Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

NÂNG CAO VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI DÂN TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.34 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
Môn: Quyền lực Chính trị

ĐỀ TÀI: NÂNG CAO VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

Học viện thực hiện: Nguyễn Thị Hòa

Hà Nội - 2011
1


1. Những quan niệm về vai trò của người dân trong phòng, chống
tham nhũng
Tham nhũng là căn bệnh của quyền lực, nó gắn liền với việc thực thi quyền
lực nhà nước trong đời sống xã hội. Ngày nay, khi mà xã hội càng tiến bộ, văn
minh, những giá trị dân chủ được nhiều quốc gia theo đuổi thì tham nhũng dường
như lại đang là lực cản của quá trình tiến bộ, dân chủ đó. Nó làm cho dân chủ
được thực thi một cách hình thức, cắt xén; sự tham gia của người dân vào quản lý
nhà nước hay nhưng câu nói mang tính tuyên ngôn như “quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”, “chủ quyền nhân dân” trở nên mang tính phong trào, hô hào,
khẩu hiệu; còn trên thực tế thì lại diễn ra tình trạng ngược lại: người dân ủy
quyền nhưng bị mất quyền, bởi họ đã trao nhầm quyền cho những người thực thi
quyền lực.
Từ những giải thích về nguồn gốc ra đời và bản chất của quyền lực công,
quyền lực nhà nước nói riêng, có thể thấy rõ mối quan hệ giữa quyền lực nhân dân
và quyền lực nhà nước, theo đó người dân trao quyền cho nhà nước để nhà nước


thay mặt họ thực hiện chức năng công quyền. Trong mối quan hệ đó, nhân dân là
chủ thể tối cao của quyền lực, khi bộ máy nhà nước không thực hiện đúng sự ủy
quyền của người dân, xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, vi
phạm nguyên tắc dân chủ, thì nhân dân có quyền phá bỏ bộ máy nhà nước đó đi để
lập ra cho mình một bộ máy nhà nước mới tiến bộ hơn. Chính vì thế, tất cả các bản
Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận tinh thần “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân”, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước – một cơ chế thể hiện sự hiện diện
của nhân dân với tính cách là chủ thể kiểm soát đối với quyền lực nhà nước, và lợi
ích, ý chí của người dân với tính cách là cơ sở, căn cứ để nhìn nhận, để thực hiện
việc kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả.
Thế nhưng trên thực tế, mối quan hệ giữa quyền lực nhân dân và quyền lực
nhà nước không phải luôn diễn ra một cách suôn sẻ như vậy, nhất là khi cơ chế
làm chủ và giám sát của người dân chưa đủ mạnh để phòng ngừa và ngăn chặn có
hiệu quả các biểu hiện của sự tha hóa quyền lực.

2


Ở Việt Nam hiện nay, tham nhũng đã và đang là biểu hiện có tính phổ biến
và nguy hiểm nhất của sự tha hóa quyền lực nhà nước. Tham nhũng xuất hiện ở
mọi ngành, mọi cấp, len lỏi vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ
lĩnh vực kinh tế, xây dựng, giao thông… cho đến cả những lĩnh vực mang tính
nhân đạo, nhân văn như giáo dục, y tế, công tác từ thiện, v.v.. Trước tình trạng
tham nhũng ngày càng gia tăng và sự yếu kém của chính quyền trong điều hành
và quản lý nhà nước, người dân cảm thấy lòng tin của mình đối với bộ máy thực
thi quyền lực bị tổn thương, nó không còn được tôn trọng và bảo vệ như những gì
mà Hiến pháp và pháp luật quy định, trái lại nó còn bị vi phạm bởi những ng ười
đại diện cho họ trong thực thi quyền lực nhà nước.
Qua nghiên cứu các vụ án tham nhũng bị phát hiện và xử lý thời gian qua
cho thấy, người dân – người chủ của quyền lực nhà nước – lại luôn ở vị trí yếu

thế hơn so với những người đại diện cho họ trong thực thi quyền lực. Chính vì
vậy, khi có những việc liên quan đến chính quyền, họ không những phải cầu
cạnh, xin xỏ các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết, mà còn phải “bôi
trơn”, hối lộ, đáp ứng sự nhũng nhiễu, đòi hỏi của các quan chức để được hưởng
sự “phục vụ” từ phía chính quyền mà đáng ra họ có quyền được hưởng. Trước
bức xúc về tình trạng tham nhũng, trong dân đã hình thành những cách nói mỉa
mai về bộ máy nhà nước, họ cho rằng các cơ quan hành chính không còn là
những cơ quan phục vụ dân nữa, mà đó là các cơ quan “hành dân là chính”, các
cán bộ tham nhũng là những “vật sống ký sinh” trên cơ thể nhân dân.
Vậy tại sao cuộc đấu tranh với tham nhũng ở Việt Nam lại không đem đến
kết quả như mong muốn? Những nỗ lực chống tham nhũng từ phía nhà nước và
người dân đều thất bại?
Thứ nhất, so với các loại quyền lực khác, quyền lực nhà nước có sức mạnh
cưỡng chế hợp pháp thông qua một bộ máy đồ sộ với những công cụ, phương
tiện mà luật pháp quy định. Những cán bộ, công chức tham nhũng là những
người nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước, họ nắm trong tay các công cụ
cưỡng chế hợp pháp, trong khi đó người dân thường không có hoặc có rất ít các
công cụ, phương tiện đủ sức mạnh để đối phó với những người có quyền lực.
3


