Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Thực chất và ý nghĩa của quan điểm ph ăngghen về nhà nước trong tác phẩm “nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.89 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nói về chủ nghĩa Mác, chúng ta thường đề cập đến nhiều luận
điểm, vấn đề quan trọng được coi là then chốt và có ý nghĩa lớn lao làm
nền tảng tư tưởng, là cơ sở lý luận của học thuyết khoa học và cách mạng
này. Một trong những vấn đề quan trọng đó là nhà nước, đó được xem là
một trong những vấn đề lớn trong triết học xã hội nói chung và trong triết
học Mác nói riêng.
Để có những quan điểm đúng đắn về nhà nước thì cần phải tìm hiểu
quan niệm về nhà nước trong di sản tác phẩm kinh điển của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Như tác phẩm “Chống Đuyrinh; Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của Nhà nước; Nhà nước và cách mạng…”. Các nhà
kinh điển đã nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc, đã vạch ra được
nguồn gốc xuất phát, hình thành và phân chia giai cấp dẫn đến sự hình
thành nhà nước bản chất giai cấp nhà nước, tính chất bóc lột nhà nước…
Và đặc biệt nghiên cứu vấn đề nhà nước theo phép biện chứng duy
vật được bắt đầu từ Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”. Đây là một trong những tác
phẩm quan trọng của chủ nghĩa Mác, một trong những công trình đầu tiên
viết về nguồn gốc nhân loại, sự hình thành và phân chia giai cấp dẫn đến
sự hình thành nhà nước.
Với tác phẩm này, Ăngghen đã trả lời một cách khoa học nhà nước
là gì, nó xuất hiện trên cơ sở nào, và tại sao các thời kỳ lịch sử khác nhau
nhà nước lại có những hình thức khác nhau và vai trò khác nhau. Với
cách đặt vấn đề như vậy, Ăngghen chỉ rõ rằng: Chỉ ở đâu có giai cấp, mâu
thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì mới có nhà nước. Nhà nước xuất
hiện là do những mâu thuẫn không thể điều hòa được. Nhà nước là cơ

1



quan thống trị của một giai cấp này đối với giai cấp khác, nhà nước có
bản chất giai cấp.
Từ việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản chất giai cấp nhà
nước và tính chất bóc lột, áp bức bóc lột của các kiểu nhà nước. Ăngghen
đã nêu lên quan điểm của một kiểu nhà nước mới, nhà nước của giai cấp
vô sản khác về chất so với nhà nước áp bức bóc lột và bác bỏ những luận
điểm phản khoa học về nhà nước…
Những luận điểm của Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm này thể
hiện sự phát triển và hoàn thiện về cơ bản và có hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa Mác về nhà nước. Dựa trên các quan điểm về lịch sử vào các sự
kiện về lịch sử Ăngghen đã chứng minh các luận điểm này trở thành cơ sở
lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở các nước chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt những quan điểm về nhà nước của Ăngghen đã có ý nghĩa
ngày càng quan trọng trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước và trong
việc xóa bỏ chế độ tư hữu. Và từ đó nhận thức rõ bản chất chế độ tư hữu,
muốn xóa bỏ chế độ tư hữu cần phất triển lực lượng sản xuất, nâng cao
trình độ của người lao động…
Với tất cả những lý do đó tôi đã chọn đề tài: Thực chất và ý nghĩa
quan điểm của Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tổng quan nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu quan điểm Nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” đã được nhiều công
trình đề cập tới như: Nguyên văn tác phẩm được dịch sang tiếng Việt in
trong Mác – Ăngghen, Toàn tập 21, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia Hà

