Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đánh giá thực trạng thị trường bán lẻ của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.38 KB, 22 trang )

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tổng mức bán lẻ giai đoạn 2005 – 2009 …………………….…....10
Bảng 2.1: Tổng mức hàng hóa dịch vụ tính theo các vùng trên cả nước .………
Biểu đồ 2.2: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của cả nước phân theo cơ cấu
các thành phần kinh tế giai đoạn 2005 – 2009………………………………….….
Biểu đồ 2.3: Chỉ số giá tiêu dung (giai đoạn 2005 – 2009)…………………..…15
Bảng 2.2: Chỉ số giá tiêu dung (2005 – 2009) ………………………………….

1


MỤC LỤC

2


Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Khi đổi mới nền kinh tế, nhất là bắt đầu từ những năm 90, Việt Nam chuyển
mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới và
khu vực thì bộ mặt của toàn nền kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến. Thị trường
bán lẻ là một trong những thị trường có nhiều thay đổi sâu sắc nhất trong toàn bộ
nền kinh tế. Khi nền kinh tế còn trong giai đoạn tập trung quan liêu bao cấp phương
thức phân phối chủ yếu của thị trường bán lẻ là tem phiếu, số lượng, chủng loại, giá
cả hàng hóa đều do sự chỉ đạo mang tính chủ quản của Nhà nước. Sau những năm
90 thì hình thức phân phối này hoàn toàn bị thay thế. Thay vào đó là hình thức phân
phối mang tính chất thị trường. Giá cả, số lượng, chủng loại hàng hóa sản xuất hay
nhập khẩu đều xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Đồng thời là sự phát triển mạnh
mẽ của hệ thống chợ và các doanh nghiệp bán lẻ thuộc thành phần kinh tế ngoài
Nhà nước. Các doanh nghiệp bán lẻ Nhà nước mất dần vai trò phân phối chủ đạo
của mình trên thị trường bán lẻ. Lúc này, thị trường bán lẻ thực sự thể hiện được vai


trò của mình là đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân và góp phần thúc đẩy sản
xuất, tái sản xuất.
Trong tình hình kinh doanh như hiện nay, kênh phân phối ngày càng có vai
trò quan trọng trong việc đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến tay người tiêu dùng.
Ngày nay, kênh phân phối hiện đại ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là sự
kiện Việt Nam đã gia nhập WTO. Việt Nam từng được đánh giá là thị trường bán lẻ
có sức hấp dẫn nhất thế giới. Vậy trong những năm qua, thị trường bán lẻ của Việt
Nam đã phát triển như thế nào? Chính từ những băn khoăn đó mà tôi quyết định
chọn đề tài “Đánh giá thực trạng thị trường bán lẻ của Việt Nam” làm đề tài báo
cáo chuyên đề môn học.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung: là đánh giá thực trạng thị trường bán lẻ của Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể: là nghiên cứu sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam,
từ đó rút ra những điểm yếu điểm mạnh của thị trường, để đề xuất một số giải pháp

3


đổi mới, phát triển.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi trong nước và quốc
tế.
- Về thời gian: Tập trung nghiên cứu thị trường bán lẻ Việt Nam từ năm 2005
đến nay.
- Về nội dung: Nội dung đề tài đánh giá thực trạng thị trường bán lẻ của Việt
Nam.
1.4. Đối tượng nghiên cứu
Đây là đề tài rộng được nhiều tác giả nghiên cứu. Em xin nghiên cứu về tình
hình thị trường bán lẻ tại Việt Nam. Từ đó rút ra những điểm yếu điểm mạnh của thị
trường, để đề xuất một số giải pháp đổi mới, phát triển.


4


Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ
TRƯỜNG BÁN LẺ CỦA VIỆT NAM
2.1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1.1. Khái niệm thị trường bán lẻ
Bán lẻ là hoạt động bán các sản phẩm hoàn chỉnh và dịch vụ cho người tiêu
thụ để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình. Nói cách khác, bán lẻ
gồm tất cả các hoạt động liên quan đến việc bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu
dùng cuối cùng để họ sử dụng vào mục đích cá nhân, không kinh doanh.
Người bán lẻ là các cá nhân hay tổ chức làm công việc bán lẻ thông qua các
hình thức đa dạng như bán hàng trực tiếp, bán hàng qua điện thoại, bán hàng qua
internet...
2.1.2. Các loại hình bán lẻ
Hiện nay các loại hình bán lẻ vô cùng phong phú và đa dạng. Dựa trên các
tiêu chí khác nhau người ta có thể phân loại ra nhiều loại hình bán lẻ khác nhau. Ví
dụ phân loại theo quy mô thì các loại hình bán lẻ có các cơ sở bán lẻ lớn, vừa và
nhỏ. Hay phân loại theo các chủ thể tham gia bán lẻ thì các loại hình bán lẻ gồm có
doanh nghiệp bán lẻ, hợp tác xã bán lẻ, cá thể hộ gia đình... Tuy nhiên, phổ biến và
dễ hiểu nhất thì người ta thường phân loại thị trường bán lẻ theo cách thức bán hàng
và hàng hóa kinh doanh.
Theo đó, trong thị trường bán lẻ các loại hình bán lẻ gồm có bán lẻ tại cửa
hàng, bán lẻ không qua cửa hàng và bán lẻ dịch vụ:
Bán lẻ tại cửa hàng: Đây là loại hình bán lẻ phổ biến nhất hiện nay. Theo
loại bán lẻ này các tổ chức hay cá nhân bán lẻ có một địa điểm kinh doanh cố định.
Tại đây, người ta tổ chức trưng bày hàng hóa và người tiêu dùng tới đây để mua và
thanh toán trực tiếp. Các địa điểm bán hàng này tùy theo quy mô, tính chất của từng
loại cửa hàng mà người ta phân loại ra các loại cửa hàng khác nhau. Hiện nay có

các loại cửa hàng bán lẻ như sau:
Chợ: Chợ là một loại hình bán lẻ truyền thống lâu đời và phổ biến khấp nởi
trên thế giới. Chợ có thể hiểu là một nơi quy tụ nhiều người bán lẻ và người tiêu