Chính vì vậy, khi hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức bị phát hiện, những
kẻ tham nhũng không từ một thủ đoạn nào để bảo vệ bản thân mình, sẵn sàng sử
dụng tối đa thẩm quyền, các công cụ cưỡng chế và tất cả những gì họ có trong tay
để đối phó, áp chế với những người dân dám đấu tranh chống lại họ. Đó là chưa
kể đến một số vụ tham nhũng lớn, sự cấu kết giữa các quan chức rất chặt chẽ và
khó phá vỡ, vì nếu “anh chết thì tôi cũng chết” và cách tốt nhất để tồn tại là
“chúng ta phải bảo vệ lẫn nhau”, trong khi đó sự liên kết giữa những người dân
trong cuộc chiến chống tham nhũng là rất lỏng lẻo và dễ vỡ bởi nó mang tính tự
phát, và sự gắn kết về lợi ích của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng

chưa cao.
Thứ hai, những quan chức tham nhũng thường là những người có trình độ
cao và hiểu rõ chính sách, luật pháp của nhà nước, trong khi đó người dân thường
không hiểu hoặc hiểu rất ít về luật pháp và các chính sách do nhà nước ban hành.
Hơn nữa, việc làm luật và chính sách lại thường được coi là sự độc quyền của nhà
nước, quy trình hoạch định chính sách được tiến hành khép kín bởi bộ máy công
chức mà thiếu bàn bạc, thảo luận và hỏi ý kiến rộng rãi trong dân. Do đó, trong
quá trình thực thi quyền lực, không ít cán bộ, công chức đã lợi dụng những kẻ hỡ
pháp lý, lợi dụng sự kém hiểu biết luật pháp của người dân để tham nhũng; cũng
có trường hợp luật pháp và chính sách được ban hành luôn mang tính cục bộ, tạo
điều kiện thuận lợi cho cơ quan quản lý và đẩy những khó khăn về phía người
dân.
Thứ ba, đó là tình trạng bất đối xứng thông tin trong mối quan hệ giữa cán
bộ, công chức và người dân. Theo đó, cán bộ, công chức là người nắm rõ thông
tin, thậm chí là sự độc quyền thông tin về những lĩnh vực mà mình quản lý, còn
người dân thì luôn trong tình trạng thiếu thông tin, luôn là người thụ động về mặt
tiếp nhận thông tin từ phía nhà nước. Với lợi thế về mặt thông tin so với người
dân, không ít quan chức là lợi dụng những thông tin đó để tìm kiếm những món
lợi kếch xù mà thực chất là tham nhũng. Chẳng hạn, sự thiếu công khai, minh
bạch về quy hoạch đô thị đã giúp nhiều quan chức giàu lên nhờ đầu cơ bất động

4


sản, sự thiếu minh bạch trong việc nhập khẩu vàng đã làm cho nhiều quan chức
giàu lên nhờ đầu cơ vào vàng,…
Qua những phân tích trên, trong giới hạn của khung nghiên cứu về tham
nhũng ở Việt Nam, có thể thấy người dân thường ở thế yếu hơn so với chính
quyền, họ luôn bị coi là “thấp cổ, bé họng” hơn nhiều so với các quan chức tham
nhũng. Và theo quy luật tự nhiên, kẻ mạnh sẽ chiến thắng kẻ yếu, cá lớn nuốt cá

bé thì người dân, với tư cách là cá nhân hay một vài người, rất khó mà chiến
thắng được những kẻ tham nhũng, và trong các cuộc chiến đó thì người dân
thường nhận những thất bại về mình. Nhiều vụ án tham nhũng được phát hiện và
xử lý trong thời gian qua đã cho thấy rất rõ điều này.
Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là người dân luôn bất lực với cuộc
chiến chống tham nhũng trong mọi hoàn cảnh. Trong xã hội, nếu quyền làm chủ
của nhân dân chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp lý mà không được thực
thi trên thực tế; nền dân chủ không có những cơ chế để người dân dễ dàng thực
hiện quyền làm chủ của mình, trách nhiệm của nhà nước không được giải trình rõ
ràng và cụ thể, thì đó là mảnh đất tốt cho sự tha hóa quyền lực và gia tăng tham
nhũng, và những nỗ lực chống tham nhũng từ phía người dân là điều không thể.
Còn trong các xã hội mà quyền làm chủ của người dân được tôn trọng và bảo vệ,
phương thức thực thi dân chủ đơn giản, thuận tiện cho người dân; sự ràng buộc
của chính quyền đối với người dân được đảm bảo bằng cơ chế trách nhiệm pháp
lý rõ ràng,… thì ở đó tính tích cực của người dân trong phòng, chống tham nhũng
được phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả, bởi trong các xã hội đó quyền lực được
xác định là công cụ để phục vụ dân chứ không phải là cái để các quan chức dựa
vào đó để đòi hỏi.
Thực tiễn đã cho thấy, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử đấu
tranh cho quyền tự do, dân chủ. Sự tiến bộ của một chế độ xã hội phải dựa trên sự
tham gia rộng rãi của người dân vào các quá trình chính trị, vào các quyết định
của đất nước. Vì vậy, việc mở rộng và phát huy dân chủ với tư cách là một kênh
để kiểm soát quyền lực ở nước ta là một việc làm hết sức cần thiết trong cuộc
chiến chống tham nhũng.
5