2



nội, 1995. Tác phẩm được in thành sách riêng do nhà xuất bản tiến bộ
Mátxcơva 1987..
Ngoài ra đã có nhiều bài viết của các tác giả viết về vấn đề về nhà
nước trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”. Hội thảo khoa học được giới thiệu trong Tạp chí Triết học về
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”
của Ph.Ăngghen. Chủ đề của hội thảo tác phẩm này có rất nhiều nội dung
phong phú như vấn đề gia đình, nguyên nhân xuất hiện chế độ tư hữu và
sự hình thành và phân chia giai cấp dẫn đến sự hình thành nhà nước và sự
tiêu vong tất yếu của nhà nước trong xã hội cộng sản tương lai.
Liên quan đến vấn đề này, có tác giả Th.s Võ Thị Hồng Loan với bài
viết: Ý nghĩa của văn hóa - xã hội trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” trong Tạp chí Lý luận chính trị
tháng 8 năm 2006. Tác giả đã nêu bật ý nghĩa của quan niệm nhà nước
trong quan niệm của Ph.Ăngghen và việc xây dựng nhà nước của Việt
Nam. Bài viết của PGS.TS Trần Thanh với bài viết “Nhận thức và vận
dụng quan điểm của Mácxít về nhà nước” trong Tạp chí Lý luận chính trị
số 5 – 2005. Tác giả cũng nêu rõ những quan điểm chung về nhà nước và
phản bác lại những quan niệm sai lầm của các học giả tư sản muốn phủ
nhận tính giai cấp của nhà nước hòng che đậy bản chất bóc lột của nhà
nước tư sản. Và sự vận dụng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Tuy nhiên để hiểu rõ một cách khái quát và toàn diện và sâu sắc về
quan điểm nhà nước cũng như ý nghĩa của nó thì cần đòi hỏi mỗi người
chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài có mục đích làm rõ những quan điểm cơ bản của Ph.Ăngghen
về nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc của nhà nước, của chế độ tư hữu
và của nhà nước”. Đề tài nhằm chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản

chất nhà nước và các chức năng nhà nước. Từ đó thấy được nội dung
3


phong phú của vấn đề… hiểu rõ đây là một cống hiến xuất sắc về chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Ph.Ăngghen.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ 2 chương:
Chương 1: Thực chất quan điểm của Ph.Ăngghen về nhà nước
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”
Chương 2: Ý nghĩa của quan điểm Ph.Ăngghen về nhà nước trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Cơ sở lý luận:
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.
- Phương pháp nghiên cứu:
-Phương pháp phân tích - tổng hợp.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
- Phương pháp lịch sử - lôgic, khái quát trừu tượng hóa.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Do thời gian cũng như lượng kiến thức còn hạn chế nên khóa luận
chỉ tìm hiểu thực chất và ý nghĩa quan niệm về nhà nước của Ph.Ăngghen
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước”.
6. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống lại những quan điểm và khái quát một số quan điểm của
Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước”.
- Khóa luận hoàn thành là nguồn tài liệu để các bạn sinh viên, các

đọc giả nghiên cứu tham gia nhằm phục vụ mục đích học tập để hiểu rõ
những đóng góp của Ph.Ănghen về quan điểm nhà nước trong tác phẩm
kinh điển triết học.
4


7. Kết cấu của đề tài
Khóa luận ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo đề tài gồm có 2 chương, (năm tiết).
Chương 1: Thực chất quan điểm của Ph.Ăngghen về nhà nước trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Chương 2: Ý nghĩa của quan điểm Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác
phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”.
CHƯƠNG 1
THỰC CHẤT QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ
TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
1.1.Nguồn gốc của nhà nước
Trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”, Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng trong xã hội cộng sản
nguyên thủy không có nhà nước. Phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp
kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, hình thức tổ chức đầu tiên của xã hội
cộng sản nguyên thủy là thị tộc và bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc bộ lạc là
những tù trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của những nhười đứng
đầu những cơ quan quản lý xã hội dựa vàosức mạnh đạo đức và uy tín.
Quyền hành và chức năng của cơ quan lãnh đạo trong thời kỳ đó chưa
mang tính chính trị.
Như vậy, thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thủy là thể
chế tự quản của nhân dân. Mặc dù nhà nước chưa ra đời, xã hội vẫn còn
tồn tại trong vòng trật tự. Ph.Ăngghen từng nhận xét rằng, với tất cả tính

chất ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt
đẹp biết bao. Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc,

