Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố đông hà, tỉnh quảng trị hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.75 KB, 44 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự
thành công hay thất bại của cách mạng. Vị trí của công tác cán bộ
gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh: “Cán
bộ là cái gốc của mọi công việc” [22; tr.487], “công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [22; tr.492]. Thấm nhuần tư
tưởng của Người, trong suốt hơn 81 năm xây dựng và phát triển,
Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là
những nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng. Mỗi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam đều đánh dấu những bước trưởng thành,
tiến bộ của đội ngũ cán bộ của Đảng ta. Vì thế, Đảng ta luôn chú
trọng tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, toàn diện, coi
đây là vấn đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung
ương khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đấy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng” [7; tr.66].
Để đội ngũ cán bộ thực hiện được sứ mệnh của mình thì vai
trò của văn hóa chính trị là hết sức quan trọng. V.I.Lênin đã từng
khẳng định “mục đích của văn hóa chính trị, của nền giáo dục chính
trị là đào tạo nên những người cán bộ chân chính, có khả năng thắng
được sự dối trá và thiên kiến, và có khả năng giúp đỡ quần chúng lao
1


động thắng được chế độ cũ, xây được một nhà nước không có bọn tư
bản, bọn bóc lột và bọn địa chủ” [21; tr.212,213]. Và suy cho cùng,


trình độ văn hóa chính trị của cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý quyết định chất lượng và hiệu quả hoạt động chính trị
của đất nước.
Thành phố Đông Hà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của tỉnh Quảng Trị. Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ cơ
sở của thành phố đã và đang phấn đấu vươn lên về mọi mặt để hoàn
thành những trọng trách chính trị của mình. Trong quá trình đó, họ
đã tạo nên sắc diện văn hóa chính trị cho bản thân. Tuy nhiên, chất
lượng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà
vẫn còn nhiều hạn chế, chưa ngang tầm với yêu cầu thực tiễn của địa
phương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc
biệt, Đông Hà phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, kinh
tế xã hội đang còn ở trong tình trạng khó khăn, chưa ổn định. Thêm
vào đó, điều kiện tự nhiên, khí hậu thời tiết khắc nghiệt luôn luôn là
mối đe dọa đối với cuộc sống nhân dân. Trước tình hình đó, đòi hỏi
mỗi cán bộ cơ sở thành phố phải không ngừng nâng cao bản lĩnh,
năng lực hoạt động chính trị, phát huy những phẩm chất đạo đức
cách mạng, những truyền thống của một mảnh đất trung dũng, kiên
cường…tức là không ngừng nâng cao văn hóa chính trị để góp phần
làm đổi thay bộ mặt quê hương. Do đó, việc phân tích thực trạng, từ
đó đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao văn hóa chính trị
cho đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa cấp thiết hơn bao giờ hết.
Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài: “Nâng
cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông
2


Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử
nhân Triết học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu, từ những góc độ khác nhau,
có những đề tài sau:
* Về văn hóa chính trị (VHCT)
Nguyễn Hồng Phong (1998), Văn hóa chính trị Việt Nam truyền
thống và hiện đại, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Trong tác phẩm
này, tác giả đã tập trung đi sâu vào nghiên cứu những giá trị tiêu biểu
của văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và rút ra những vấn đề có
tính phương pháp luận của việc kế thừa các di sản văn hóa chính trị quá
khứ trong quá trình đổi mới hiện nay.
Phạm Hồng Tung (2009), Văn hóa chính trị và lịch sử dưới
góc nhìn văn hóa chính trị, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công
trình là tập hợp có hệ thống của 14 chuyên luận, đề cập tới những
vấn đề căn bản của môn nghiên cứu văn hóa chính trị. Trên cơ sở
của cách tiếp cận văn hóa chính trị, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một
loạt vấn đề của lịch sử Việt Nam cận đại nhằm chỉ ra những khía
cạnh mới, bổ sung hoặc điều chỉnh nhận thức trước đây về những
vấn đề đó.
Ngoài ra là một số bài viết đăng tải trong một số sách chuyên
đề và tạp chí chuyên ngành bước đầu tìm hiểu về bản chất, đặc điểm
và cấu trúc của khái niệm văn hóa chính trị như: Trần Đình Huỳnh
(1998), “Văn hóa chính trị - một cách nhìn trong thời kỳ đổi mới”,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10; Văn Hải (2001), “Về văn hóa chính
trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5; Lâm Quốc Tuấn (2001), “Văn

3


hóa chính trị và sự phát triển con người - xã hội”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 4.

