và trúng cử
nếu họ được người dân lựa chọn.
- Áp dụng hình thức đơn vị bầu cử một đại diện
Trong điều kiện một đảng cầm quyền như ở nước ta, bên cạnh việc đổi
mới hình thức đơn vị bầu cử đa đại diện hiện có theo hướng dân chủ, trong một
phương án xa hơn, chúng ta cần tính đến việc chuyển sang sử dụng một hình
thức bầu cử phù hợp hơn với điều kiện thực tế của đất nước. Một trong những
lựa chọn khả dĩ là hình thức đơn vị bầu cử một đại diện, theo đa số hai vòng.
Đây cũng là một biện pháp để tăng cường khả năng lựa chọn của người dân và
tính trách nhiệm của những người được bầu. Phương pháp này sẽ làm cho tính
17


cạnh tranh của các ứng cử viên trong một đơn vị bầu cử được thể hiện một cách
rõ nét.4
- Đổi mới phương thức vận động bầu cử, tiếp xúc cử tri
Làm thế nào để cử tri có thể tiếp cận được với các thông tin trung thực,
chính xác, khách quan về các ứng cử viên?
Cần áp dụng các biện pháp sau: (1) Nghiên cứu cơ chế cho phép các ứng
cử viên được vận động bầu cử trong một khuôn khổ nhất định; (2) Các phương
tiện thông tin đại chúng cần có vai trò tích cực hơn trong quá trình bầu cử, đặc
biệt là trong việc cung cấp thông tin về các ứng cử viên; (3) Tăng cường sự đối
thoại trực tiếp giữa ứng cử viên với cử tri; xoá bỏ tình trạng gặp gỡ “đại diện cử
tri” vốn diễn ra một cách khá phổ biến như hiện nay; (4) Ứng cử viên đại biểu
quốc hội cần đầu tư thời gian và trí tuệ cho việc xây dựng chương trình hành
động của mình.
- Chống gian lận, bệnh hình thức trong bầu cử
Để khắc phục hiện tượng này, chúng ta có thể áp dụng một số giải pháp sau:

- Tăng cường giáo dục ý thức công dân: sớm trang bị cho học sinh những
kiến thức về chính trị, giúp họ có ý thức rõ hơn về quyền và nghĩa vụ công dân
của mình ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
- Bãi bỏ hình thức “thi đua” trong bầu cử. Không khuyến khích, khen
thưởng những đơn vị bầu cử có số người đi bầu cao.
- Yêu cầu các đơn vị bầu cử mở và đóng hòm phiếu đúng giờ quy định,
không khuyến khích hoàn thành sớm việc bỏ phiếu.
4.2. Đổi mới cách thức tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ
- Về cách thức tuyển chọn công chức:
Phương pháp tuyển dụng và đề bạt cán bộ sai lầm có thể dẫn đến hệ quả là
những người được lựa chọn sau khi giữ các vị trí quyền lực sẽ có các hành vi
tham nhũng, xa rời đạo đức công vụ - những cam kết mà họ đã thực hiện khi
được tuyển dụng hoặc đề bạt. Để khắc phục những khiếm khuyết này, chúng ta

4

Xem: Lưu Văn Quảng (2010), Hệ thống bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp – Lý thuyết và hiện thức, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.224-227.

18


phải thực hiện một số giải pháp mang tính đột phá đối với công tác tuyển dụng và
đề bạt cán bộ, nhằm sớm ngăn chặn tình trạng tham nhũng, vốn diễn ra khá phổ
biến tại các cơ quan công quyền.
Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, việc tạo ra một cơ chế tuyển dụng công
chức theo nguyên tắc “mở” và cạnh tranh, công khai và minh bạch sẽ sớm góp
phần chấm dứt tình trạng tiêu cực diễn ra trong quá trình tuyển lựa nhân sự. Giải
được bài toán này thì mới có thể nghĩ đến việc áp dụng các hình thức quản lý
khác nhau cho phù hợp với từng đối tượng (hệ thống chức nghiệp hay theo việc