5


vua chúa, tổng đốc, trưởng quan và quan tòa, không có nhà tù, không có
những vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu
và phân chia xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thủy đã tan
rã. Ph.Ăngghen cho rằng sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy dẫn
tới sự ra đời của nhà nước.
Thứ nhất, do sự phát triển của sản xuất ở cuối xã hội nguyên thủy đã
dẫn tới sự dư thừa tương đối của cải xã hội. Đây là cơ sở khách quan làm
nảy sinh khát vọng chiếm đoạt sản phẩm lao động của nhân dân ở những
người đứng đầu thị tộc, bộ lạc, cũng là sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất và chế độ người bóc lột người.
Thứ hai, việc các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc sử dụng quyền lực chiếm
đoạt của nhân dân đã thúc đẩy sự phân hóa giai cấp trong xã hội. Sự đối
kháng giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc.
Thứ ba, chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc càng làm tăng quyền lưc
của thủ lĩnh quân sự, càng làm tăng thêm mâu thuẫn xã hội.
Thứ tư, các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ
trong nhân dân, từ chỗ là công cụ của nhân dân, trở thành đối lập của
nhân dân.
Toàn bộ những nguyên nhân ấy đã làm tăng thêm những mâu thuẫn
trong xã hội. Mâu thuẫn giai cấp lần đầu tiên xuất hiện là mâu thuẫn giữa
chủ nô và nô lệ. Các giai cấp đó không ngừng phát triển, mâu thuẫn giai
cấp ngày càng tăng dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó có thể
tiêu diệt lẫn nhau mà còn có khả năng tiêu diệt luôn cả xã hội. Để tránh

nguy cơ đó cần có một cơ quan quyền lực đặc biệt ra đời là nhà nước.
Như vậy, nhà nước chỉ xuất hiện ở nơi nào và lúc nào đã xuất hiện
sự phân chia xã hội thành giai cấp, đã xuất hiện những kẻ bóc lột và
những người bị bóc lột. Sự xuất hiện nhà nước không phải để giải quyết
các mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, cũng không phải để điều hòa mâu
6


thuẫn giai cấp mà là để duy trì mâu thuẫn giai cấp mà là để duy trì mâu
thuẫn giai cấp trong một giới hạn trật tự nhằm thực hiện được sự bóc lột
của giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất đối với người lao động.
1.2. Bản chất nhà nước
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước”, Ph.Ăngghen đã luận giải một cách rất đầy đủ về bản chất nhà
nước. Nhà nước có thể biểu hiện như là quyền lực công cộng của xã hội
nói chung nhưng xét về thực chất nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy
quyền lực của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác; là bộ
máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai
cấp khác; là một cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội;
là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội – tức là giai cấp
nắm được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội trong điều kiện lịch
sử nhất định. Bản chất giai cấp của nhà nước là bộ máy thống trị của giai
cấp thống trị, và trong mọi trường hợp, về căn bản vẫn là một bộ máy
dùng để đàn áp giai cấp bị áp bức và bị bóc lột. Nhà nước là một bộ máy
để cho giai cấp này áp bức giai cấp khác, một bộ máy dùng để duy trì
dưới sự thống trị của một giai cấp tất cả các giai cấp bị lệ thuộc khác.Nhà
nước đã tổ chức các biện pháp để thống trị của mình như: Nhà nước thực
hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ quốc gia, đồng thời trong phạm vi
lãnh thổ đó nhà nước quản lý dân cư theo các khu vực hành chính để thực
hiện sự thống nhất quyền lực cai trị; Nhà nước củng cố bộ máy của mình

bằng cách thành lập những đội vũ trang đặc biệt như: quân đội, cảnh sát,
nhà tù; Nhà nước xác lập chế độ thuế khóa để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị của mình.
Như vậy, xét về bản chất, nhà nước không phải là một lực lượng
điều hòa các mâu thuẫn chính trị, xã hội trong điều kiện có đối kháng giai
cấp mà là một lực lượng bạo lực của giai cấp thống trị về mặt kinh tế để
thực hiện sự thống trị của nó đối với các giai cấp khác và thực hiện được
7


lợi ích của chính giai cấp đó trước sự phản kháng của giai cấp khác. Theo
nghĩa đó, thực chất nhà nước là công cụ chuyên chính giai cấp trong điều
kiện xã hội tồn tại những đối kháng giai cấp không thể điều hòa được.
1.3. Chức năng nhà nước
Nhà nước là công cụ cơ bản của quyền lực chính trị trong xã hội có
giai cấp bởi nó có một bộ máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện chức
năng quản lý. Nhà nước là ý chí của tất cả các thành viên thuộc giai cấp
thống trị được hợp thành ý chí nhà nước. Nhà nước tồn tại để bảo vệ lợi
ích chủ yếu của giai cấp thống trị, mặc dù trên phương diện chính thức nó
là đại diện cho toàn xã hội.
Vì thế nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai
cấp và thực hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị buộc phải làm.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng bất kỳ nhà nước
nào cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Như vậy, nhà nước
có chức năng chính trị của giai cấp, chức năng giai cấp là chức năng nhà
nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống
trị giai cấp đó đối với toàn xã hội.
Ngoài thực hiện chức năng chính trị của giai cấp thì nhà nước còn
phải giải quyết tất cả các vấn đề nãy sinh trong xã hội, nghĩa là phải thực
hiện các chức năng xã hội. Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa

dạng của nó vừa mang bản chất giai cấp vừa mang tính xã hội. Vì vậy,
ngoài tư cách là công cụ duy trì, bảo vệ thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác, nhà nước còn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn bào gồm
mọi công dân thuộc mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc là phương diện tổ
chức đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, ổn định và phát triển, thực hiện hoạt
động này hay họat động khác phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội. Sự
thống trị chính trị và thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể hiện
trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại. Nhà nước thực hiện chức
năng đối nội nhằm duy trì trật tự kinh tế - xã hội và trật tự khác hiện có
8


trong xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước thực hiện
chức năng đối ngoại nhằm đảm bảo lãnh thổ, trong một số trường hợp
nhằm mở mang lãnh thổ và quan hệ với nước khác vì lợi ích. Sự thống trị
và thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối
nội cũng như đối ngoại. Nhà nước thực hiện chức năng đối nội nhằm duy
trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị, kinh tế và những trật tự khác hiện có
trong xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền – dù lợi ích đó luật hóa
hay chưa. Về bản chất giai cấp, pháp luật như C.Mác đã chỉ - chẳng qua
là ý chí đưa lên thành luật và thực hiện nhờ sự cưỡng bức của nhà nước.
Ngoài ra, để củng cố địa vị thống trị của giai cấp thống trị, nhà nước còn
sử dụng nhiều phương tiện khác như cơ quan thông tin… để xác lập và
củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành tư
tưởng chính thống trong xã hội.
Nhà nước thực hiện chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc
gia, trong một số trường hợp, nhằm “mở mang” lãnh thổ và quan hệ các
nước vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như quốc gia.
Chức năng đối nội cũng như chức năng đối ngoại của nhà nước đều
xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chức năng đối nội cũng như

chức năng đối ngoại là hai mặt của một thể thống nhất. Chức năng đối nội
là chủ yếu, bởi vì nhà nước ra đời tồn tại do cơ cấu giai cấp bên trong của
mỗi quốc gia quy định; sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trước
hết trên địa bàn quốc gia, dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị trước hết
và chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong nước. Tính chất chức
năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, ngược lại tính
chất và nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại
chức năng đối nội của nhà nước.

CHƯƠNG 2
9


Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM PH. ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM “NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CỦA CHẾ ĐỘ
TƯ HỮU VÀ CỦA NHÀ NƯỚC”
2.1. Ý nghĩa lý luận
Quan điểm về nhà nước của Ăngghen trong tác phẩm có ý nghĩa rất
lớn về mặt lý luận. Quan điểm của Ph.Ăngghen về nhà nước trong tác
phẩm này thể hiện sự phát triển và hoàn chỉnh về cơ bản và có hệ thống
các quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước. Những luận điểm
này trở thành cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở các nước trong cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa thực dân và đế quốc những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX đến nay.
Chính những luận điểm này đã đập tan những luận điểm sai lầm về
nhà nước. Họ xem nhà nước là một cái gì thần bí siêu tự nhiên, bởi các
luận điểm ấy gắn liền mật thiết với lợi ích của giai cấp, nó bào chữa cho
sự bóc lột của giai cấp thống trị, bào chữa cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư
bản. Đa số họ khi xem xét sự ra đời của nhà nước đều tách khỏi những