* Xuất phát từ cách tiếp cận Văn hóa chính trị trực tiếp
hướng đến việc xây dựng, bồi dưỡng cán bộ có các công trình sau
Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo
ở nước ta hiện nay (1999) do GS.TS Phạm Ngọc Quang chủ biên. Ở
đề tài này, các tác giả làm sáng tỏ nội dung khoa học của phạm trù
văn hóa chính trị và vai trò của nó trong hoạt động chính trị, trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong việc nâng cao năng lực
và bản lĩnh lãnh đạo của đội ngũ cán bộ; từ đó, đề ra phương hướng
bồi dưỡng văn hóa chính trị cho cán bộ lãnh đạo ở nước ta.
Văn hóa chính trị với việc nâng cao chất lượng cán bộ của
thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn đổi mới hiện nay (2000), luận
văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Lệ Thủy. Trên cơ sở làm rõ lý luận
chung về văn hóa chính trị, luận văn đánh giá, phân tích thực trạng
chất lượng cán bộ của thành phố Đà Nẵng, từ đó đưa ra những giải
pháp chủ yếu về văn hóa chính trị trong việc nâng cao chất lượng
cán bộ của thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay (2005), luận án tiến sĩ của Lâm Quốc Tuấn. Luận
án đã đã đưa ra những tiêu chí cần thiết xác định cấu trúc nhân cách
văn hóa chính trị của người cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay cùng
với phương hướng và giải pháp để thực hiện được các tiêu chí đó.
Các công trình khoa học nêu trên là những tài liệu quý giá cho
việc nghiên cứu đề tài khóa luận. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
đi sâu nghiên cứu có hệ thống về vấn đề thực trạng và giải pháp
mang tính thực tiễn nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ
4


sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị trong thời kỳ đổi mới hiện
nay.

Đề tài “Nâng cao văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở
thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay” là sự tiếp nối những
công trình đã có trên với tính cách như là hệ quy chiếu mới, góp
phần giải đáp về phương diện thực tiễn trong quá trình xây dựng đội
ngũ cán bộ tỉnh Quảng Trị nói chung cũng như đội ngũ cán bộ cơ sở
thành phố Đông Hà nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng đến việc tìm hiểu
quan điểm của triết học Mác - Lênin về văn hóa và văn hóa chính trị;
phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ
cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay. Trên cơ sở đó,
khóa luận đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao văn hóa
chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà trong thời kỳ
đổi mới hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích này, đề tài phải thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác - Lênin về văn hóa và
văn hóa chính trị.
- Phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ
cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay.
- Xác định một số giải pháp chủ yếu nâng cao văn hóa chính
trị của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà trong thời kỳ đổi
mới hiện nay.
5


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận

Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử và những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về chính trị, văn hóa, văn hóa chính trị, về cán bộ và
công tác cán bộ…làm cơ sở nghiên cứu.

* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và hệ thống các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, diễn
dịch và quy nạp, so sánh và đối chiếu.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do mục đích và nhiệm vụ quy định, đề tài tập trung khảo sát
phạm vi địa bàn thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị với đối tượng
cụ thể là cán bộ cơ sở.
6. Đóng góp của đề tài
* Về mặt lý luận:
Góp phần làm rõ thêm quan điểm của triết học Mác - Lênin về
văn hóa và văn hóa chính trị.
* Về mặt thực tiễn:
Trên cơ sở phân tích thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ
cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, khóa luận góp
tiếng nói vào việc nâng cao và phát huy văn hóa chính trị của cán bộ
trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, mà ở đây là trình độ văn hóa
6


chính trị của cán bộ cơ sở ở thành phố Đông Hà trong thời kỳ đổi
mới hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,

danh mục các từ viết tắt và phụ lục, nội dung khóa luận được kết cấu
gồm 2 chương, 5 tiết.

7


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ VĂN
HÓA VÀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
1.1. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa
1.1.1. Nguồn gốc và bản chất của văn hóa
Trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, bất kỳ một hệ
thống hay một trường phái triết học nào bằng cách này hay cách
khác cũng đều lý giải một cách tổng quát về vấn đề liên quan đến tồn
tại người, đó là bản chất, vai trò của con người trong thế giới. Chính
con người trong quá trình chinh phục, cải tạo tự nhiên nhằm mục
đích phục vụ lợi ích của chính mình đã làm phong phú thêm tri thức
và đồng thời sáng tạo ra “thiên nhiên thứ hai” bằng lao động sáng
tạo và tri thức của mình, kết tinh những giá trị tinh thần của mình.
“Thiên nhiên thứ hai” đó chính là văn hóa. Do vậy, văn hóa là một
trong những hình thái ý thức xã hội, xuất hiện cùng với sự xuất hiện
của xã hội loài người. Nói một cách khác, văn hóa ra đời, tồn tại và
phát triển gắn liền với xã hội loài người và văn hóa ngày càng được
bổ sung thêm những nội dung mới, đáp ứng tầm cao của tri thức
nhân loại.
Thuật ngữ “Văn hóa” theo các nhà nghiên cứu, bắt nguồn từ
chữ Latinh Cultus (+ura) = Cultura: trồng trọt cây trái ở ngoài đồng,
dần dần chuyển thành nghĩa mới: trồng trọt tinh thần - sự giáo dục
bồi dưỡng tâm hồn con người.
Khi tìm hiểu các quan điểm về văn hóa trước Mác, ta thấy rằng

các quan điểm đó đều thể hiện tính phiến diện. Các quan điểm duy
tâm thần bí cho rằng văn hóa là sản phẩm của ý niệm, ý niệm tuyệt
đối hoặc của đấng siêu nhiên nào đó ban phát, sinh ra. Các quan
8