Ngày nay, chúng ta đang đẩy mạnh quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; phát huy dân chủ được xác định vừa là
mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ của quá trình cải cách về chính trị, chính vì

vậy việc trả lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân tham gia ngày càng sâu và có hiệu quả vào quá trình quản lý nhà nước
được xác định là giải pháp hàng đầu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng. Khi dân chủ
được phát huy một cách thực sự, trở thành đòi hỏi bức thiết không những của
nhân dân mà còn là nhu cầu cấp thiết từ phía nhà nước, thì nó sẽ tạo thành sức
mạnh hết sức to lớn trong cuộc chiến chống tham nhũng. Đó là vì người dân có
tai mắt ở khắp mọi nơi, các hành vi tham nhũng khó có thể mà qua được sự quan
sát và theo dõi của họ, do đó họ sẽ hành động khi quyền lợi của họ bị những
người đại diện cho họ vi phạm. Khi nói về ý nghĩa thực sự của dân chủ, Hồ Chí
Minh đã khẳng định rằng: “thực hành dân chủ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi công việc”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn làn dân liệu
cũng xong” với nghĩa là như vậy.
Để dân chủ trở nên thực chất, trở thành hành động và thói quen của người
dân, trước hết Đảng và Nhà nước phải thực sự mở rộng dân chủ và tạo cơ chế,
điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng thực hiện quyền làm chủ của mình. Dân
chủ phải được triển khai, cụ thể hóa thành các thể chế, chứ không phải chỉ là
những tuyên bố. Cụ thể, cần đa dạng hóa các hình thức thực hiện quyền làm chủ
của dân, đảm bảo các quyền tự do bầu cử và ứng cử, tự do tư tưởng và ngôn luận,
cụ thể hóa các quyền bãi miễn của dân đối với cán bộ, tạo điều kiện cho người
dân tiếp cận được thông tin, thực hiện trưng cầu dân ý, thúc đẩy sự phát triển của
truyền thông, xây dựng xã hội dân sự, thu hút sự tham gia của người dân vào quá
trình phản biện các quyết sách chính trị,… Hơn nữa, để chất lượng của dân chủ
được nâng cao, bên cạnh những thay đổi từ phía Đảng và Nhà nước, cũng đòi hỏi
phải có những thay đổi tích cực từ phía chủ thể quyền lực gốc đó là nhân dân.
Mấu chốt của vấn đề này là trình độ dân trí. Trình độ dân trí càng cao, người dân
càng tham gia vào quá trình chính trị, tham gia vào họat động giám sát quyền lực
6



nhà nước. Khi dân chủ được phát huy mạnh mẽ, tự nó sẽ là liều thuốc kháng sinh
hết sức hiệu quả trong việc chữa trị tận gốc các căn bệnh của nhà nước, làm cho
cơ thể nhà nước trở nên khỏe mạnh hơn.
Tuy nhiên, việc phát huy dân chủ phải đảm bảo giữ vững sự ổn định chính
trị, xã hội. Dân chủ, với vai trò là phương thức kiểm soát quyền lực, phải được
thực hiện trên tinh thần xây dựng chứ không phải là sự chống đối, gây rối. Vì vậy,
để dân chủ không bị lợi dụng vào những mục đích xấu, cần trừng trị nghiêm khắc
những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối, kích động nhân dân chống phá đất
nước.
Hiện nay, trong tư tưởng, tâm lý của không ít các nhà lãnh đạo, các chính
khách hiện nay tồn tại những mâu thuẫn về vấn đề thực thi dân chủ. Một mặt, họ
muốn thực thi các giá trị dân chủ trong xã hội, tạo điều kiện để người dân tham
gia vào các công việc của nhà nước; mặt khác, họ lại e ngại nếu dân chủ được
phát huy thì những khuyết tật của bộ máy, những sai lầm của công chức sẽ bị
phát hiện và tạo nên hình ảnh không tốt trong xã hội. Theo cách hiểu như vậy thì
dân chủ tức là trang bị cho người dân phương tiện, công cụ để chống lại chính
quyền, cản trở, gây khó khăn cho chính quyền. Chính những tư tưởng, cách nghĩ
như vậy đã làm cho quá trình dân chủ hóa bị chậm lại, làm cho những ý tưởng
dân chủ chỉ tồn tại một cách hình thức. Những giá trị về dân chủ được tuyên
truyền, còn việc thực thi dân chủ thì lại bị hạn chế. Vì vậy, để dân chủ được mở
rộng và phát huy tối đa thì những nhận thức như trên cần phải được xóa bỏ.
2. Địa vị pháp lý của người dân trong việc tham gia đấu tranh với nạn
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, Nhà nước đã ban hành rất nhiều đạo luật và văn
bản quy phạm dưới luật nhằm cụ thể hóa quyền làm chủ của người dân trên
những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đó cũng là tất yếu của quá trình
dân chủ hóa nhằm tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để người dân thực hiện
quyền làm chủ thực sự của mình, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch và hiệu
quả, phục vụ tốt trước đòi hỏi của xã hội và nhu cầu của nhân dân.

7


Giới hạn việc nghiên cứu quyền làm chủ của người dân trong đấu tranh với
nạn tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, bài viết tập trung vào việc phân tích cơ sở
pháp lý trực tiếp mà ở đó quy định rõ quyền và trách nhiệm của người dân – với
tư cách là chủ thể gốc của quyền lực, trong việc đấu tranh với quốc nạn tham
nhũng, từ đó chỉ ra những bất cập cần khắc phục nhằm tiếp tục phát huy dân chủ
đấu tranh hiệu quả với tham nhũng ở Việt Nam.
2.1 Cơ sở pháp lý trực tiếp quy định vị trí, vai trò của người dân trong
phòng, chống tham nhũng
Có thể nói, các quy định về vị trí pháp lý của người dân trong phòng,
chống tham nhũng được nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Tuy
nhiên, các nội dung được đề cập một cách trực tiếp hay gian tiếp trong các văn
bản đó đều thể hiện tinh thần sau:
Thứ nhất, trong cuộc chiến chống tham nhũng, người dân luôn được xác
định ở thế chủ động – vị thế của người chủ quyền lực, người đi tiên phong trong
cuộc chiến này. Điều này được thể hiện rõ trong một số văn bản pháp lý trực tiếp
liên quan đến chống tham nhũng.
Điều 6 Luật phòng, chống tham nhũng, khi bàn về quyền và nghĩa vụ của
công dân trong phòng, chống tham nhũng quy định: “Công dân có quyền phát hiện,
tố cáo hành vi tham nhũng, có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng”
Điều 64 Luật phòng, chống tham nhũng, quy định:
1. Công dân có quyền tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền.
2. Người tố cáo phải tố cáo trung thực, nêu rõ họ tên, địa chỉ, cung cấp
thông tin, tài liệu mà mình có và hợp tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền giải quyết tố cáo
Điều 1 Luật Khiếu nại, tố cáo (năm 2005) quy định:

1- Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền
8


trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, cơ quan, tổ chức.
Như vậy, Luật phòng, chống tham nhũng và Luật Khiếu nại, tố cáo đã cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp, coi việc khiếu nại, tố cáo là quyền Hiến định của
công dân. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân thực chất là quyền dân chủ trực
tiếp để người dân tham gia quản lý nhà nước và đấu tranh với nạn tham nhũng.
Đó cũng là công cụ để người dân tự bảo vệ mình và bảo vệ lợi ích chung của xã
hội khi bị các quan chức xâm phạm. Bằng các quyền đó, người dân giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước, góp phần
hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xã hội.
Với sự ra đời của những Luật này đã trang bị cho người dân những khung
pháp lý cơ bản để chống tham nhũng và các sai phạm trong hoạt động của bộ
máy nhà nước. Nội dung của những quy định này xác định việc chống tham
nhũng, tiêu cực không chỉ là trách nhiệm của riêng hệ thống chính trị, bộ máy
nhà nước, mà còn là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước là của dân, do
dân, vì dân thì trước hết nhân dân phải là người có quyền và trách nhiệm trong
việc xây dựng bộ máy nhà nước thật tốt để phục vụ mình.
Vậy tại sao người dân phải là lực lượng tiên phong trong cuộc chiến chống
tham nhũng?
Thực tế cho thấy người dân luôn là nạn nhân trực tiếp của các hành vi tham
nhũng, tiêu cực từ phía nhà nước. Khi tham nhũng, tiêu cực xảy ra, hậu quả đầu

tiên là người dân phải gánh chịu: tư cách “người chủ” của họ bị tước đoạt, quyền
và lợi ích của họ bị xâm phạm, họ bị mất đi các quyền được hưởng những dịch vụ
tốt nhất mà nhà nước có thể phục vụ, v.v.. Chính vì vậy, trước các hiện tượng
tham nhũng thì người dân là người bức xúc nhất, và nhu cầu về việc loại bỏ tham

9


nhũng khỏi đời sống xã hội cũng như xây dựng một bộ máy phục vụ tốt luôn là
đòi hỏi thường trực trong đầu họ.
Xuất phát từ thực tế trên, cùng với những áp lực về dân chủ hóa, các văn
bản pháp lý đều trao cho người dân những quyền cơ bản và được bảo đảm về mặt
pháp lý để trước hết người dân có thể tự bảo vệ mình trước các biểu hiện tham
nhũng và sau đó là bảo vệ lợi ích chung của xã hội khỏi sự xâm hại của tham
nhũng. Các biện pháp để người dân tham gia vào phòng, chống tham nhũng được
quy định trong hầu hết các văn bản pháp luật, trong đó thực thi có hiệu quả nhất
hiện nay đó là việc thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo đối với cá nhân, tổ chức
có hành vi tham nhũng và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy
định của luật pháp. Thực tế cho thấy, việc nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo bước đầu đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh với tham nhũng, hầu
hết các vụ án tham nhũng lớn nhỏ bị phát hiện và xử lý trong thời gian qua chủ
yếu xuất phát từ việc khiếu nại, tố cáo của người dân chứ không phải là do các cơ
quan nhà nước tự phát hiện.
Thứ hai, các văn bản pháp lý liên quan đến phòng, chống tham nhũng đi
theo hướng tạo mọi điều kiện thuận lợi để người dân có thể thực hiện quyền làm
chủ của mình, tham gia có hiệu quả vào đấu tranh với nạn tham nhũng.
Có thể thấy, khi đã xác định người dân là lực lượng tiên phong trong cuộc
chiến chống tham nhũng thì bên cạnh việc quy định quyền cho họ, việc xác định
cơ chế pháp lý cũng như các biện pháp đồng bộ để người dân thuận lợi trong việc
thực hiện quyền của mình là hết sức quan trọng. Trong các cơ chế, biện pháp đó,

việc công khai, minh bạch hóa hoạt động của nhà nước được coi là cơ chế hữu
hiệu để người dân giám sát và phát hiện các hành vi tham nhũng. Đó cũng là cách
thức chống tham nhũng đang được phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, bởi vì:
- Công khai, minh bạch còn là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các
hành vi sai trái, tiêu cực, các biểu hiện làm sai lệch, suy giảm hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước

10


- Công khai, minh bạch là một trong những tiền đề, điều kiện quan trọng để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, thúc đẩy sự tham gia của người dân
vào đời sống chính trị đất nước
- Công khai, minh bạch là cơ sở đảm bảo tính trách nhiệm của chính quyền,
là yêu cầu nội tại, xuất phát từ bản chất và là một trong những chuẩn mực hoạt
động của bộ máy nhà nước, có vai trò tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước.
Như vậy, công khai, minh bạch hoạt động của bộ máy chính quyền là một
trong những đòi hỏi cần thiết của quá trình dân chủ hóa, và việc thực hiện điều
này trên thực tế cũng được coi là thước đo về trình độ phát triển của một nền dân
chủ. Nó có thể giúp tăng cường trách nhiệm chính trị của nhà nước và làm giảm
cơ hội cho những hành vi tiêu cực, tham nhũng.
Qua quan sát các văn bản pháp lý của nước ta, nhất là các văn bản pháp
luật liên quan đến phòng, chống tham nhũng, cũng cho thấy rõ xu hướng đòi hỏi
việc thiết lập các biện pháp công khai, minh bạch hóa hoạt động của chính quyền,
nhất là trong Luật phòng, chống tham nhũng và Luật khiếu nại, tố cáo. Chẳng
hạn, để người dân có cơ sở trong việc giám sát, phát hiện và ngăn ngừa tham
nhũng, Luật phòng, chống tham nhũng đã đưa ra nhiều quy định buộc các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải tiến hành công khai, minh bạch hóa
hoạt động của mình để nhân dân giám sát nhằm phòng ngừa tham nhũng như:

công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản, trong quản lý dự
án đầu tư xây dựng (Điều 13,14); công khai minh bạch về tài chính và ngân sách
nhà nước, việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của dân (Điều 15, 16);
công khai minh bạch trong quản lý và sử dụng đất, nhà ở (Điều 21, 22), v.v..; xây
dựng quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức (Điều
36-43); Minh bạch hóa tài sản, thu nhập của cán bộ (Điều 44-53); chế độ trách
nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng (Điều
54-55),…Có thể thấy, các quy định này đã phần nào hạn chế được những biểu
hiện tham nhũng, bởi nó tạo ra sự ràng buộc trách nhiệm công khai, minh bạch
của nhà nước đối với người dân, do đó nhân dân có thể biết được chính quyền
11


đang làm gì cho mình và những người được mình ủy quyền có làm đúng với các
cam kết hay không.
Nếu như Luật phòng, chống tham nhũng chủ yếu tập trung vào việc tạo lập
cơ sở pháp lý trực tiếp để người dân có thể phát hiện tham nhũng như đã nêu trên,
thì Luật khiếu, nại tố cáo lại tập trung vào việc xây dựng quy trình xử lý những
khiếu nại, tố cáo của công dân, trong đó cũng bao hàm cả quy trình, thủ tục xử lý
khiếu nại, tố cáo liên quan đến tham nhũng (Điều 30-47 và Điều 65 – 73). Theo
đó, việc giám sát và phát hiện tham nhũng trước hết được xác định quyền của
công dân, còn việc xử lý, giải quyết các hành vi tham nhũng cụ thể lại là trách
nhiệm của nhà nước. Và để nâng cao trách nhiệm của chính quyền trong toàn bộ
quá trình xử lý tham nhũng, người dân cũng được luật pháp trao quyền giám sát
quá trình xử lý các hành vi tham nhũng.
Như vậy, để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, các quy định pháp lý luôn
đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa người dân và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
trong đấu tranh với tham nhũng. Theo đó, trách nhiệm của nhà nước là phải tạo
điều kiện thuận lợi nhất để người dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình,
nhất là các khiếu tố liên quan đến tham nhũng, còn trách nhiệm của người dân là

phải tích cực, chủ động để phối hợp cùng với nhà nước trong việc phát hiện và xử
lý tham nhũng. Nếu thiếu một trong hai điều này thì việc phòng, chống tham
nhũng sẽ giảm đi hiệu quả.
Thứ ba, nhận thức rằng phần lớn các vụ tiêu cực, tham nhũng xuất hiện
trong mối quan hệ giữa người dân và chính quyền ở cơ sở, do đó để người dân có
thể tham gia phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiệu quả thì phải bắt đầu từ cơ
sở, vì cơ sở chính là nơi mà chính quyền gần dân nhất, và những sai phạm của
chính quyền dễ bị người dân phát hiện nhất. Đó cũng là lý do để Pháp lệnh về
dân chủ cơ sở ra đời nhằm củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững
mạnh, tạo cơ hội để quyền làm chủ của người dân địa phương được phát huy
mạnh mẽ trong các sinh hoạt chính trị và đời sống cộng đồng.
Thực tiễn cho thấy, Pháp lệnh dân chủ cơ sở đã trao cho người dân nhiều
cơ hội để họ có thể trực tiếp thực hiện quyền làm chủ của mình ngay tại nơi họ
12


sinh sống và làm việc; hay nói cách khác, người dân được xác định là chủ thể
đích thực của đời sống chính trị cơ sở, còn chính quyền cơ sở cũng chỉ là công cụ
để giúp người dân trong việc thực hiện quyền dân chủ đó.
Với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, Pháp lệnh
dân chủ cơ sở đã đặt người dân vào vị trí trung tâm của đời sống chính trị cơ sở
nói chung và hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Với các quy định cụ thể hóa
phương châm nêu trên, quyền làm chủ của người dân được xác định một cách tối
đa nhất và trở thành một công cụ mạnh nhất để thúc đẩy tính minh bạch cũng như
trách nhiệm của chính quyền và sự tham gia của người dân trong các hoạt động
chính trị-cộng đồng cơ sở, trong đó phòng, chống tiêu cực, tham nhũng cũng là
một nội dung trọng tâm của việc thực hiện các quyền dân chủ đó. Điều này thể
hiện ở các quy định sau:
Điều 5. Những nội dung công khai để nhân dân biết
1. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phương án chuyển dịch cơ cấu kinh

tế và dự toán, quyết toán ngân sách hằng năm của cấp xã.
2. Dự án, công trình đầu tư và thứ tự ưu tiên, tiến độ thực hiện, phương án
đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình
trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn cấp xã.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã trực tiếp giải quyết
các công việc của nhân dân.
4. Việc quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương
trình, dự án đối với cấp xã; các khoản huy động nhân dân đóng góp.
5. Chủ trương, kế hoạch vay vốn cho nhân dân để phát triển sản xuất, xoá
đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo được vay vốn phát
triển sản xuất, trợ cấp xã hội, xây dựng nhà tình thương, cấp thẻ bảo hiểm y tế.
6. Đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới
hành chính liên quan trực tiếp tới cấp xã.
7. Kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, tham nhũng
của cán bộ, công chức cấp xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố; kết quả lấy phiếu tín
13