5


dùng để tiêu thụ các loại hàng hóa khác nhau. Hoạt động buôn bán của chợ có thể
diễn ra hàng ngày hoặc định kỳ theo một khoản thời gian nhất định.
Siêu thị: Siêu thị là một loại hình bán lẻ hiện đại mới xuất hiện tại Việt Nam.
Siêu thị được hiểu là một cửa hàng bán lẻ kinh doanh theo phương thức tự phục vụ,
được trang bị cơ sở vật chất tương đối hiện đại, bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng
nhu cầu phong phú của người dân. Giá cả tại siêu thị thường cố định theo sự ấn
định của người kinh doanh. Siêu thị thường phải đáp ứng được một số quy định
nhất định về cơ sở vật chất: quy mô, địa điểm, kho... Quy định này tùy thuộc vào cơ
quản quản lý.
Cửa hàng bán lẻ độc lập: Loại hình bán lẻ này tồn tại rất phổ biến. Các cửa
hàng này thường thuộc sở hữu của cá nhân hay hộ gia đình. Nó tồn tại dưới hình
thức các cửa hàng, cửa tiệm nhỏ tại các mặt phố, khu dân cư. Các loại hàng hóa tại
các cửa hàng này thường là các hàng tiêu dùng, dân dụng phục vụ cho nhu cầu tiêu
dùng hàng ngày.
Cửa hàng bán lẻ dạng hợp tác xã: Hợp tác xã bán lẻ được hình thành bởi
một nhóm người bán lẻ liên kết với nhau để cùng buôn bán, phân phối hàng hóa. Sự
liên kết này dựa trên sự tự nguyện, đồng thời các thành viên có quyền tự do gia
nhập tách khởi hợp tác xã và tự cung ứng hàng hóa từ các nguồn ngoài hợp tác xã.
Cửa hàng bách hóa: Đây là loại hình cửa hàng lớn cả về quy mô và số
lượng hàng hóa. Các cửa hàng bách hóa thường được xây dựng tại các khu dân cư
tập trung đông đúc. Hàng hóa tại đây phong phú về chủng loại và mẫu mã nên
thường được bày bán chuyên biệt tại các khu vực riêng của cửa hàng.
Cửa hàng đại lý: Các cửa hàng này được người sản xuất hoặc người phân

phối trung gian cho việc tiêu thụ hàng hóa trên cơ sở hợp đồng đại lý. Hoạt động
của các cửa hàng này thường độc lập và hưởng một khoản hoa hồng nhất định.
Cửa hàng nhượng quyền thường mại: Đây là một hình thức mới mẻ nó bắt
đầu xuất hiện tại Mỹ từ đầu thế kỷ 20 và ngày càng phát triển mạnh mẻ. Cửa hàng
này thường được kí hợp đồng để được nhượng quyền kinh doanh một loại hàng hóa
dịch vụ nhất định từ nhà sản xuất. Các cửa hàng nhượng quyền là các cửa hàng có

6


vốn và địa điểm kinh doanh. Các cửa hàng này kinh doanh dựa vào thường hiệu của
một hãng đã nổi tiếng trên thị trường. Ngoài ra, các cửa hàng này cũng nhận được
sự tư vấn, cung cấp bí quyết về marketing, tố chức quản lý, đào tạo nguồn nhân
lực...từ đơn vị trao quyền kinh doanh. Ngoài ra, các cửa hàng còn phải đóng thêm
một khoản phí nhất định.
Cửa hàng chuyên doanh: Đây là loại hình cửa hàng kinh doanh chuyên sâu.
Nó chỉ cung cấp một hay một nhóm hàng hóa nhất định hay chỉ phục vụ một nhóm
người tiêu dùng nhất định.
Ví dụ: Cửa hàng chuyên doanh là cửa hàng chỉ bán một loại hàng hóa như
quần áo, giày dép...hay một nhóm sản phẩm như hàng tưởi sống, hàng đông lạnh,
cửa hàng chuyên bán hàng cho trẻ em, người già...
Cửa hàng giảm giá, hạ giá: Cửa hàng này bán các loại hàng hóa với giá
thấp hơn với giá bán lẻ theo yêu cầu của người sản xuất hoặc tính chất của sản
phẩm.
Cửa hàng kho: Cửa hàng này mang tính chất như một kho hàng. Các cửa
hàng này thường không trưng bày hàng hóa, không quảng cáo nhầm tận dụng diện
tích và chi phí.
Cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm: Cửa hàng thuộc sở hữu của người
sản xuất. Đây là kênh phân phối trực tiếp của người sản xuất tới người tiêu dùng.
Bán lẻ không qua cửa hàng: Theo đó các tổ chức và cá nhân bán lẻ không

cần thiết phải có một địa điểm bán hàng cố định. Người ta có thể bán hàng tận nhà,
bán hàng qua bưu điện, bán hàng qua mạng...
Bán lẻ dịch vụ: Tức là ở đây hàng hóa là dịch vụ chứ không phải là hàng
hóa đơn thuần. Các loại hình bán lẻ dịch vụ như: cho thuê phòng ở, cho thuê
phương tiện...
Cùng với sự phát triển của cuộc sống thì các loại hình bán lẻ không qua cửa
hàng và bán lẻ dịch vụ ngày càng phổ biến. Do sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ, công nghệ viễn thông đặc biệt là mạng internet thì hiện nay hoạt động thường
mại điện tử (giới thiệu, bán hàng và thanh toán qua mạng) đang rất phát triển. Đồng