điểm sùng bái cá nhân thì cho rằng, văn hóa là sản phẩm, là ý chí
của bậc quân vương, của vĩ nhân - lãnh tụ hoặc của anh hùng kiệt
xuất. Còn quần chúng nhân dân không phải là chủ thể sản sinh văn
hóa cũng không phải là đối tượng của văn hóa mà chỉ tiếp thu văn
hóa một cách thụ động, hoạt động vật chất không phải là cơ sở cho
văn hóa nảy sinh cũng không phải là môi trường cho văn hóa tồn tại.
Các quan điểm duy vật cũ và duy vật tầm thường cũng nhìn nhận
văn hóa ở những góc độ khác nhau một cách phiến diện, không thấy
được văn hóa là một phạm trù có nội hàm và ngoại diên rất rộng, bao
gồm nhiều thành tố, có mặt trong tất cả các lĩnh vực kể cả đời sống
vật chất lẫn đời sống tinh thần. Và từ việc tìm hiểu các quan điểm về
văn hóa trước Mác, có thể khẳng định rằng chỉ có quan điểm mácxít
mới vạch ra được nguồn gốc thực sự của văn hóa, bản chất cũng như
quá trình phát triển của văn hóa.
Theo C.Mác, văn hóa là sự phát triển tất cả các thuộc tính của
con người xã hội và sức sản xuất của xã hội. Sức sản xuất của con
người như là sản phẩm toàn vẹn và tổng hợp của xã hội. C.Mác xem
xét đời sống xã hội như một chỉnh thể hữu cơ bao gồm sản xuất vật
chất, sản xuất tinh thần và sản xuất con người, trong đó sản xuất con
người giữ vị trí trung tâm. Nếu hiểu văn hóa ở góc độ sản xuất con
người thì lôgíc phát triển văn hóa là quá trình biểu thị mức độ phát
triển tự do và sáng tạo của con người trong lịch sử. Trong quá trình
hoạt động, con người đã khách thể hóa lực lượng bản chất của mình
vào giới tự nhiên chưa được khai phá, tạo nên “thiên nhiên thứ hai” cái mà con người thường gọi là văn hóa. Đối với C.Mác, yếu tố làm

nên sự khác biệt giữa con người với động vật chính là “hoạt động
sống” của con người và bản chất hoạt động con người là “xây dựng
9


theo các quy luật của cái đẹp”[28; tr.14]. Đó là năng lực mang tính
đặc thù của con người, gắn bó với hoạt động của con người và sự thể
hiện, phát huy những năng lực bản chất trong tất cả các dạng hoạt
động của con người, sự phản ánh tổng thể các hệ thống giá trị do con
người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn, lịch sử, xã hội của mình
chính là văn hóa. Quan điểm về văn hóa của Lênin cũng khá rộng và
bao quát, Lênin quan niệm rằng, ở đâu có hoạt động con người là ở
đó có văn hóa, phạm vi của văn hóa không chỉ là văn hóa tinh thần
mà còn là văn hóa vật chất. Lênin luôn coi văn hóa là phương tiện
quan trọng nhất trong tất cả các loại hình hoạt động của con người,
đồng thời là kết quả sáng tạo của tất cả các hoạt động đó.
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về văn hóa còn chỉ ra
rằng kể từ khi con người phát hiện ra lửa, biết ăn chín, uống sôi là
dấu hiệu đầu tiên của văn hóa. Thời điểm phát minh ra “lửa” là dấu
mốc quan trọng ban đầu cho sự ra đời và phát triển của văn hóa. Nói
như vậy, có nghĩa văn hóa là sản phẩm chỉ riêng có ở loài người, đi
liền với sự phát triển của xã hội loài người. Nó là sản phẩm mang
tính trí tuệ đằng sau một chuỗi dài những hoạt động vật chất và tinh
thần của con người.
Khai mở như trên là nhằm chứng minh nguồn gốc của văn hóa
từ trong lao động. Lao động vừa là điều kiện cho sự xuất hiện của
văn hóa, nhưng đồng thời cũng là phương thức duy trì sự tồn tại và
phát triển của văn hóa. Nguồn gốc lao động của văn hóa chỉ ra rằng,
văn hóa là hệ giá trị đặc biệt, độc đáo chỉ có ở con người và gắn liền
với xã hội loài người. Chính quá trình con người tác động vào giới

tự nhiên nhằm làm cho giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính, cải tạo
và biến đổi để phục vụ cho những nhu cầu cơ bản và thiết yếu của
10