nhiệm Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp xã.
8. Nội dung và kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã mà chính quyền cấp xã đưa ra lấy ý kiến
nhân dân theo quy định tại Điều 19 của Pháp lệnh này.
9. Đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính khác do
chính quyền cấp xã trực tiếp thu.
10. Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính, giải quyết các công
việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện.
11. Những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết.Những nội

dung công khai
Điều 10. Nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây
dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ
dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc
khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật.
Điều 13. Những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết
1. Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố.
2. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố.
3. Bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư
của cộng đồng.
Điều 19. Những nội dung nhân dân tham gia ý kiến
1. Dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cấp xã; phương án
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất; đề án định canh, định cư, vùng kinh tế
mới và phương án phát triển ngành nghề của cấp xã.
2. Dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều
chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của cấp xã.
3. Dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn cấp xã;
chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ
tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư.
14


4. Dự thảo đề án thành lập mới, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh
địa giới hành chính liên quan trực tiếp đến cấp xã.
5. Những nội dung khác cần phải lấy ý kiến nhân dân theo quy định của
pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền
cấp xã thấy cần thiết.
Điều 24. Hình thức để thực hiện việc giám sát của nhân dân
1. Nhân dân thực hiện việc giám sát thông qua hoạt động của Ban thanh tra

nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Trình tự, thủ tục hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu
tư của cộng đồng được thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Nhân dân trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc kiến nghị thông qua Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận cấp xã, Ban
thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Có thể nói, những quy định trên đã xác lập mạnh mẽ quyền làm chủ của
nhân dân và trách nhiệm của chính quyền cơ sở. Điều này thực sự đã tạo ra
những hoạt động chính trị nhằm mở rộng quyền làm chủ cho nhân dân vì vậy đã
thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đồng thời, nhân dân cũng tham
gia ngày càng có hiệu quả vào quá trình giám sát hoạt động của Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân các cấp, của đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, đảng
viên; giám sát kiểm tra việc thu chi các quỹ, quản lý và sử dụng đất đai, xây dựng
và nghiệm thu, quyết toán công trình từ nguồn vốn do nhân dân đóng góp. Ngoài
việc đóng góp ý kiến trực tiếp với cán bộ, đảng viên ở các cấp, ngành, người dân
còn gửi đơn thư đến các cơ quan chức năng, cơ quan thông tin báo chí ở trung
ương và địa phương góp ý, phát hiện những sai phạm về kinh tế, tham nhũng,
tiêu cực.
2.2 Những hạn chế của các văn bản pháp lý quy định về sự tham gia của
người dân trong phòng chống tham nhũng
Một mâu thuẫn lớn được đặt ra là: Tại sao các quy định về vị trí pháp lý
của người dân trong phòng, chống tham nhũng đã có nhưng trên thực tế thì công
15


tác chống tham nhũng nói chung còn chưa hiệu quả và sự tham gia của người dân
trong công tác đấu tranh với tham nhũng còn nhiều yếu kém? Những hạn chế này
biểu hiện trên thực tế ở chỗ rất nhiều quy định của pháp luật quá chung chung
hoặc không được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thậm chí có không ít quy

định thiếu tính khả thi, nhất là những quy định liên quan đến việc xác định vị trí,
vai trò của người dân trong phòng, chống tham nhũng. Chẳng hạn, khi đánh giá
về việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ cơ sở, nhiều nghiên cứu thẳng thắn chỉ ra
rằng chúng ta chưa thực hiện Pháp lệnh này được bao nhiêu trên thực tế. Quy
định về lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hàn các chủ trương, chính sách, các dự
án quan trọng về đầu tư cơ sở hạ tầng chưa được thực hiện nghiêm túc. Chưa có
cơ chế và tạo điều kiện để người dân giám sát các chương trình, dự án đầu tư,
việc công khai, minh bạch về tài chính, ngân quỹ, đấu thầu, mua bán vật tư, các
hợp đồng kinh tế, v.v.. vẫn còn hình thức, thiếu công khai, minh bạch, vì vậy
nhiều công trình để thất thoát vốn, chất lượng kém, hiệu quả thấp. Việc tổ chức
cho người dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể và góp ý cho cán
bộ, chủ chốt không ít nơi còn tiến hành hình thức, số lượng và thành phần tham
gia gop ý chưa nhiều. Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa thực hiện đối thoại trực tiếp
báo cáo kiểm điểm trước dân và nghe dân góp ý. Chế độ tự phê bình chưa được
thực hiện rộng rãi, chưa trở thành ý thức thường xuyên ở cơ sở. Vai trò giám sát
của đoàn thể, của ban thanh tra nhân dân chưa đủ mạnh, cơ chế hoạt động còn
mang tính bị động, sợ chính quyền, năng lực và trình độ của cán bộ còn nhiều
hạn chế, kết quả giám sát chưa cao.
Trong đánh giá việc thực thi Luật phòng, chống tham nhũng và Luật khiếu
nại, tố cáo, những hạn chế được chỉ ra cũng không ít. Chẳng hạn, các quy định về
công khai, minh bạch không được thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức,
không đến nơi đến trốn; việc kê khai tài sản cũng mới chỉ mang tính hình thức,
làm mà như không; chế độ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, của người đứng
đầu khi xảy ra tham nhũng không rõ ràng, rất nhiều vụ tham nhũng được phát
hiện nhưng người đứng đầu không phải chịu trách nhiệm; chưa có cơ chế hiệu
quả để bảo vệ những người tích cực chống tham nhũng, làm cho họ bị trù dập,
16