7


thời, thu nhập của người tiêu dùng tăng lên dần nhu cầu đi lại, nghỉ ngởi, ăn uống ...
tăng lên kéo theo các loại hình dịch vụ tăng lên không ngừng.
2.1.3. Vai trò của hoạt động bán lẻ
Khi hoạt động bán lẻ phát triển tốt, lành mạnh thì sản xuất được tăng lên,
phục vụ được nhu cầu của người tiêu dùng và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
Hoạt động bán lẻ có vai trò điều tiết hàng hóa. Nó điều tiết hàng hóa từ nơi
sản xuất tới người tiêu dùng. Nó điều tiết hàng hóa ở tất cả các vùng miền từ thành
phố, nông thôn, vùng sâu vùng xa bất kể nơi đâu có nhu cầu. Hoạt động bán lẻ phát
triển nó đảm bảo cung cấp hàng hóa công bằng cho mọi người dân trên khắp các
vùng trên cả nước. Do vậy, hoạt động bán lẻ cũng có vai trò góp phần vào việc giảm
khoản cách giàu nghèo giữa các khu vực.
Cơ cấu thương mại có những biến đổi sâu sắc khi mà hoạt động bán lẻ phát
triển. Khi đó thị trường ngày càng lành mạnh, cạnh tranh hiệu quả hơn.
Sự phát triển của hoạt động bán lẻ cũng tăng trưởng khả năng tự điều tiết ít
chịu ảnh hưởng của nhà nước của thị trường hơn. Khi hoạt động bán lẻ phát triển
tức là hàng hóa phong phú và với nhiều nhà phân phối cộng với các quy định cạnh

tranh lành mạnh thì chắc chắn người tiêu dùng sẽ nhận được những hàng hóa tốt
nhất với giá cả hợp lý nhất.
Trong nền sản xuất hàng hóa kinh tế thị trường có xuất hiện mâu thẫu cơ bản
giữa một nền sản xuất hàng hóa lớn và nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Sở dĩ
có mâu thuẫn đó là do vô số người tiêu dùng khác nhau lại có những nhu cầu, sở
thích khác nhau. Khi xã hội càng phát triển thì sự đa dạng của những nhu cầu này
ngày càng tăng. Trong khi đó các doanh nghiệp phải tăng quy mô sản xuất để tối đa
hóa lợi nhuận và hoạt động bán lẻ có vai trò giải quyết được mâu thẫu cơ bản đó.
2.1.4. Chức năng của hoạt động bán lẻ
Hoạt động bán lẻ có rất nhiều chức năng. Nhưng các chức năng chính của
bán 1ẻ là mua, bán, vận chuyển, lưu kho, phân loại, tài chính, chịu rủi ro và thông
tin thị trường.

8


Chức năng cơ bản nhất của hoạt động bán lẻ là chức năng mua và bán: Chức
năng mua tức là tìm kiếm, đánh giá, so sánh giá trị các loại hàng hóa dịch vụ. Chức
năng bán là tiêu thụ phân phối các loại sản phẩm này. Lợi nhuận của các nhà bán lẻ
chính là nhờ vào sự chênh lệch giữa giá hàng hóa bán ra và mua vào. Do đó để tối
đa hóa lợi nhuận các nhà bán lẻ cố gắng mua hàng với giá rẽ và bán ra với số lượng
lớn và giá cao.
Chức năng cung cấp tài chính: Chức năng này thể hiện ở việc các nhà bán lẻ
cung cấp tài chính tín dụng cần thiết cho một hoạt động sản xuất hàng hóa nào đó.
Có thể nhà bán lẻ cung cấp tài chính trước một phần cho nhà sản xuất. Việc thực
hiện chức năng này tùy thuộc vào khả năng tài chính của nhà bán lẻ và mối quan hệ
giữa nhà bán lẻ và nhà sản xuất.
Chức năng thông tin: Chức năng thông tin của hoạt động bán lẻ được thể
hiện ở hai chiều. Thông qua các hoạt động quảng bá, marketing của các nhà bán lẻ
thì các thông tin về sản phẩm được giới thiệu tới người tiêu dùng. Đồng thời, qua

hoạt động bán lẻ các nhà bán lẻ là người tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng. Họ
là những người hiểu rõ nhu cầu, thị hiếu, thu nhập của người tiêu dùng nhất. Qua
đó, nhà bán lẻ sẽ cung cấp những thông tin phản hồi tới nhà sản xuất để nhà sản
xuất có thể điều chỉnh sản xuất để đưa ra những sản phẩm tốt nhất, phù hợp nhất
với nhu cầu của người tiêu dùng.
Chức năng vận tải: dựa vào việc mua bán hàng hóa của nhà sản xuất để bán
cho người tiêu dùng thì nhà bán lẻ có thể tự mình thực hiện chức năng vận tải hàng
hóa trong hệ thống phân phối của mình.
Chức năng phân loại và tiêu chuẩn hóa các loại hàng hóa: Người tiêu dùng
có nhu cầu, thu nhập rất đa dạng. Người tiêu dùng ở nông thôn có thu nhập khác
với người tiêu dùng ở thành thị, người trẻ có yêu cầu về mẫu mã chất lượng hàng
hóa khác với người già. Hoạt động bán lẻ đã thực hiện chức năng sắp xếp, phân loại
số lượng hàng hóa gần nhất với nhu cầu của người tiêu dùng. Tiêu chuẩn hóa là
công việc tìm kiếm những sản phẩm đồng nhất giữa các nhà sản xuất có thể thay thế
cho nhau.