làm) và làm cho công chức luôn luôn đứng trước ‘áp lực” phải tích cực hoàn
thành trách nhiệm, đề cao đạo đức công vụ.
Cần phải sửa đổi pháp lệnh cán bộ công chức theo hướng không tuyển
dụng suốt đời mà thực hiện chế độ hợp đồng lao động linh họat đối với đội ngũ
công chức để có cơ chế, chính sách quản lý mang lại hiệu quả cao. Cụ thể, pháp
lệnh công chức ở nước ta nên được sửa đổi theo hướng công chức phải ký hợp
đồng lao động, cho phép thủ trưởng cơ quan chấm dứt hợp đồng nếu công chức
mắc khuyết điểm trong công tác, hoặc không đủ năng lực thực thi công việc. Đây
là việc làm có ý nghĩa quyết định, nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ công
chức nói chung, góp phần đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính và chống
tham nhũng.
Do phải làm việc trong một môi trường “mở” và mang tính cạnh tranh, nên
các công chức phải thường xuyên nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công
việc một cách tốt nhất. Không ai có thể chắc chắn rằng, một khi đã được tuyển
dụng vào làm việc trong bộ máy thì sẽ được giữ vị trí đó mãi mãi, suốt đời. Nếu
không nỗ lực vươn lên, không vượt qua được các thử thách của những kỳ thi
tuyển, thì người đó có thể bị những người xuất sắc hơn thế chỗ. Môi trường đó sẽ
tạo ra một sự thay đổi hết sức năng động, tạo ra một cơ chế “sàng lọc”, giúp chọn
được những người có tài năng thực sự.
Việc xây dựng được các tiêu chí cho các vị trí công việc cũng có ý nghĩa
quan trọng, theo đó việc thiết kế mỗi chức vụ có độ khó, độ rộng xác định đối với
mỗi công việc; độ rộng để tạo cho công việc của mỗi chức vụ có nội hàm tương
19


đối rộng khuyến khích mọi người phấn đấu. Những người được đề cử cần phải có
dự án, chương trình hành động đối với công việc sẽ đảm nhiệm; công bố công
khai để mọi người so sánh, lựa chọn.
- Minh bạch hóa việc bổ nhiệm cán bộ
Có thể nói, hoạt động tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ là cơ sở ban đầu để

đảm bảo cho các hoạt động khác trong quản lý nhà nước. Thế nhưng những quy
định về hoạt động này còn quá sơ sài, chưa có sự đầu tư nghiên cứu để tìm ra
những nguyên tắc khoa học, khách quan, những phương pháp thích hợp. Chừng
nào cơ chế bầu cử và bổ nhiệm cán bộ còn chưa rõ ràng và dân chủ thì những tiêu
cực, tham nhũng vẫn còn tiếp tục có cơ hội để phát triển.
Minh bạch hóa việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ là điều kiện để nhân dân có
thể tham gia vào việc giám sát quyền lực, theo đó mọi tiêu chuẩn, điều kiện, thủ
tục liên quan đến việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ đều phải được công bố một cách
công khai đến từng cán bộ trong cơ quan, đơn vị.
- Gắn quyền hạn với trách nhiệm cá nhân
Một công việc có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc phòng chống tham
nhũng hiện nay ở nước ta là phải nghiêm túc xem xét lại cơ chế lãnh đạo, quản lý.
Đã đến lúc chúng ta cần thay cơ chế “lãnh đạo tập thể” bằng cơ chế giao việc cụ
thể cho đầu mối chịu trách nhiệm. Cần mạnh dạn trao quyền tuyển dụng và đề bạt
cán bộ dưới quyền cho chính người lãnh đạo trực tiếp để buộc họ phải chịu trách
nhiệm về sự bổ nhiệm của mình, có quyền cách chức khi cấp dưới làm sai. Đến
lượt họ, nếu bị phát hiện làm sai, họ sẽ bị cấp trên trực tiếp của mình kỷ luật hay
cách chức. Ở đây quyền hạn gắn với trách nhiệm. Quyền lực được giao đầy đủ,
nhưng cùng với nó là một sự thiết kế để quyền lực có thể bị kiểm soát, là một sự
phòng ngừa với các biện pháp trừng phạt khi cá nhân những người được giao
quyền lạm quyền, vi phạm “luật chơi”. Những người được ủy quyền cần phải
hiểu rằng, bất kỳ lúc nào họ cũng có thể bị miễn nhiệm, cách chức nếu có sai
phạm ngay trong nhiệm kỳ; điều này buộc họ sẽ phải có trách nhiệm với xã hội,
với nhân dân.

20


Bên cạnh việc giao thêm quyền hạn và trách nhiệm cho cá nhân những
người đứng đầu một cách rõ ràng, thì trong điều kiện ở nước ta hiện nay, việc xác