mất mát những quyền lợi thiết thân, v.v…Trong thực hiện Luật khiếu nại tố cáo,

yếu kém thể hiện ở chỗ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến tham
nhũng còn chậm, chưa thỏa đáng, gây khó khăn dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo
dài, vượt cấp và bùng phát thành những điểm nóng chính trị-xã hội; còn có tình
trạng nể nang, đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; thậm chí có
những cơ quan Thanh tra lại trở thành người bảo kê, bao che cho những hành vi
tham nhũng, v.v...Vấn đề này đã gây ra những tiêu cực mới, nảy sinh tâm lý
không tin tưởng, không tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng trong xã
hội.
3. Một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, đồng thời
phát huy tính tích cực, chủ động của người dân trong phòng, chống tham nhũng
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ
trong việc đấu tranh với nạn tham nhũng, từ đó đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện
Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh dân chủ cơ
sở, bởi đây là 3 văn bản quy định một cách trực tiếp nhất và cụ thể nhất về vị trí,
vai trò của người dân trong đấu tranh với các tiêu cực trong bộ máy nhà nước nói
chung và trong đấu tranh chống tham nhũng nói riêng.
Để những văn bản Luật này phát huy tác dụng như một công cụ pháp lý
của người dân trong đấu tranh với tham nhũng thì trước hết phải làm cho người
dân hiểu rõ được những nội dung chính được đề cập trong các văn bản này. Và
khi họ đã hiểu được thì việc chống tham nhũng sẽ trở thành ý thức tự giác trong
mỗi người dân. Điều này đòi hỏi việc giáo dục và phổ biến pháp luật trong dân,
nhất là những luật liên quan đến phòng, chống tham nhũng, cần được quan tâm
nhiều hơn nữa từ phía nhà nước. Đồng thời, khắc phục những nhận thức lo ngại
về việc nếu người dân tích cực tham gia vào cuộc chiến chống tham nhũng, họ sẽ
lợi dụng Luật phòng, chống tham nhũng để gây rối, chống đối chính quyền.
Thứ hai, ban hành Luật về giám sát của nhân dân đối với việc thực thi
quyền lực nhà nước
Mặc dù hiện này, quyền giám sát của nhân dân được quy định trong Hiến
pháp và pháp luật, nhưng hầu hết các quy định đó đều nằm rải rác trong các văn
17



bản quy phạm pháp luật khác nhau, các nội dung cụ thể của các điều luật còn
chung chung, chồng cho, trùng lắp, thậm chí là mâu thuẫn nhau nên tạo ra rất
nhiều khó khăn cho nhân dân trong quá trình giám sát đối với tổ chức, cơ quan và
cán bộ Đảng, Nhà nước.
Chúng ta đã có Luật về hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, Luật
Thanh tra Nhân dân, Pháp lệnh Thanh tra Chính phủ,…Đã đến lúc chúng ta cần
có một Luật quy định về quyền giám sát của nhân dân đối với việc thực thi quyền
lực nhà nước, bởi vì chính bộ luật này sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc, là điều kiện
để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình. Nội dung của Luật giám sát của
nhân dân cần xác định rõ chủ thể, đối tượng, phạm vi, vị trí, tính chất, phương
thức, trình tự, thủ tục giám sát của nhân dân đối với việc thực thi quyền lực nhà
nước. Trên cơ sở đó xây dựng chương trình phối hợp giám sát giữa các cơ quan
nhà nước với hoạt động giám sát của nhân dân để đảm bảo quá trình giám sát
được đảm bảo hiệu quả, hợp lý, khoa học hơn.
Ba là, đa dạng hóa các hình thức giám sát mang tính xã hội để người dân
có thể thuận tiện hơn trong việc thực hiện quyền lực của mình, đấu tranh với các
hành vi tham nhũng.
Trong tâm lý chung của người dân, bình thường họ vẫn rất ngại tiếp xúc
với chính quyền, gặp gỡ trực tiếp các cán bộ, công chức nhà nước. Với họ, tiếp
xúc với chính quyền là thực sự phiền phức; chỉ khi những việc cần thiết và liên
quan trực tiếp đến bản thân mà luật pháp quy định (như khai sinh, khai tử, đăng
ký hôn nhân, làm sổ đỏ, xác nhận lý lịch,…) thì họ mới đến gặp các cơ quan có
thẩm quyền để giải quyết công việc. Còn khi bức xúc trước các hành vi tham
nhũng của cán bộ, công chức, người dân thường rất ngại “xuất đầu lộ diện” và
chia sẻ những bức xúc của họ trước cơ quan công quyền. Nguyên nhân của tình
trạng này, một phần là do trình tự thủ tục gặp người có thẩm quyền giải quyết là
quá phức tạp, những khiếu nại, tố cáo của họ phải chờ đợi quá lâu mới được giải
quyết; phần khác là tâm lý lo sợ bị trả thù cá nhân và làm liên lụy đến những

người thân, bởi họ thường nghĩ rằng các quan chức sẽ bảo vệ lẫn nhau chứ mấy
người dám giải quyết những khiếu kiện về tham nhũng.
18