9


Chức năng lưu kho, bao quản sản phẩm: Đối với mọi hàng hóa đều có thời
hạn sử dụng và điều kiện bảo quản nhất định. Chức năng này của hoạt động bán lẻ
là đảm bảo hàng hóa đảm bảo chất lượng nguyên gốc nhất có thể khi đến tay người
tiêu dùng. Thước đo của chức năng này là khả năng đảm bảo sự ăn khớp về thời
gian giữa sản xuất và tiêu dùng.
Chức năng chia sẽ rủi ro: Mức độ chia sẻ rủi ro tùy thuộc vào mối quan hệ
giữa nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Nếu như nhà sản xuất tự phân phối hàng hóa của
mình thì sự chia sẽ rủi ro bằng không. Nếu như nhà bán lẻ mua đứt hàng hóa của
nhà sản xuất thì sau đó họ sẽ tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng hóa
cho khách hàng. Khi đó rủi ro đối với nhà sản xuất đã được chuyển tới nhà bán lẻ
tại thời điểm bán xong sản phẩm đó. Trong trường hợp các nhà sản xuất gửi bán sản

phẩm, hay nhà bán lẻ là đại lý hoa hồng, tiêu thụ cho nhà sản xuất thì rủi ro được
chia sẽ đói với cả người sản xuất và bán lẻ đến khi bán, bảo hành xong sản phẩm.
Một số chức năng khác: Các nhà bán lẻ như các siêu thị hiện đại còn thực
hiện chức năng chế biến nhất là đối với hàng thực phẩm. Ngoài ra, các nhà bán lẻ
còn thực hiện các công việc khác như đóng gói, gắn nhãn mác...
Tóm lại, hoạt động bán lẻ có vai trò, chức năng vô cùng quan trọng. Nó được
coi là một mắt xích không thể thiếu của quá trình tái sản xuất mở rộng đảm bảo cho
quá trình này thông suốt từ đó đem lại hiệu quả kinh tế xã hội.
2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ TẠI VIỆT NAM
2.2.1. Thị trường bán lẻ từ năm 1968 đến nay
Hình thức phân phối hàng hóa từ Việt Nam trước năm 1986 đa phần theo
hình thức tem phiếu. Khi đó hầu hết các hàng hóa đều do Nhà nước thu thập rồi
phân phối theo kiểu phổ thông đầu phiếu. Với kiểu phân phối này người dân đều
được nhận một số lượng hàng hóa như nhau. Ban đầu, hình thức này tỏ ra vô cùng
hiệu quả đặc biệt trong trường hợp chiến tranh. Nhưng sau này, khi giành được độc
lập cuộc sống của người dân bắt đầu thay đổi thì hình thức phân phối này không
còn phù hợp nữa.

10


Sau năm 1986 cùng với sự thay đổi của đất nước thì thị trường bán lẻ Việt
Nam cũng có sự thay đổi. Hàng hóa đã bắt đầu được phân phối theo kiểu thị trường
tức là theo nhu cầu, thu nhập của người dân. Hệ thống cửa hàng bán lẻ và các chợ
phát triển rộng rải.
Người tiêu dùng Việt Nam bắt đầu làm quen với các kênh phân phối hiện đại
từ năm 1993. Do nền kinh tế phát triển, thu nhập của người dân tăng và đặc biệt sau
cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 thì hệ thống siêu thị ở Việt Nam phát
triển.
Đến năm 1999, thị trường bán lẻ Việt Nam bắt đầu có sức hấp dẫn mạnh mẽ

đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đến năm 2007 là mốc quan trọng của thị trường bán lẻ Việt Nam. Năm 2007,
Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và mở cửa
hoàn toàn thị trường bán lẻ năm 2009. Thị trường bán lẻ Việt Nam có sự góp mặt
của các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài.
Sau hơn 25 năm đổi mới, thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển nhanh chóng,
tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng, năm 2001 là 11,3%
và năm 2005 là 20,53% (bình quân tăng 16,86%/năm), cao gấp 2,25 lần tốc độ tăng
GDP, năm 2008 tăng kỷ lục 31%, cao gấp 4,71 lần tốc độ tăng GDP (bình quân 3
năm 2006 - 2008 tăng 26,32%/năm, cao gấp 3,46 lần tốc độ tăng GDP).
2.2.2. Nhu cầu đa dạng hàng hóa
Cùng với sự phát triển của kinh tế nhu cầu về hàng hóa ngày càng đa dạng và
phong phú, do thu nhập của người dân tăng lên cùng với sự tiến bộ của khoa học và
công nghệ con người có thể sản xuất được nhiều loại hàng hóa khác nhau để thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường quan hệ cung
cầu sẽ định hình thị trường, “có cầu ắt có cung”. Để tồn tại và phát triển con người
lại có vô số nhu cầu khác nhau từ ăn mặc, ở, đi lại, học hành và có hàng triệu triệu
công ty, mỗi công ty cung cấp các nhu cầu chưa được thỏa mãn của con người. Giả
sử nhu cầu đi lại thì phải sử dụng xe máy, xe đạp, ô tô, máy bay, tàu thủy,.... trong
lĩnh vực sản xuất ô tô lại có rất nhiều công ty sản xuất nhầm thỏa mãn từng đoạn thị