định trách nhiệm của người giới thiệu, đề bạt cán bộ cũng là công việc quan trọng
để nâng cao chất lượng công tác cán bộ.
4.3.Về các điều kiện cho người dân thực hiện quyền giám sát các đại
diện và thực hiện quyền bãi nhiệm các đại diện
Cần nhấn mạnh rằng, để chống tham nhũng một cách hiệu quả, điều quan
trọng nhất vẫn là phải thiết kế một cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể
trong bộ máy nhà nước. Bởi vì, chỉ nhà nước mới có độc quyền cưỡng chế hợp
pháp và mới đủ sức mạnh và nguồn lực để vô hiệu hóa các hành vi tham nhũng
của các công chức trong chính bộ máy của mình. Sự tham gia của người dân
thông qua các kênh khác nhau dù là quan trọng, cũng chỉ có ý nghĩa bổ sung cho
sự giám sát giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, chứ nó không mang tính quyết
định.
- Về cơ chế giám sát các đại diện: Để tạo điều kiện cho người dân tham
gia phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả, cần xây dựng những cơ chế nền
tảng để họ có thể thực hiện quyền giám sát của mình đối với các đại diện. Các
giải pháp cụ thể cần xem xét có thể như sau:
- Ban hành Luật về tự do thông tin: Như đã phân tích, giữa người dân và các
công chức trong bộ máy nhà nước luôn có sự “bất đối xứng thông tin”. Chính sự
khác biệt này tạo nên những lợi ích “độc quyền” cho các công chức trong bộ máy
và do đó làm tăng chi phí kiểm soát, giám sát của người dân. Để giảm bớt sự bất
cân xứng này phải thiết lập những quy định, luật lệ để tăng cường sự minh bạch,
công khai về thông tin, cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước.
Luật về tự do thông tin cần phải quy định rõ các loại thông tin được công
khai, theo đó chỉ những thông tin thuộc bí mật nhà nước ảnh hưởng đến an ninh,
quốc phòng, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh là miễn trừ tiết lộ. Người dân có
quyền tiếp cận tất cả các loại thông tin không thuộc phạm vi miễn trừ và tương
ứng với nó là quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải cung cấp
thông tin. Nhà nước phải tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng, đồng bộ. Đó là những
21



quy định về quy trình, thủ tục mà người dân cần thực hiện để tiếp cận thông tin
cần thiết.
- Nhà nước cần tạo điều kiện cho sự tham gia tích cực của công chúng, các tổ
chức xã hội thông qua các biện pháp như sẵn sàng hợp tác với người dân, sẵn
sàng cung cấp thông tin, hỗ trợ cho sự giám sát của xã hội người dân.
- Nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội của người dân đối với hoạt động phòng,
chống tham nhũng, bởi vì đây là hoạt động cần có sự hợp tác mang tính tập thể.
Cần tạo điều kiện cho xã hội dân sự kiểm soát hoạt động của các nhà chính trị và
các cơ quan công quyền. Những người dân, các hiệp hội, các tổ chức phi chính
phủ giữ một vai trò quan trọng nhất trong việc xây dựng ý thức này. Đối với các
tổ chức quần chúng như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên… có thể
lấy kết quả tuyên truyền, xây dựng ý thức về chống tham nhũng cho người dân là
tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức. Một khi người dân và các tổ
chức của xã hội dân sự cùng chia sẻ mạnh mẽ những nhận thức chung về sự cần
thiết và mối nguy hại của hành vi tham nhũng đối với sự phát triển của xã hội, thì
nó sẽ tạo ra những áp lực về mặt đạo đức cho sự thay đổi nhận thức của các nhà
chính trị và các công chức.
- Bên cạnh việc xây dựng một cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập
(hiện nay Ủy ban phòng chống tham nhũng Trung ương do Thủ tướng Chính phủ
đứng đầu, trong khi Ủy ban phòng chống tham nhũng các cấp do Chủ tịch Ủy ban
Nhân dân các cấp đứng đầu, nên dẫn đến sự “xung đột lợi ích” của cơ quan này,
khi bản thân họ là những đối tượng có nguy cơ tham nhũng cao nhất lại trở thành
người chỉ đạo việc phòng, chống tham nhũng), cần xây dựng cơ chế phối hợp
chặt chẽ giữa cơ quan chuyên trách chống tham nhũng với các tổ chức phi chính
phủ và với các cá nhân. Cơ quan này sẽ là đầu mối kết nối, hỗ trợ các chủ thể
khác của xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng.
- Thành lập một Trung tâm lưu trữ thông tin trực thuộc Quốc hội. Cơ quan này
sẽ cung cấp các thông tin liên quan đến hồ sơ hoạt động của các đại biểu quốc
hội, cho tới hội đồng nhân dân các cấp, cùng các thông tin liên quan đến hoạt