điều kiện vật chất của xã hội, tách rời những nguyên nhân kinh tế và
chứng minh rằng nhà nước là một thiết chế tồn tại trong xã hội, một lực
lượng đứng trên xã hội, đứng ngoài xã hội để giải quyết tranh chấp, điều
hòa mâu thuẫn xã hội, nhằm đảm bảo sự ổn định và phồn vinh xã hội.
Như vậy, qua tác phẩm với vấn đề nhà nước, Ph.Ăngghen đã bác bỏ
những luận điểm sai lầm của các học giả tư sản về sự tồn tại ngay từ đầu
của các gia đình phụ hệ, của chế độ tư hữu và của chính quyền nhà nước.
Những tư tưởng đó nhằm đi đến kết luận sự bất bình đẳng, bóc lột trong
xã hội loài người là hiện tượng vĩnh hằng, không thể thay đổi được. Bởi
đã có quan niệm cho rằng, nhà nước xuất hiện như là kết quả của sự phát
triển của gia đình. Quyền lực của nhà nước là sự chuyển hóa quyền lực
10


của người cha - gia trưởng. Do vậy nhà nước không có tính giai cấp.
Ph.Ăngghen chứng minh nhà nước không phải là một thế lực bên ngoài
gán ghép vào xã hội nó là một sản phẩm của một xã hội phát triển tới một
giai đoạn nhất định. Nhà nước - về bản chất là quyền lực chính trị của
một giai cấp, là công cụ để bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống
trị.
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” là bằng chứng chứng tỏ mối quan tâm của Ph.Ăngghen không chỉ
tới việc hoàn thành những tác phẩm của Mác chưa viết xong mà ông còn
cố gắng để thực hiện những dự định về lý luận của Mác. Tác phẩm này có
ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc tiếp tục phát triển và luận chứng cho
chủ nghĩa Mác.
Nghiên cứu về nhà nước trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước” của Ph.Ăngghen đã giúp cho chúng
ta có cái nhìn đích thực về quyền lực nhà nước. Nó có ý nghĩa nhận thức,
lý luận rất lớn. Nhà nước mang tính giai cấp. Quyền lực nhà nước thực

chất là sự thống trị chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào cũng muốn giành chính quyền, giữ
và sử dụng chính quyền để bảo vệ địa vị cũng như lợi ích cơ bản của
mình. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, theo quy luật chung, giai cấp
nào làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ làm chủ tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội và nắm được chính quyền nhà nước.
Quyền lực nhà nước mang tính giai cấp. Đương nhiên, giai cấp nắm
giữ quyền lực này chỉ vững mạnh, thành công khi có chủ trương, đường
lối chính sách và tổ chức thực hiện đúng quy luật khách quan. Tất cả các
chính sách đều nhằm phục vụ nhà nước tồn tại và suy cho cùng phản ánh
ý chí nguyện vọng, lợi ích của giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nắm
vững nhà nước luôn mang tính giai cấp sẽ tránh hiểu tính giai cấp nhà
nước một cách hẹp hòi. Nhà nước - về bản chất là quyền lực chính trị của
11


một giai cấp, là công cụ để bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống
trị. Khẳng định như thế là hoàn toàn đúng. Nhưng sẽ đi đến cực đoan nếu
cho rằng nhà nước không chú ý đến lợi ích chính đáng của các giai cấp,
tầng lớp khác trong xã hội; chỉ có giai cấp thống trị cùng những thành
viên của nó trong bộ máy nhà nước mới được tham gia công việc nhà
nước. Nắm vững vấn đề nhà nước, tránh tuyệt đối hóa tính chính trị, tính
giai cấp, coi nhẹ, ít chú ý đến tính xã hội của nhà nước.
Ngoài ra quan điểm của Ăngghen trong tác phẩm có ý nghĩa rất lớn
về mặt lý luận đó là căn cứ cho lý luận duy vật lịch sử về chức năng giai
cấp và chức năng tổ chức quản lý xã hội của nhà nước. Là một cơ quan
công quyền, nhà nước không chỉ có chức năng chính trị, chức năng giai
cấp, mà còn có chức năng xã hội mà cộng đồng xã hội đòi hỏi.
Quan điểm về nhà nước của Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” không chỉ có ý

nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa to lớn trong thời đại ngày nay. Trong bối
cảnh thế giới đang vận động dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa
kinh tế và kinh tế thị trường. Mặc dù tận dụng được những thành tựu của
khoa học và công nghệ thực hiện sự điều chỉnh trên phạm vi quốc tế song
bản chất nhà nước tư sản không thay đổi, mâu thuẩn cơ bản của chủ nghĩa
tư bản vẫn không thay đổi và có chiều hướng sâu sắc thêm. Điều này
khẳng định tính đúng đắn của học thuyết Ph.Ăngghen về nhà nước, phản
bác lại những học thuyết tư sản về chủ nghĩa về nhân dân, chủ nghĩa toàn
cầu hóa về nhà nước phúc lợi chung. Họ đưa ra rất nhiều lý luận về nhà
nước, trong đó họ biện hộ sự thống trị của giai cấp bóc lột, xóa nhòa tính
chất giai cấp của nhà nước tư sản.
Nghiên cứu, nắm vững thực chất quan điểm về nhà nước không
những có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh tư tưởng mà còn mang
tính thời sự thực tiễn bức thiết ở Việt Nam nước ta hiện nay. Đặc biệt là lý
luận giai đoạn phát triển nhà nước đến tư tưởng nhà nước tiêu vong của
12


Ph.Ăngghen. Nó lại càng có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Ph.Ăngghen đã đưa
ra tiên đoán mang tính chất kim chỉ nam hành động cho những người
cộng sản trên toàn thế giới. Đến một giai đoạn phát triển kinh tế nhất
định, giai đoạn tất yếu giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng không tránh
khỏi tiêu vong theo. Xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp
tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất.
Nhà nước tiêu vong – nét đặc sắc trong cách tiếp cận của Ph.Ăngghen
về nhà nước chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là hình thức nhà
nước quá độ để tiến tới xã hội không có nhà nước. Đây là một nét đặc sắc,
rất dũng cảm, rất cách mạng và rất khoa học trong học thuyết của các nhà
kinh điển nói chung, của Ph.Ăngghen nói riêng về nhà nước. Bằng những
công trình nghiên cứu thực tế trong tác phẩm nổi tiếng “Nguồn gốc của gia

đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” Ph.Ăngghen đã chứng minh rất
cụ thể, đích xác là xã hội loài người đã từng tồn tại một thời kỳ không có
nhà nước, không cần đến nhà nước. Đó là xã hội thị tộc và những cơ quan
quản lý của thị tộc do toàn bộ thành viên của thị tộc chỉ ra để chỉ huy mọi
công việc chung của thị tộc đó. Sau đó xã hội phát triển đến một trình độ
nhất định nhà nước mới ra đời. Và cũng rất khoa học, trên cơ sở phân tích
sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước Ph.Ăngghen đã đi đến kết
luận: Theo quy luật phát triển tất yếu của lịch sử, nhà nước sẽ tiêu vong khi
sản xuất phát triển đến một giai đoạn nhất định nào đó với một năng suất
lao động rất cao; cùng với sức sản xuất phản triển cao đó, chế độ tư hữu
không còn cơ sở để tồn tại. Chế độ tư hữu mất đi, giai cấp mất đi, thì nhà
nước cũng sẽ tự tiêu vong. Khi ấy bộ máy nhà nước sẽ được xếp vào viện
bảo tàng đồ cổ bên cạnh cái xa kéo sợi và cái rìu bằng đồng. Ph.Ăngghen
viết “Đã có những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái
niệm nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn
phát triển kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân
chia xã hội thành giai cấp, thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành
13


một tất yếu. Bây giờ chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát
triển sản xuất, trong đó sự tồn tại của giai cấp nói trên không những không
còn là một sự tất yếu nữa, mà còn trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản
xuất. Những giai cấp đó sẽ không tránh khỏi biến mất cũng như xưa kia
chúng đã không tránh khỏi xuất hiện. Giai cấp tiêu vong thì nhà nước cũng
không tránh khỏi tiêu vong theo xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ
sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa những người sản xuất, dân chủ trong
việc quản lý, hữu ái trong xã hội, bình đẳng về quyền lợi, giáo dục phổ
thông, tất cả cái đó sẽ chiếu rọi cho các giai đoạn cao sắp tới của xã hội mà
kinh nghiệm, lý trí và khoa học đang không ngừng vươn tới”.[15;257 –