mình đã tạo ra rất nhiều phức hệ giá trị, trong đó văn hóa là một
phức hệ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Từ trong lao động, sản xuất
con người không chỉ nảy sinh nhu cầu quan hệ với tự nhiên, với xã
hội mà còn thấy nhu cầu quan hệ với nhau là một bức thiết cần xác
lập. Trong các mối quan hệ, con người đóng vai trò là chủ thể tác
động, điều chỉnh nhằm làm cho các mối quan hệ đó tồn tại trong một
chỉnh thể thống nhất. Ở đây, văn hóa là một thực thể sống trong cơ
thể xã hội, xã hội đang vận động và văn hóa được dung dưỡng một
cách thường xuyên trong lao động.
Lao động cũng chính là dấu hiệu để phân biệt loài người với
loài vật, vì từ lao động là tiền đề vật chất tiên quyết cho sự ra đời của
tư duy - cái chỉ có ở loài người (còn loài vật thì không có). Xét về
mặt quan hệ, tư duy là sản phẩm của tiến trình tiến hóa lâu dài bởi sự
tác động của con người vào giới tự nhiên. Nói một cách khác, “tư
duy chính là thực tiễn được cải biến đi ở trong bộ óc con người”.
Song, tư duy không phải là một hiện tượng thụ động, bất biến. Nó
mang “nội dung thực tiễn”, vừa có chức năng lưu trữ tri thức, vừa có
nhiệm vụ truyền tải tri thức. Vai trò của lao động đối với sự hình
thành văn hóa còn thể hiện ở chỗ nó là tác nhân quyết định đến sự
xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ được xác định bằng một hệ thống
dày đặc những tín hiệu có tác dụng trao đổi thông tin, duy trì và phát
triển các quan hệ giữa con người với con người trong quá trình cải
biến tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Ở góc độ này,
ngôn ngữ tham gia tích cực vào sự hình thành văn hóa. Ngôn ngữ
còn là một trong những phương thức biểu hiện của văn hóa, thông

qua ngôn ngữ mà tư duy được biểu hiện, ngôn ngữ là một hình thức
biểu hiện của tư duy, là “cái vỏ vật chất của tư duy”. Sự thống nhất
11


giữa tư duy và ngôn ngữ là một sự thống nhất biện chứng không thể
tách rời, tư duy và ngôn ngữ là những yếu tố luôn tồn tại trong một
chỉnh thể (người), đó là những yếu tố tồn tại khách quan cùng với sự
tồn tại và phát triển của con người. Như vậy, cùng với lao động, tư
duy và ngôn ngữ là cội nguồn, là điều kiện nhưng cũng là phương
thức tồn tại và phát triển của văn hóa.
Từ thực tiễn vật chất và tinh thần của văn hóa, cho thấy văn
hóa là một lĩnh vực có nội hàm và ngoại diên rất rộng lớn, vô cùng
đa dạng và phong phú nhưng cũng không kém phần phức tạp. Xuất
phát từ nhiều cách tiếp cận mà có những quan niệm và cách lý giải
khác nhau về văn hóa. Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau về
văn hóa mà có nhiều cách định nghĩa khác nhau về văn hóa nhưng
chung quy lại thì tất cả các định nghĩa về văn hóa đều xuất phát từ
quan điểm chung về nguồn gốc, bản chất của văn hóa, đó là đều coi
văn hóa là sự sáng tạo của con người. Văn hóa là một trong những
căn cứ để phân biệt con người với loài vật. Nguồn gốc lao động của
văn hóa khẳng định một cách khách quan, duy vật về một hình thái ý
thức xã hội. Từ trong văn hóa, chúng ta tìm thấy được những giá trị
vật chất và tinh thần của xã hội loài người qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau. Văn hóa xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động và
có ý thức của con người đối với tự nhiên, văn hoá chính là kết quả
của sự thích nghi ấy và đó là một sự thích nghi có sự sáng tạo phù
hợp với giá trị chân - thiện - mỹ.
Nói tới văn hóa là nói tới việc phát huy những năng lực bản
chất con người nhằm hướng tới sự phát triển của xã hội. Vì vậy, tính

chất nhân văn luôn được chứa đựng trong văn hóa. Quan điểm của
triết học Mác - Lênin về văn hóa bao hàm cả cơ sở lý luận về sự hình
12


thành những chuẩn mực, thái độ khách quan, khoa học trong việc
đánh giá các giá trị văn hóa, đó là “chân - thiện - mỹ”, đây cũng
chính là cái khung của các thang bậc giá trị. Chuẩn mực của sự đánh
giá các giá trị văn hóa dù được trình bày dưới hình thức nào thì nó
vẫn nhằm mục tiêu là hướng tới sự phát triển con người và xã hôi
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Bản chất của văn hóa vì vậy là những hoạt động nhằm sản xuất
hoặc sáng tạo ra các giá trị vật chất cũng như tinh thần. Tất cả các
hoạt động đó của văn hóa đều hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Văn hóa không nằm ngoài kinh tế và chính trị, nhưng văn hóa có đời
sống riêng của nó, có quy luật hoạt động riêng của nó. Mục tiêu cao
cả nhất của hoạt động văn hóa là vì con người, vì sự phát triển và
hoàn thiện của con người. Tư duy mới không cho phép chúng ta coi
văn hóa như hoạt động thuần túy có ý nghĩa minh họa và tuyên
truyền cho các đường lối, chính sách về kinh tế, về chính trị. Văn
hóa cũng không chỉ là phương tiện để đạt những phúc lợi trong cuộc
sống, nó phải nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện con người. Xã
hội cần đến văn hóa vì con người là chủ thể và là bộ mặt trung tâm
của xã hội. Văn hóa tạo nên môi trường và là nguồn năng lượng để
hình thành nhân cách, bản lĩnh, đạo đức và lương tâm. Văn hóa có
sức mạnh tạo nên mối quan hệ hài hòa giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên, tạo nên mối quan hệ cảm thông
giữa các dân tộc và các thời đại.
Tóm lại, văn hóa là một hiên tượng phong phú và không kém
phần phức tạp, nó luôn mở ra một phạm vi rộng cho sự nghiên cứu.

Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính
13


văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, duy trì sự bền vững
và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển
trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn
hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
người cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần mà do con
người sáng tạo ra.
1.1.2. Chức năng của văn hóa
1.1.2.1. Chức năng giáo dục
Là chức năng bao trùm và quan trọng nhất của văn hóa. Thông
qua chức năng này, văn hóa định hướng cho con người hành động
phù hợp với lý tưởng, đạo đức, chuẩn mực xã hội. Văn hóa góp phần
định hướng việc hình thành nhân cách, phẩm chất của con người,
giáo dục con người bằng cách tác động, định hướng sự nhận thức và
cảm xúc con người theo các giá trị mang tính chuẩn mực “chân thiện - mỹ”.
1.1.2.2. Chức năng nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội
Văn hóa có tác dụng nâng cao nhận thức của con người và
cũng là phát huy vai trò của con người trong việc tạo ra những giá trị
mới của văn hóa. Chức năng nhận thức nằm trong mọi hoạt động
văn hóa, gắn bó chặt chẽ với giáo dục, đào tạo và khoa học, kỹ thuật.
Nó nhằm trang bị cho con người những tri thức cần thiết để khám
phá và làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
1.1.2.3. Chức năng thẩm mỹ
Văn hóa là sự sáng tạo của con người theo quy luật của cái

đẹp, trong đó văn hóa nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất sự sáng
14


tạo ấy. Với tư cách là khách thể của văn hóa, con người tiếp nhận
chức năng này của văn hóa và tự thanh lọc mình theo hướng vươn
tới cái đẹp và khắc phục cái xấu trong mỗi con người. Sự hoàn thiện
của con người và của xã hội được hình thành dần dần từ đó.
1.1.2.4. Chức năng dự báo
Văn hóa như trên đã nói là tổng thể những hoạt động về tinh
thần và trí tuệ, là sự phát hiện dần dần những quy luật của tự nhiên,
của xã hội và của con người, nhằm mở rộng sự hiểu biết, sức tưởng
tượng khám phá và sáng tạo của con người. Chính với ý nghĩa đó,
văn hóa có thể đưa ra những dự báo cần thiết về tự nhiên, xã hội và
con người. Văn hóa, theo nghĩa rộng, chinh phục cả không gian và
thời gian, cho nên nó là hành trang của con người, dự báo cho con
người, hướng dẫn tư duy và hành động của con người.
Ngoài các chức năng cơ bản trên, văn hóa còn có các chức
năng khác nữa đó là chức năng tổ chức, giải trí, chức năng định
hướng, đánh giá, xác định, chuẩn mực của hành vi, chức năng điều
chỉnh các quan hệ ứng xử, chức năng giao tiếp. Các chức năng cơ
bản đó của văn hóa có liên quan chặt chẽ với nhau và làm thành một
thể thống nhất. Sự “cắt lát” ra các chức năng đó chỉ là tương đối.
Chức năng này có thể làm tiền đề hoặc nó có trong chức năng kia.
1.2. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về văn hóa chính
trị
1.2.1. Khái niệm chính trị
Theo cách hiểu chung nhất, có thể xem “chính trị là hoạt động
trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như giữa các dân tộc
và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực

nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã
15


hội; là hoạt động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái
chính trị, các nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích”[27;
tr.13].
1.2.2. Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn
hóa trong xã hội có giai cấp, nhưng điều đó không có nghĩa văn hóa
chính trị là phép cộng giản đơn giữa văn hóa với chính trị, mà đó là
sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa
với chính trị, chính trị với văn hóa. Vì vậy, VHCT là đối tượng
nghiên cứu của nhiều nhà tư tưởng lớn.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm
VHCT, nhưng trong hệ thống học thuyết của các ông đều toát lên
những tư tưởng, quan điểm cơ bản về VHCT trên mọi khía cạnh đời
sống chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động như: vấn đề
đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới; vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa; vấn đề dân chủ xã
hội chủ nghĩa…
Theo V.I.Lênin, VHCT thể hiện trong văn hóa lãnh đạo, văn
hóa quản lý và tổ chức; trong hành vi ứng xử giữa người có chức có
quyền với quần chúng, trong quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân. Để chính trị trở thành VHCT, chủ thể cầm quyền phải giải quyết
các mối quan hệ giữa chính trị với khoa học, chính trị với đạo đức và
pháp luật, giữa quyền lực và chân lý một cách có văn hóa, giữa
người lãnh đạo, quản lý nắm quyền lực với giới trí thức khoa học và
với các tầng lớp xã hội khác. “Một người không biết chữ là người