22


động của bộ máy nhà nước nói chung. Cần có một quy chế cung cấp thông tin,
đặc biệt là những thông tin liên quan đến các vụ án tham nhũng.
- Xây dựng Luật bảo vệ người chống tiêu cực, tham nhũng. Luật này khuyến
khích người dân tố cáo các hành vi sai trái, tham nhũng của các đại diện, các
công chức trong bộ máy. Hệ thống bảo mật thông tin cần được thiết lập, trong đó
cần phải đảm bảo rằng, cơ quan phòng, chống tham nhũng sẽ không tiết lộ bí mật
về người đã cung cấp tin, có các biện pháp bảo vệ khi họ gặp nguy hiểm do các
hành vi trả thù từ phía những người bị tố cáo.
- Củng cố các nền tảng cần thiết để chống tham nhũng như xây dựng cơ chế
đăng ký và công khai tài sản của quan chức chính phủ. Đối với các chức danh
này cần có sự kiểm tra, giám sát tài sản thường xuyên, khi cần thiết họ phải có
trách nhiệm giải trình, cung cấp các bằng chứng về sở hữu tài sản bất minh. Họ
phải giúp các cơ quan chức năng chứng minh được sự trong sạch của bản thân.
- Hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, kiểm soát các tài khoản ngân hàng
cũng khiến cho các tài khoản đen (giả danh), các quỹ đen, tiền hối lộ dễ bị phát
hiện hơn.
- Về cơ chế bãi nhiệm:
Cơ chế ủy quyền và cơ chế bãi nhiệm quyền lực luôn phải gắn bó với
nhau. Người dân sử dụng lá phiếu của mình để lựa chọn các đại diện, nhưng
họ cũng có thể thực hiện quyền bãi miễn các đại diện khi những người này
không thể hiện được vai trò của mình, hoặc có các hành vi lạm quyền, tham
nhũng, đi ngược lại với lợi ích của người chủ. Ở cấp cao nhất, chúng ta cần có
quy định rõ ràng về các thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Chính phủ khi
cơ quan này hoạt động kém hiệu quả, nhằm tạo ra một sự nhất quán đối với hệ
thống ủy quyền.
Hiện ở nước ta đã có những quy định về vấn đề này, nhưng trên thực tế,

dường như chưa có trường hợp nào Quốc hội tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm đối
với cơ quan hành pháp. Bên cạnh lý do về chính trị, những thủ tục về mặt kỹ
thuật cũng khiến cho Quốc hội khó có thể thực hiện được quyền này. Do vậy,
chúng ta cần xem xét lại các quy định cho phù hợp với thực tế, trong đó tính đến
23


bối cảnh Quốc hội của chúng ta chỉ do một đảng duy nhất cầm quyền, không có
đảng đối lập, do vậy điều kiện để có thể tiến hành các thủ tục bỏ phiếu bất tín
nhiệm cũng phải mềm dẻo hơn so với các quốc gia đa đảng khác.
Ở cấp độ thấp hơn, các thủ tục pháp lý cũng cần đưa ra những quy định rõ
ràng và mang tính khả thi. Chúng ta cần nhấn mạnh nguyên tắc quyền lực và
trách nhiệm cá nhân của các nhà chính trị, các công chức gắn liền với nhau,
quyền lực càng cao, trách nhiệm càng nặng. Bởi vì, nếu không quy được trách
nhiệm cho những người được ủy quyền, quyền lực sẽ mất đi tính hiệu lực trên
thực tế, do nó đánh mất chức năng điều chỉnh hành vi thông qua cơ chế thưởng phạt. Ngay cả trong trường hợp các hành vi tham nhũng bị phát hiện, nếu không
xét xử nghiêm minh cũng sẽ gây ra những hiệu ứng xấu, và những nỗ tuyên
truyền, giáo dục người dân về ý thức chống tham nhũng sẽ bị hoài nghi; hoặc khi
đưa các vụ việc ra xét xử, nếu áp dụng mức phạt quá thấp cũng sẽ không có tác
dụng răn đe, đặc biệt trong điều kiện xác suất của việc phát hiện tham nhũng vốn
đã thấp, chi phí lại cao5.
Như vậy, thông qua cơ chế ủy quyền và giám sát các đại diện, người dân
một cách gián tiếp đã tham gia vào quá trình phòng, chống tham nhũng. Quá trình
này sẽ trở nên có ý nghĩa hơn nếu như chúng ta thiết kế được một hệ thống ủy
quyền có thể sàng lọc và lựa chọn được những người có “đức”, có “tài”, hướng
tới các giá trị phụng sự cho lợi ích của cộng đồng, của đất nước và một hệ thống
giám sát quyền lực đủ sức răn đe những người có ý định tham nhũng./.

5


Xem: Ngô Huy Đức (2008), Hiệu quả chống tham nhũng qua khảo sát mô hình một số nước trên thế
giới, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng chống tham nhũng ở Việt
Nam hiện nay”, PGS, TSKH Phan Xuân Sơn (Chủ nhiệm)

24



×