11


trường. Trên thực tế nhu cầu của con người là vô tận như họ bị giới hạn bởi khả
năng tài chính. Vì vậy nghiên cứu xem nhu cầu nào chưa được đáp ứng để cung cấp
các sản phẩm phục vụ nhu cầu đó thì doanh nghiệp sẽ thành công trong lĩnh vực
của mình.
2.2.3. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam
Từ năm 2005 cho tới nay thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển nhanh chóng

với tốc độ tăng trên 20% mỗi năm.Trong giai đoạn này có sự tham gia của các tập
đoàn bán lẻ lớn trên thế giới. Chính những doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài này đã
đem tới động lực mới, phương thức kinh doanh mới... cho thị trường bán lẻ Việt
Nam cùng với chu kỳ suy thoái kinh tế thế giới đã tạo ra một bức tranh muôn màu
về thị trường bán lẻ trong nước.
2.2.3.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
Theo số liệu của tổng cục thống kê thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
của cả nước luôn đạt tốc độ tăng trường trên 20%, số liệu chi tiết thể hiện thông qua
biểu đồ.

Biểu đồ 2.1: Tổng mức bán lẻ giai đoạn 2005 - 2009
Tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 2005 - 2009 đều đạt trên 20%. Mức tăng
trung bình của thời kỳ này là 26% cao gấp hơn 3 lần so với tốc độ tăng GDP. Đặc
biệt năm 2008 tốc độ tăng đạt kỷ lục 34.9% và tổng giá trị đạt 1007.2 ngàn tỷ đồng
gấp hơn 2 lần so với tổng mức bán lẻ 2005. Sang năm 2009 tốc độ tăng giảm mạnh

12


xuống còn 20.6% điều này được giải thích bởi tác động của suy thoái kinh tế dẫn
đến người dân ít chi tiêu hơn. Tốc độ tăng trưởng kỷ lục vào năm 2008 là do sau khi
Việt Nam gia nhập WTO các rào cản dần được xóa bỏ doanh nghiệp nước ngoài gia
nhập thị trường dễ dàng hơn tạo ra sự cạnh tranh gay gắt làm cho giá giảm mạnh,
cộng với nhu cầu tiêu dùng của người dân ngày một cao và tốc độ tăng giá tiêu
dùng ở mức cao 22,97%.
Tuy nhiên, tổng mức bán lẻ này không có sự đóng góp đồng đều từ các vùng
miền trong cả nước. Do điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau nên hoạt động bán lẻ
trên các vùng miền trong cả nước cũng có sự khác biệt.
Tổng mức lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ theo các vùng miền được thống
kê ở bảng dưới đây.


Bảng 2.1: Tổng mức hàng hóa dịch vụ tính theo các vùng trên cả nước
Nhìn chung, sự phát triển hoạt động bán lẻ của các vùng trên cả nước đều có
tốc độ tăng trưởng đồng đều cùng với sự tăng trưởng chung của hoạt động bán lẻ
trên cả nước. Trong tất cả các năm, tất cả các vùng thì tổng mức bán lẻ tăng trung
bình các năm là khoảng 26,3%.
Mức tăng của khu vực Tây Nguyên cao nhất trung bình 29,5% /năm và mức
tăng thấp nhất thuộc về Đồng bằng sông Cửu Long với mức tăng 23%/ năm.
Mức tăng trung bình của các vùng trong 2008 là 35,3% trong đó Tây Nguyên

13


có mức tăng cao nhất 44,1% thấp nhất là Đồng bằng sông Cửu Long 28,1%.
Tổng mức bán lẻ Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long luôn
chiếm khoảng 1/3 tổng mức bán lẻ của cả nước. Khu vực Đông Nam Bộ với các
thành phố mà mức tiêu dùng lớn (thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Bình
Dương...) thì tổng mức bán lẻ lớn nhất so với các vùng khác trên toàn quốc. Tổng
mức bán lẻ của Đông Nam Bộ gần bằng tổng mức bán lẻ tại Đồng bằng sông Hồng
và Đồng băng sông Cửu Long cộng lại.
Như vậy, tổng mức bán lẻ tại ba vùng này đã chiếm tới 2/3 tổng mức bán lẻ
của cả nước. Hầu hết các siêu thị lớn, trung tâm thương mại hiện đại đều được xây
dựng tại những vùng này.
Ngược lại, tại nhữmg vùng giao thông khó khăn, đời sống của người dân còn
nhiều khó khăn như Tây Nguyên, Tây Bắc thì tổng mức bán lẻ rất khiêm tốn. Tổng
mức bán lẻ Trung Du miền núi phía bắc chỉ chiếm không quá 5% tổng mức bán lẻ
của cả nước. Vùng Tây Nguyên tổng mức bán lẻ chiếm khoảng 3 - 4 % tổng mức
bán lẻ của cả nước. Do vậy, những vùng này cần sự quan tâm hơn nữa của Nhà
nước để phát triển hoạt động bán lẻ.
2.2.2.2. Mạng lưới phân phối