đứng ngoài chính trị; trước hết phải dạy a, b, c cho họ đã. Không thế,
16


thì không có chính trị; không thế, thì chỉ có những tin đồn đại,
những chuyện nhảm nhỉ, những chuyện hoang đường, những thiên
kiến, chứ không phải là chính trị”[17; tr.218]. C.Mác, Ph. Ăngghen
và V.I.Lênin đều cho rằng chỉ có thể xây dựng được chủ nghĩa cộng
sản trên cơ sở nền học vấn hiện đại và nếu không có nền học vấn đó
thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là nguyện vọng. Giai cấp công nhân
cần có văn hóa, văn hóa trong chính trị, VHCT - hạt nhân của văn
hóa ấy là tư tưởng mình vì mọi người. Đặc điểm của VHCT của giai
cấp công nhân là chủ nghĩa tập thể, trung thực, thẳng thắn, có trách
nhiệm, thương yêu con người, tôn trọng danh dự và phẩm giá con
người.
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện của văn
hóa trong xã hội có giai cấp. Nó biểu hiện khả năng, năng lực của
con người trong việc giác ngộ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, trong
việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực, nhằm hiện thực
hóa lợi ích giai cấp hay lợi ích nhân dân, phù hợp với mục tiêu chính
trị và sự tiến bộ xã hội. VHCT còn biểu hiện khả năng, mức độ điều
chỉnh những quan hệ chính trị, phù hợp với truyền thống và những
chuẩn mực giá trị xã hội do đời sống cộng đồng của con người đặt
ra. VHCT phản ánh trình độ tự do, dân chủ, công bằng, văn minh vì
sự tiến bộ của xã hội.
Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của văn hóa
chính trị theo cả mô thức dân tộc – khoa học – đại chúng trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời Người xác lập quan hệ
văn hoá - chính trị trên nền tảng dân tộc với nội dung xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. VHCT được tạo

lập trong quan hệ chính trị mới, mà trong những quan hệ đó đánh
17


dấu sự trưởng thành về nhân cách chính trị của nhân dân, làm gia
tăng các khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân.
Căn cứ vào phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, cùng với việc kế thừa các giá trị trong quan
niệm về VHCT của các nhà nghiên cứu lý luận gần đây, có thể hiểu
theo một nghĩa khái quát nhất: Văn hóa chính trị là một bộ phận,
một phương diện của văn hoá trong xã hội có giai cấp, nói lên chất
lượng tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần với hạt nhân là
các giá trị chính trị nhân văn được con người sáng tạo và sử dụng
trong thực tiễn chính trị, để thực thi trong quan hệ về quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước nhằm thực hiện lợi ích chính trị cơ
bản của giai cấp phù hợp với sự phát triển lịch sử; là sự phản ánh
trình độ trưởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể chính trị
trong đời sống xã hội.
1.2.3. Cấu trúc của văn hóa chính trị
1.2.3.1. Văn hóa chính trị với tư cách là chủ thể chính trị - cá
nhân và tổ chức
a.

Văn hóa chính trị cá nhân
Văn hóa chính trị cá nhân được thể hiện trên ba mặt:
- Trình độ hiểu biết về chính trị.
- Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
- Mức độ hoàn thiện nhân cách.
VHCT cá nhân không chỉ thể hiện qua quan hệ giao tiếp, ứng

xử, mà còn bộc lộ đầy đủ ở năng lực, khả năng hoạt động sáng tạo,
đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị.
18


Ở Việt Nam, VHCT ở mỗi cá nhân, đặc biệt là đối với những
nhà lãnh đạo, chính trị là sự thực hành VHCT Hồ Chí Minh với
phương châm: thường xuyên trau dồi kiến thức, tư duy khoa học,
thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, nghiêm
khắc với mình, khoan dung, độ lượng đối với mọi người…
b. Văn hóa chính trị của tổ chức
VHCT của một tổ chức phụ thuộc vào văn hóa của từng cá
nhân, vào văn hóa người thủ lĩnh (người đứng đầu), vào trình độ dân
trí nói chung, vào trình độ tổ chức của tổ chức và suy đến cùng còn
tùy thuộc vào bản chất của chế độ chính trị, trình độ chín muồi của
chế độ dân chủ. Trình độ tổ chức của tổ chức thể hiện nguyên tắc tổ
chức, ở cơ cấu tổ chức, đặc biệt ở hiệu lực, hiệu quả trong việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị.
1.2.3.2. Văn hóa chính trị với tư cách là hệ giá trị
Cấu trúc văn hóa chính trị với tư cách là một hệ thống các giá
trị, gồm các thành tố sau đây:
Thứ nhất, trình độ giác ngộ lý luận chính trị, lập trường quan
điểm của giai cấp.
+ Tri thức, sự hiểu biết, giác ngộ khoa học về chính trị
+ Nhu cầu, thói quen, trình độ nhận định và đánh giá những
hiện tượng, những quá trình chính trị của các chủ thể chính trị
+ Niềm tin, sự thuyết phục về chính trị
Thứ hai, hệ thống các giá trị, chuẩn mực phù hợp với lợi ích
của giai cấp được cụ thể hóa dưới dạng các quy phạm pháp luật, có