258].
Trong giai đoạn hiện nay, xã hội vẫn còn tồn tại giai cấp và đấu
tranh giai cấp bởi vậy hiện nay vẫn còn tồn tại nhà nước. Khi cuộc cách
mạng vô sản nổ ra và giành được thắng lợi thì giai cấp vô sản mới giành
được chính quyền thống trị . Ngược lại giai cấp tư sản mới chỉ đánh đổ về
mặt chính trị, nhà nước. Nó vẫn còn tiềm lực về kinh tế: của cải, tư liệu
sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản. Hơn nữa sau thời gian dành
được chính quyền những cơ sở để làm nảy sinh sự phân chia xã hội thành
những giai cấp đối kháng nói chung vẫn còn tồn tại. Cơ sở đó là nền sản
xuất nhỏ cùng với nó là chế độ tư hữu. Do đó đấu tranh trong thời kỳ này
là cải tạo nền sản xuất nhỏ lên sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhằm xoá bỏ
chế độ tư hữu thiết lập chế độ công hữu. Ngoài ra, còn có nhiều âm mưu
can thiệp của chủ nghĩa đế quốc bên ngoài kết cấu, bọn phản động bên
trong phá hại nhân dân. Và những thời kỳ này còn tồn tại những tư tưởng,
những tư tưởng xã hội cũ của giai cấp thống trị vẫn chưa quét sạch mà
còn in đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân. Do vậy, trong thời kỳ
quà độ vẫn còn tồn tại nhà nước. Nhà nước chuyên chính vô sản, nhà
nước không còn nguyên nghĩa nhà nước. Nhà nước chuyên chính vô sản
là nhà nước có sự kết hợp chặt chẽ hai chức năng. Chức năng trấn áp và
14


chức năng tổ chức xây dựng. Trong hai chức năng đó chức năng tổ chức
xây dựng được xem là chức năng quan trọng nhất. Nhà nước chuyên
chính vô sản là kiểu nhà nước đặc biệt, không phải là nhà nước của giai
cấp thống trị mà là nhà nước của nhân dân lao động. Do vậy sau khi hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình thì nhà nước chuyên chính vô sản nó sẽ
tự tiêu vong. Nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà nước. Và sự tiêu
vong của nhà nước chuyên chính vô sản là sự tiêu vong nhà nước nói
chung. Vì vậy, Lênin đã viết: Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới làm cho nhà

nước trở nên hoàn toàn không cần thiết vì lúc bấy giờ nó không còn ai
“trấn áp ai”.
Như vậy, với tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước” đã đưa ra tiên đoán “nhà nước tiêu vong”, nó có ý nghĩa
làm kim chỉ nam cho tất cả những người cộng sản và giai cấp vô sản trên
toàn thế giới; muốn làm cho nhà nước tự tiêu vong thì phải làm cho nó
ngày càng mạnh hơn, vững mạnh, phát triển hơn.
Đối với nước ta, thấm nhuần và tiếp thu sáng tạo tư tưởng của
Ph.Ăngghen về nhà nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang chủ
trương “Xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện cuộc làm
chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân”.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” của Ph.Ăngghen không chỉ có một ý nghĩa lý luận mà còn có một
ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn.
Thật vây, khi tìm hiểu về nguồn gốc xuất hiện nhà nước thì cũng
đồng thời hiểu rõ về nguồn gốc xuất hiện chế độ tư hữu. Chế độ tư hữu đã
ra đời cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trao đổi của
hàng hóa, nền sản xuất phát triển với nhiều nghành nghề chuyên môn làm

15


xuất hiện nhu cầu trao đổi và nền sản xuất hàng hóa ra đời. Chế độ tư hữu
xuất hiện.
Cùng với việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước có tiền đề từ chế
độ tư hữu Ph.Ăngghen đã chỉ rõ bản chất của chế độ tư hữu. Chế độ tư
hữu là sự chiếm hữu tư liệu sản xuất của một giai cấp trong xã hội cùng
với sự sản xuất. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ trong xã hội, ai giai cấp nào nắm