Mạng lưới bán lẻ ở Việt Nam chủ yếu được phân phối theo các kênh truyền
thống như chợ (bao gồm 8500 chợ), các cửa hàng bán lẻ truyền thống và cửa hàng
tạp hóa chiếm trên 80%. Hàng hóa lưu thông qua kênh bán hàng hiện đại (trung tâm
thường mại, siêu thị cửa hàng tự chọn) chiếm khoảng 12% với 451 siêu thị trên cả
nước tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Mình.
Ngoài ra hàng hóa còn được lưu thông qua các doanh nghiệp trược tiếp sản xuất
hình thức này chiếm khoảng 6%. Hàng hóa ở các vùng sâu, vùng xa thuộc các tỉnh
phía Nam, miền trung và miền bắc, tiểu thương đảm nhận vai trò phân phối hàng là
chủ yếu. Nếu đem so sánh với các nước khác trên thế giới thì càng chứng tỏa hệ
thống phân phối bán lẻ của Việt Nam vẫn còn lạc hậu. Tại các nước phát triển thị
phần của siêu thị trong lĩnh vực bán lẻ chiếm tới 80-90%. ở các nước như Nam Mỹ,
Đông Á trừ Trung Quốc thì lượng hàng hóa qua kênh phân phối hiện đại chiếm tới

14


50-60%. Ngay cả các nước ở Đông Nam Á (Thái Lan, Philipin) tỷ lệ này cũng là
30-50%.
2.2.2.3. Các doanh nhiệp bán lẻ
Theo tổng cục thống kê số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ phân phối năm 2005 là 22736 doanh nghiệp thì năm 2008 số lượng doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực này là 44609 tăng gần gấp đôi. Các doanh nghiệp bán lẻ
gồm 13304 năm 2005 và năm 2008 là 24226 tăng 82%. Các doanh nghiệp bán lẻ
(bao gồm tất cả các doanh nghiệp bán lẻ chính thống và các doanh nghiệp thương
mại khác thực hiện thêm chức năng bán lẻ, chẳng hạn doanh nghiệp bán sĩ nhưng
vẫn tham gia bán lẻ) ở các thành phần kinh tế khác nhau có mức đóng góp trong
tổng mức bán lẻ cũng khác nhau. Có thể nhìn vào biêu đồ cơ cấu các thành phần
kinh tế trong tổng mức bán lẻ hàng hóa để thay rõ hơn điều đó.

Biểu đồ 2.2: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của cả nước phân theo cơ

cấu các thành phần kinh tế giai đoạn 2005 - 2009
Thông qua biểu đồ có thể thấy thị trường bán lẻ đã có sự thu hút và tham gia
của nhiêu thành phần kinh tế. Tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thấp thường ở mức dưới 4% và tốc
độ tăng hàng năm không cao và có sự sụt giảm vào các năm 2008 và 2009.
Tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ của thành phần kinh tế nhà nước giảm trong
khoảng 2005 - 2009 trung bình 1,1% / năm do nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh

15


doanh theo kiểu kinh doanh bao cấp làm ăn thua lỗ đã bị giải thể. Bởi vậy, năm
2005 tỷ trọng thành phần kinh tế này là 12,9% thì đến năm 2009 là 9,7%.
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam:
Dưới đây là một số doanh nghiệp bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam:
Liên hiệp tác xã thương mại Sài Gòn Co.op khi ra đời có vốn ban đầu 100
triệu đồng đến nay tổng tài sản trị giá vài trăm tỷ đồng và hiện là DNBL hàng đầu
tại Việt Nam. Đến nay Sài Gòn Co.op đã có 47 siêu thị mang nhãn hiệu Co.op Mart
hoạt động chủ yếu ở TP Hồ Chí Mình, Cần Thơ, Quy Nhơn, Tiền Giang và đến nay
Co.op Mart đã hoạt động đến Cà Mau và đang trong quá trình phát triển mở rộng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn Phú Thái: Đây là một tập đoàn phân phối phát
triển rất nhanh và có phong cách làm việc rất hiện đại, chuyên nghiệp. Công ty có
tốc độ tăng trưởng ấn tượng trung bình khoảng 40% / năm trong những năm gần
đây. Công ty này được kỳ vọng sẽ là công ty đầu tàu trên thị trường bán lẻ Việt
Nam. Đồng thời, sự thành lập của công ty có thể coi là bước đi kịp thời của các
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đó là thành lập các tổng công ty mạnh về vốn và quy
mô để có thể cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài.
Một số doanh nehiệp bán lẻ có quy mô lớn khác: Hệ thống chuổi siêu thị thời
trang Vinatex của Tổng công ty Dệt May Việt Nam, tính đến đầu năm 2015 đơn vị
đã phát triển được hơn 90 điểm bán hàng có mặt trên 24 tỉnh thành trong nước.

Hiện nay, đơn vị đang kinh doanh 50.000 mặt hàng do trên 800 nhà cung ứng gồm
5 ngành hàng chính: Dệt may, thực phẩm, hóa phẩm, hàng gia dụng, lưu niệm và đồ
chơi trẻ em. Công ty trách nhiệm hữu hạn Cà phê Trung Nguyên với trên 100 cửa
hàng...
2.2.2.4. Giá cả hàng hóa
Các mặt hàng trên thị trường bán lẻ chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm
hàng tiêu dùng. Do điều kiện kinh tế sản xuất phát triển cộng với chính sách mở cửa
nền kinh tế khá thông thoáng của Nhà nước nên trong những năm gần đây hàng hóa
trên thị trường bán lẻ rất phong phú, đa dạng. Người tiêu dùng đã ngày càng được
tiếp cận, tiêu dùng những sản phẩm hiện đại, mẫu mã hợp thời trang và chất lượng

16


đảm bảo. Rất nhiều thương hiệu nước ngoài như Sony, Sam sung, Nokia...xuất hiện
tại Việt Nam đã tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho người tiêu dùng. Đồng thời,
khối lượng hàng hóa sản xuất, nhập khẩu, cung ứng trên thị trường cũng luôn luôn
dồi dào để đảm bảo cung ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngoài ra, số lượng và chất lượng hàng hóa thì giá cả cũng là một yếu tố rất
đáng quan tâm của người tiêu dùng. Giá cả hàng hóa trên thị trường bán lẻ Việt
Nam trong những năm gần đây biến động mạnh. Chi số giá tiêu dùng được thể hiện
qua đồ thị sau:

Biểu đồ 2.3: Chỉ số giá tiêu dung (giai đoạn 2005 – 2009)

Bảng 2.2: Chỉ số giá tiêu dung (2005 – 2009)
Như vậy, giá cả hàng hóa trên thị trường biến động mạnh có những diễn biến
thất thường khó đoán trước. Năm 2008 với tốc độ tăng giá kỷ lục 22,97% cao nhất

17



trong vòng 10 năm trở lại đây là một thách thức lớn trong việc bình ổn thị trường,
phát triển kinh tế.
2.2.2.5. Đánh giá chung về thị trường bán lẻ Việt Nam
Ưu điểm:
- Hệ thống chợ trên toàn quốc tiếp tục nhận được sự quan tâm của Chính phủ
và các địa phương. Đầu tư xây mới hệ thống truyền thông ở vùng nông thôn theo
hướng hiện đại, kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau. Ngoài ra, rất nhiều chính
sách hỗ trợ, chính sách nhầm huy động nguồn lực địa phương, chính sách phát triển
nguồn nhân lực, thay đổi cư chế quản lý chợ... cũng được các địa phương quan tâm.
- Đã bắt đầu có sự liên kết giữa các nhà bán lẻ trong nước, nhiều tập đoàn,
tổng công ty bán lẻ đã được hình thành trên cơ sở kết hợp hoạt động của các doanh
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
- Đẩy mạnh xây dựng các mô hình kinh doanh bán lẻ hiện đại như siêu thị,
trung tâm thương mại. Nhiều doanh nghiệp bán lẻ đã áp dụng các phương thức hoạt
động bán lẻ tiên tiến; thiết lập hệ thống phân phối từ nhà sản xuất, chương trình
quảng cáo, khuyến mại, chăm sóc khách hàng, ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý và phân phối hàng hóa.
- Các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường đã bắt đầu quan tâm, tìm hiểu và
nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng.
- Chính phủ đã xây dựng và phổ biến rộng rài “Đề án phát triển thương mại
nông thôn giai đoạn 2010-2015, định hướng đến năm 2020”.
Hạn chế:
- Thị trường bán lẻ Việt Nam nhìn chung vẫn phân phối hàng hóa theo kiểu
truyền thống, đa phần hàng hóa đến với tay người tiêu dùng thông qua hệ thống
chợ. Hệ thống chợ trên toàn quốc vẫn tồn tại nhiều chợ cóc, chợ tạm, chợ họp lề
đường dẫn tới tình trạng tắc nghẽn giao thông và khó quản lý chất lượng hàng hóa.
Các cửa hàng bán lẻ truyền thống ở Việt Nam có diện tích rất nhỏ với trang thiết bị
thô sơ, phương thức quản lý lạc hậu.


18


- Tỷ trọng giá trị dịch vụ phân phối trong GDP của Việt Nam năm 2015 ước
khoảng 14% GDP sử dụng 5 triệu lao động thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn chưa
phát huy vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước.
- Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sức cạnh tranh còn yếu trước sự lấn lướt
của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nội địa yếu về mọi mặt; năng
lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, khả năng liên kết, hoạt động marketing...Chưa
hình thành được những doanh nghiệp bán lẻ đầu tàu có khả năng dẫn dắt các doanh
nghiệp khác và chưa đủ năng lực cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài.
- Các yếu tố khoa học kỹ thuật chưa được ứng dụng nhiều trong hoạt động
bán lẻ, thương mại điện tử phát triển còn non trẻ.
- Hàng hóa trên thị trường bán lẻ phải trải qua quá nhiều tầng lớp trung gian
nên giá cả và chất lượng hàng hóa trên thị trường rất khó kiểm soát.
- Các doanh nghiệp bán sỉ chưa nhiều, quy mô của các doanh nghiệp bán sỉ
cũng chưa đủ lớn để giữ vai trò định hướng cho các doanh nghiệp sản xuất, dẫn đến
các doanh nghiệp sản xuất tự tổ chức hệ thống tiêu thụ và tự đầu tư vào sản xuất.
Chính vì chưa có nhà bán buôn chuyên nghiệp và quy mô nên người kinh
doanh bán lẻ phải tự tìm đến các nhà sản xuất và ngược lại. Tại một siêu thị bán lẻ
có đến hàng trăm hàng nghìn nhà cung cấp khác nhau. Do vậy, số lượng và chất
lượng hàng hóa cũng khó đảm bảo ổn định.
2.3. GIẢI PHÁP CHO THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ TẠI VIỆT NAM
Sau đây là một số biện pháp để thị trường bán lẻ Viêt Nam phát triển hơn nữa
trong thời gian tới:
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần nhanh chống nâng cao năng lực cạnh
tranh (trong đó ưu tiên chất lượng sản phẩm, dịch vụ hậu mãi, liên kết phân phối
hàng hóa nội địa...), trình độ quản lý, đặc biệt phải nắm bắt xu hướng phát triển thị
trường để có chiến lược kinh doanh phù hợp.