chức năng điều khiển hành vi của toàn xã hội.
+ Các truyền thống chính trị
19


+ Những lý tưởng chính trị cao đẹp mà con người hướng tới
Thứ ba, tập hợp những giá trị được quy phạm hóa thành
những chuẩn mực có chức năng điều khiển những chủ thể tham gia
vào đời sống chính trị.
+ Những chuẩn mực, phương tiện, phương thức tổ chức và
hoạt động của quyền lực
+ Hệ tư tưởng chính trị, đường lối, chính sách của giai cấp
cầm quyền
+ Trình độ hoàn thiện của thể chế chính trị
Như vậy, ta thấy VHCT là một cấu trúc phong phú, đa dạng, là
một tổng thể chứa đựng trong nó hàng loạt nhiều hệ vấn đề.
1.2.4. Đặc điểm và chức năng của văn hóa chính trị
1.2.4.1. Đặc điểm của văn hóa chính trị
a. Tính giai cấp của văn hóa chính trị: VHCT hình thành, phát
triển trong đấu tranh giai cấp, dân tộc, vì lợi ích giai cấp và con
người. Bởi vậy, VHCT bao giờ cũng bị chi phối bởi hệ tư tưởng,
đường lối chính trị của đảng chính trị (hoặc liên minh các đảng)
phục vụ lợi ích và thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của mỗi giai cấp.
b. Tính lịch sử của văn hóa chính trị: VHCT là một phạm trù
mang tính lịch sử. Nó chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp.
Hơn nữa nội dung, hình thức, phương thức tồn tại của VHCT cũng
thường xuyên vận động, biến đổi theo sự thay đổi của các hình thái
kinh tế - xã hội, các giai đoạn phát triển của lịch sử cụ thể.
c. Tính kế thừa của văn hóa chính trị: VHCT của mỗi thời đại,
mỗi giai cấp bao giờ cũng là kết quả của quá trình phủ định biện

chứng, là sự tiếp nối, chắt lọc và nâng cao những truyền thống,
những giá trị văn hóa trước đó.
20


d. Tính đa dạng, phong phú của văn hóa chính trị: Trong các
nền chính trị khác nhau, bao giờ VHCT của giai cấp thống trị, nắm
quyền lực nhà nước cũng là đặc trưng cho nền chính trị đó. Tuy
nhiên, trong xã hội không phải chỉ có giai cấp thống trị, mà còn tồn
tại nhiều giai cấp, tầng lớp, chủ thể tham gia vào đời sống chính trị
với những nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị… khác nhau. Điều đó
đã khiến cho VHCT không thuần nhất, đơn điệu mà rất đa dạng,
phức tạp với những sắc thái, khuynh hướng khác nhau.
1.2.4.2. Chức năng của văn hóa chính trị
a. Chức năng tổ chức và quản lý xã hội
b. Chức năng định hướng, điều chỉnh các hành vi của con
người và các quan hệ chính tri - xã hội
c. Đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị, làm cho mọi công dân
quen với hoạt động chính trị, có năng lực tham gia và sáng tạo chính
trị
d. Văn hóa chính trị góp phần nâng cao nhận thức, rèn luyện
bản lĩnh chính trị cho con người trong hoạt động thực tiễn
e. Chức năng cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt động sáng tạo
của con người, hình thành nhân cách công dân, nhân cách những nhà
lãnh đạo chính trị
Như vậy, văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện
của văn hóa trong xã hội có giai cấp. Từ cấp độ cá nhân, VHCT phản
ánh trình độ trưởng thành nhân cách chính trị của các chủ thể chính
trị trong đời sống xã hội, là chất lượng tổng hợp của tri thức chính trị
và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị, bản

lĩnh chính trị công dân thúc đẩy họ hành động chính trị tích cực phù
hợp với mục tiêu, lý tưởng chính trị của xã hội. Những vấn đề lý
21


luận này là cơ sở để phân tích thực trạng VHCT của đội ngũ cán bộ
cơ sở thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay.
Chương 2
BỒI DƯỠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ LÀ MỘT TRONG
NHỮNG ĐỘNG LỰC ĐỂ NÂNG CAO Ý THỨC CHÍNH TRỊ
VÀ TINH THẦN CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ
SỞ THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ
2.1. Khái quát về thành phố Đông Hà
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý: Đông Hà là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh
Quảng Trị, nằm ở tọa độ 16007’53’’ - 16052’22’’ vĩ độ bắc,
107004’24’’ - 107007’24’’ kinh độ đông. Phía bắc giáp huyện Cam
Lộ và Gio Linh, cách thành phố Đồng Hới về phía bắc 93km. Phía
nam và phía đông giáp huyện Triệu Phong, cách thành phố Huế
70km về phía nam. Phía tây giáp huyện Cam Lộ, cách cửa khẩu
quốc tế Lao Bảo 83km về phía tây. Đông Hà có vị trí nằm ở trung độ
giao thông của cả nước, trên giao lộ 1A nối Hà Nội - Tp.Hồ Chí
Minh và quốc lộ 9 trong hệ thống đường xuyên Á, là điểm khởi đầu
ở phía đông của trục hành lang kinh tế Đông - Tây, nối với đất nước
Lào và Thái Lan, Myanma…qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và các
nước trong khu vực biển Đông qua cảng Cửa Việt. Từ thuận lợi về
giao lưu đối ngoại, Đông Hà có khả năng thu hút, hội tụ để phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội và trở thành trung tâm phát luồng các mối
quan hệ kinh tế trong khu vực và quốc tế.
2.1.1.2. Khí hậu