Chính vì tâm lý ngại tiếp xúc với chính quyền như vậy nên việc khiếu kiện,
chia sẻ những bức xúc về các hành vi tham nhũng với các phương tiện truyền
thông (báo chí, truyền hình, internet) đang được người dân hết sức coi trọng.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng những năm vừa qua cho thấy, hầu
hết các vụ án tham nhũng bị phát hiện và xử lý đều bắt đầu từ các thông tin mà
báo chí đưa ra. Và khi mà việc chống tham nhũng đang đi vào bế tắc thì các
phương tiện truyền thông luôn là lực lượng đi đầu xung kích, là cầu nối giữa
người dân và các cơ quan có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng, nó đưa
tin về các hành vi tham nhũng, tạo dư luận, gây sức ép dư luận để buộc chính
quyền phải xử lý dứt điểm những vụ tham nhũng trước sự theo dõi của người
dân. Chính vì vậy, phát huy vai trò của báo chí có ý nghĩa quan trọng trong việc
thúc đẩy, khuyến khích người dân tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào công cuộc đấu
tranh với nạn tham nhũng.
Bốn là, xây dựng Luật về Quyền tiếp cận thông tin
Có thể khẳng định rằng, bưng bít thông tin là mảnh đất màu mỡ cho tham
nhũng và lạm quyền. Việc bưng bít thông tin, hạn chế quyền tiếp cận thông tin
của người dân chẳng khác nào tiếp tay cho tiêu cực, tham nhũng phát sinh. Thực
tế cho thấy, luôn có sự mâu thuẫn giữa cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin
và người được thông tin. Người dân thì muốn biết thông tin kịp thời, nhưng cơ
quan công quyền lại chưa đáp ứng được yêu cầu đó, thường đưa thông tin muộn,
không kịp thời, không đầy đủ. Nguyên nhân là do bản thân các cơ quan công
quyền chưa thật sự cải tiến để thông tin nhanh chóng, đầy đủ đến với người dân.
Hơn nữa, nhiều nơi, nhiều người không muốn cung cấp thông tin, nhất là những
thông tin sát với quyền lợi của những người giữ các cương vị chủ chốt của các
ngành, các cấp, hoặc những thông tin liên quan đến sai phạm của các cá nhân

lãnh đạo. Nếu dụng chạm đến quyền lợi của cán bộ thì việc cung cấp thông tin sẽ
bị hạn chế và người cung cấp thông tin thường thông tin vòng vo.
Vì thông tin là cơ sở, là điều kiện cho hoạt động giám sát của người dân.
Do đó nếu không có thông tin thì cũng không có giám sát. Chính vì vậy, đã đến
lúc chúng ta cần có một bộ Luật về tiếp cận thông tin. Luật tiếp cận thông tin ra
19


đời sẽ tạo thêm cơ sở pháp lý vững chắc để cho người dân giám sát bộ máy công
quyền, hạn chế những tiêu cực, tham nhũng. Xây dựng Luật tiếp cận thông tin là
một bước thể hiện dân chủ, tiến bộ của nhà nước. Không thể dân chủ hóa, minh
bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước và thành công trong việc chống
tham nhũng trong tình trạng bưng bít thông tin.
Năm là, cần xây dựng cơ chế bảo vệ những người đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực.
Trong quá trình ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật,
Nhà nước cũng đã chú ý đến việc xây dựng những quy định về bảo vệ nhân
chứng, chuyên gia và người tố giác trong các vụ án hình sự nói chung, các vụ án
về tham nhũng nói riêng, chẳng hạn:
Điều 7 Bộ Luật TTHS quy định: “Người bị hại, người làm chứng và những
người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến
tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ
theo quy định của pháp luật”
Khoản 3 Điều 55 Bộ luật TTHS quy định: “Người làm chứng có quyền yêu
cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng”
Khoản 3 Điều 7 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 quy định:
“Trong phạm vi, trách nhiệm của mình, cơ quan điều tra phải xem xét, giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, thông báo kết quả giải quyết cho

cơ quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị, người đã tố giác tội phạm biết và phải áp
dụngcác biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm”
Khoản 2 Điều 65 Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định:
“Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khi nhận được tố cáo hành vi
tham nhũng phải xem xét và xử lý theo thẩm quyền, giữ bí mật họ tên, địa chỉ,
bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của người tố cao; áp dụng đồng thời
các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi có biểu hiện đe dọa, trả thù, trù

20


dập người tố cáo hoặc khi người tố cáo yêu cầu; thông báo kết quả giải quyết tố
cáo cho người tố cáo khi họ yêu cầu”.
Như vậy có thể thấy, các quy định của pháp luật hiện hành đã có những
quy định về việc bảo vệ người làm chứng, người tố giác tội phạm và những người
tham gia tố tụng khác; quy định trách nhiệm của cơ quan hữu quan trong việc bảo
vệ những người này. Tuy nhiên, các quy định này mới dừng lại ở những nguyên
tắc chung mà chưa được cụ thể hóa bằng những biện pháp, thủ tục, trình tự cụ thể
để áp dụng.
Thực tế cho thấy, những người dân tích cực trong chống tham nhũng lại
thường phải nhận những thiệt thòi cho bản thân, cho gia đình cũng như những
người thân như: bị khống chế, mua chuộc, bị đe dọa trả thù, bị vu không, quy
chụp là gây mất đoàn kết, là “qua mặt chính quyền khiếu nại vượt cấp”. Không ít
trường hợp, do chưa có sự ngăn chặn kịp thời, những người đấu tranh với tham
nhũng đã phải nhận những hậu quả đáng tiếc, và khi xảy ra hậu quả cơ quan chức
năng mới vào cuộc. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên đó là chúng
ta vừa thiếu lại vừa yếu trong việc xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ những
người đã dũng cảm đối mặt đấu tranh với những kẻ tham nhũng; đồng thời chúng
ta cũng chưa có chính sách tôn vinh họ, khen ngợi họ như những “người hùng”,
những người dám xả thân vì nước để đấu tranh với thứ giặc nội xâm đang hoành

hành mà hậu quả của nó thậm chí còn đáng sợ hơn rất nhiều so với những gì mà
giặc ngoại xâm gây ra.
Để khuyến khích người dân phát hiện, tố cáo tham nhũng thì cần phải xây
dựng cơ chế bảo vệ chặt chẽ đối với những người chống tham nhũng, để làm cho
người chống tham nhũng có cảm giác và niềm tin rằng mình được bảo vệ, được
an toàn trước những hành vi đe dọa, bị trả thù khi tham gia vào việc phát hiện và
tố cáo tham nhũng. Đây là cái chúng ta đã quy định nhưng làm còn thiếu triệt để.

21


22



×