Quan tâm hơn nữa tới công tác đào tạo nhân viên cả ba cấp độ sơ - trung –
cao cấp, trong đó ưu tiên trước hết cho nhân lực cao cấp (giám đốc, chủ doanh

19


nghiệp) về tầm nhìn, năng lực "cấp quốc tế". Bởi họ sẽ hoạch định chiến lược phát
triển kinh doanh, nhân sự trong doanh nghiệp của mình.
Đầu tư vào công nghệ thông tin để việc quản lý bán hàng được thuận tiện
hơn. Ví dụ như dùng phân mềm netBiz (Internet Business Management) là hệ thống
được eVietsoft xây dựng để quản lý hệ thống đại lý phân phối trên toàn quốc, thậm
chí toàn cầu, quản lý chuỗi cửa hàng bán lẻ ở nhiều nơi khác nhau, luôn nắm bắt
được doanh số bán hàng tại từng nơi, tổng hợp toàn hệ thống trong khi đang trong
một chuyến công tác xa, luôn biết được số lượng tồn kho tại từng đại lý, từng điểm
bán lẻ để kịp thời chuyển, điều chuyển hàng hóa.
Nhanh chóng tìm kiếm cho mình mặt bằng tốt, địa điểm phù hợp với mục
tiêu kinh doanh của mình. Doanh nghiệp Việt Nam phải sớm tập trung xây dựng
kênh phân phối đủ mạnh để thị trường Việt Nam chuyển sang kênh phân phối hiện
đại.
Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nên mở rộng thị trường nông thôn bằng cách
xây dựng các kênh phân phối hiệu quả.
Để tăng sức thu hút cho kênh bán lẻ hiện đại cần tập trung đầu tư hơn nữa
cho việc cung cấp thực phẩm tươi sống. Hiện nay thế mạnh lớn nhất của kênh bán
lẻ truyền thống là cung cấp các mặt hàng thiết yếu hằng ngày, sản phẩm tươi sống,
chiếm 62% tổng chi tiêu của người dân nước ta. Bên cạnh đó, xu hướng tiêu dùng
đã chuyển từ chú trọng các mặt hàng đắt tiền sang các đợt khuyến mại, nên doanh
nghiệp cần triển khai các hình thức khuyến mãi, giảm giá. Đặc biệt, doanh nghiệp
trong nước cần nhanh chóng nắm giữ thị trường bán lẻ trên internet, tivi, điện thoại
di động bởi nhu cầu mua sắm nhanh qua các kênh thông tin này của nhóm người
tiêu dung trẻ tuổi đang tăng.

2.4. NHẬN XÉT CHUNG
Tóm lại, thị trường bán lẻ đã có một năm tương đối tốt đẹp với sự tăng
trưởng cao, đóng góp 15% vào GDP của quốc gia. Mặc dù thị trường bán lẻ Việt
Nam sụt hạng. Bên cạnh sự phát triển của kênh bán lẻ hiện đại, kênh bán lẻ truyền
thống vẫn tự mình vận chuyển, thay đổi phù hợp hơn với xu hướng mua hàng của

20


khách hàng. Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay cũng đang đối mặt với
nhiều khó khăn.Tuy nhiên, vẫn có nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển như nhu cầu
tiêu dùng của người dân ngày càng tăng cao; chính sách khuyến khích đầu tư nước
ngoài tốt hy vọng trong tương lai các doanh nghiệp này sẽ năng động, chuyên
nghiệp hơn để đưa thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển đủ sức cạnh tranh với các
tập đoàn lớn của nước ngoài trong thời kì đầu hội nhập.

21


Chương 3: KẾT LUẬN
Việt Nam gia nhập WTO đã tạo ra rất nhiều cơ hội phát triển cho thị trường
bán lẻ Việt Nam: tiếp nhận nguồn vốn lớn, kinh nghiệm quản lý, cơ sở hạ tầng phát
triển... Tuy vậy, thách thức đối với thị trường bán lẻ Việt Nam cũng không nhỏ.
Thách thức lớn nhất vẫn là nguy cơ chiếm lĩnh thị trường của các tập đoàn bán lẻ
nước ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, phương thức phân
phối, cơ sở hạ tầng, kỹ năng quản lý, chất lượng nguồn nhân lực... còn bộc lộ nhiều
yếu kém. Nếu như Chính phủ, các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt
động bán lẻ không có những biện pháp giải quyết kịp thời thì khả năng thách thức
trở thành hiện thực là rất lớn. Bởi vậy, Chính phủ cần đưa ra chiến lược phát triển,
quy hoạch thị trường bán lẻ rõ ràng. Đồng thời, Chính phủ cũng cần hoạch định

những chính sách pháp luật về thị trường bán lẻ nói riêng, hoạt động thương mại
nói chung chi tiết, đầy đũ góp phần vào sự minh bạch hóa của thị trường và tạo ra
một môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra, Chính phủ cần hỗ trợ
các doanh nghiệp bán lẻ bằng cách hỗ trợ thông tin, giúp đở đào tạo nguồn nhân
lực. Còn các doanh nghiệp, hộ gia đình tham gia hoạt động kinh doanh bán lẻ chính
mình cũng cần phải đổi mới về tư duy và phương thức kinh doanh. Điều quan trọng
là Chính phủ và các chủ thể tham gia bán lẻ cần có sự phối hợp nhịp nhàng để tạo
ra được sức mạnh thống nhất đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài.
Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Chính phủ; sự tự thân vận động của các
doanh nghiệp bán lẻ và sự ủng hộ của người dân, thị trường bán lẻ Việt Nam chắc
chắn sẽ phát triển nhanh và có một môi trường cạnh tranh công bằng giữa các
doanh nghiệp.
Đề tài nghiên cứu của em vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự
thảo luận, góp ý của Thầy để bài tiểu được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn Thầy đã hướng dẫn để hoàn thành đề
tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!

22



×