2.1.1.3. Tài nguyên thiên nhiên
22


Như vậy, nằm trên tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây và trục
giao thông Bắc - Nam, Đông Hà có vị trí chiến lược hết sức quan
trọng, thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội với các địa
bàn trọng điểm trong khu vực và quốc tế, đặc biệt là phát triển ngành
thương mại, dịch vụ. Tuy nhiên, với điều kiện tự nhiên, khí hậu khắc
nghiệt, tài nguyên khoáng sản hầu như rất hiếm, lại gánh chịu hậu
quả nặng nề của chiến tranh làm cho Đông Hà có nhiều khó khăn và
hạn chế trong phát triển kinh tế và thu hút vốn đầu tư. Với những lợi
thế và khó khăn đó, đòi hỏi đến việc phát huy tốt vai trò tích cực của
con người, trong đó đội ngũ cán bộ cơ sở của thành phố Đông Hà có
vai trò đặc biệt quan trọng.
2.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
thành phố Đông Hà
2.1.2.1. Tình hình kinh tế: Trong 5 năm qua (2005 - 2010),
kinh tế thành phố phát triển, tốc độ tăng trưởng khá, chuyển dịch cơ
cấu theo hướng tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng
năm đạt 14,8%. Để đảm bảo tính ổn định, bền vững cho quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi thành phố Đông Hà phải phát huy tốt
các nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực có ý nghĩa rất quan trọng.
Điều đó đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông
Hà phải có kiến thức, hiểu biết về kinh tế, chú trọng bồi dưỡng quản
lý kinh tế.
2.1.2.2. Tình hình chính trị: Vai trò lãnh đạo toàn diện của
Đảng bộ thể hiện rõ nét, hiệu lực quản lý, hiệu quả điều hành của
chính quyền được tăng cường; hoạt động của Mặt trận và các đoàn

thể nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Chính sách cán bộ được
23


quan tâm thực hiện. Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân
tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, tiến trình dân chủ xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc hơn.
Đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển. Nhân tố đó đặt ra cho
đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố những yêu cầu cao trong phong cách
làm việc, nhất là tác phong sâu sát, gần dân, nói đi đôi với làm.
2.1.2.3. Tình hình văn hóa - xã hội: Trong những năm qua,
lĩnh vực văn hóa - xã hội của thành phố có nhiều tiến bộ, đã chú
trọng gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Sự
nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển theo hướng tích cực, chú trọng
mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý. Sự nghiệp y tế, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe
nhân dân được quan tâm. Chất lượng nguồn nhân lực được chú
trọng, số cán bộ được đào tạo sau đại học tăng dần; tỷ lệ lao động
qua đào tạo đạt 32%; tạo việc làm mới hàng năm cho 1.200 lao
động; tỷ lệ thất nghiệp đến năm 2010 giảm còn 2,02%...
Như vậy, từ một mảnh đất hoang tàn, đổ nát, đầy bom đạn sau
chiến tranh, Đông Hà hôm nay đã tạo cho mình một vóc dáng mới,
một vị thế mới trên con đường xây dựng và phát triển, tích cực hội
nhập với hành lang kinh tế Đông - Tây giữa các nước trong khu vực,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Tuy vậy, trên con
đường xây dựng và phát triển của mình, Đông Hà đang gặp nhiều
khó khăn, thách thức do hậu quả của chiến tranh, thiên tai và điều
kiện tự nhiên ít thuận lợi…
Tóm lại, như trên đã phân tích, những đặc điểm về tự nhiên,

văn hóa, cùng những điều kiện về kinh tế, xã hội có những tác động
24


lớn trong việc hình thành VHCT của đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố
Đông Hà, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu, trách nhiệm to lớn
đối với những người làm công tác lãnh đạo, quản lý phải không
ngừng nâng cao trình độ, năng lực công tác, hoàn thiện nhân cách
tức là nâng cao VHCT để đưa thành phố Đông Hà vượt qua những
khó khăn, thách thức, mở ra thời kỳ phát triển mới vì mục tiêu xây
dựng thành phố Đông Hà văn minh, giàu đẹp và phát triển bền vững.
2.2. Thực trạng văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ cơ sở
thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị hiện nay
2.2.1 Khái quát về đội ngũ cán bộ cơ sở thành phố Đông Hà
Đông Hà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của
tỉnh Quảng Trị gồm có 9 đơn vị hành chính phường: phường 1,
phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường Đông Thanh,
phường Đông Giang, phường Đông Lễ, phường Đông Lương với 83
khu phố, tổng diện tích đất tự nhiên là 7.255,44 ha, dân số đến năm
2009 là 82.331 người.
Đội ngũ cán bộ cơ sở của thành phố Đông Hà là những người
có chức vụ, có vai trò nòng cốt trong HTCT cấp phường, có tác
động, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của HTCT của thành phố, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,
xây dựng Đảng…ở địa phương.
Đội ngũ cán bộ cơ sở của thành phố Đông Hà gồm những chức
danh sau: Bí thư Đảng ủy phường; Phó Bí thư Đảng ủy phường; Chủ
tịch UBND phường; Phó Chủ tịch UBND phường; Chủ tịch
UBMTTQ phường; Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ phường; Chủ tịch

Hội Cựu chiến binh phường; Chủ tịch Hội nông dân phường; Cán bộ
25


×