giữ toàn bộ tư liệu sản xuất, thì thống trị quá trình sản xuất thống trị xã
hội. Sự xuất hiện một thiết chế như chế độ tư hữu trong đời sống con
người được quy định một cách hợp quy luật bởi mức độ nhất định của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Vì vậy, sự xuất hiện chế độ
tư hữu không phải là thành quả hoạt động của trí tuệ, không phải là sự
thực hiện của các nhóm xã hội nhất định. Nó được lý giải bằng nhu cầu
chín muồi về một phương thức điều hành mới về nguyên tắc của toàn xã
hội đối với sản xuất và tiêu dùng, phương thức này đã mở ra cho con
người phát triển sản xuất và văn hóa. Bản chất của chế độ tư hữu được
thể hiện ở phương diện tự nhiên đối với tư liệu sản xuất và phương diện
xã hội đối với tư liệu sản xuất.
Bản chất của chế độ tư hữu là khả năng chi phối các tư liệu sản xuất
và sản phẩm lao động. Việc chi phối này ngày càng thể hiện trong việc
trao đổi đó là: chuyển nhượng, chiếm hữu bán và mua. Đặc biệt là khi
tiền kim loại, tiền đúc ra đời đã xem là một thủ đoạn thống trị mới của kẻ
thống trị, của kẻ không sản xuất đối với người sản xuất và đối với sản
xuất của người này. Tức là giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất: ruộng đất và
tiền thì có vai trò chi phối các giai cấp không nắm tư liệu sản xuất.
Ph.Ăngghen đã phân tích các mặt của chế độ tư hữu đó là quan hệ sử
dụng, chiếm hữu và chi phối đã hình thành trong quá trình hình thành các
thiết chế của chế độ tư hữu. Chiếm hữu với tính cách là khả năng sử dụng
lâu dài (hoặc khả năng dài hạn, hoặc khả năng biến đổi trong quá trình
trao đổi), các thuộc tính của sở hữu tách riêng là trung tâm điểm của các
16


quan hệ sở hữu ấy. Còn quyền sử dụng - là sự tiêu dùng những tiền đề của
sản xuất. Chiếm hữu là đòi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt xã hội cho
quyền sử dụng của một chủ thể nhất định trong khoảng thời gian nhất
định. Phân phối hay sở hữu toàn bộ là mối liên hệ liên quan tới việc giải

quyết số phận của đối tượng sở hữu, cho đến lúc nó được chuyển nhượng.
Dưới con mắt của Ph.Ăngghen, ông đã phân tích trong tác phẩm
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” chủ thể
của chế độ tư hữu là tầng lớp xã hội vừa mới hình thành, đầu tiên là tầng
lớp quý tộc quân sự, những tu sĩ lớp trên và sau đó là thương nhân và kẻ
cho vay nặng lãi. Ph.Ăngghen đã phân tích chế độ tồn tại của chế độ tư
hữu: đó là xã hội nô lệ, xã hội phong kiến và xã hội tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp thống trị chiếm đoạt tư liệu sản xuất, bắt người lao động làm
thuê tạo ra một lượng của cải khổng lồ
Như vậy, trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước” Ph.Ăngghen đã chỉ rõ bản chất của chế độ tư hữu
đó là hình thức chiếm đoạt của một giai cấp thống trị về tư liệu sản xuất.
Đặc biệt, Ph.Ăngghen đã phân tích chế độ sở hữu tư nhân trong xã hội tư
bản chủ nghĩa. Sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với tư cách là kết quả của
lao động bị tha hóa đã trở thành nguyên nhân suy đến cùng, nguyên nhân
chủ yếu và cơ bản gây ra những tai họa khủng khiếp cho con người, làm
cho con người bị tha hóa. Do vậy để giải phóng con người, cần phải xóa
bỏ chế độ tư hữu đó. Muốn xoá bỏ chế độ tư hữu phải có hai điều kiện:
đó là phải dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, chừng nào chưa xây dựng
lực lượng sản xuất hiện đại thì chưa xoá bỏ chế độ tư hữu. Điều kiện thứ
hai để xoá bỏ chế độ tư hữu là phải dựa trên trình độ phát triển cao của
con người. Điều này giải thích tại sao giai đoạn trước kia và hiện nay
chưa thể xoá bỏ được chế độ tư hữu vì chưa có lực lượng sản xuất hiện
đại.

17


Đặc biệt, muốn xây dựng chủ nghĩa cộng sản thì phải xóa bỏ một
cách tích cực chế độ tư hữu thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

thì con người mới được giải phóng. Hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã có
nhiều thay đổi và điều chỉnh song vẫn không làm thay đổi bản chất chế
độ sở hữu tư hữu tư bản chủ nghĩa. Nhưng biện pháp của của chủ nghĩa
tư bản đó chẳng qua là biện pháp xả van an toàn, tháo ngòi nổ của những
mâu thuẫn tư bản và lao động làm thuê, giữa giai cấp tư sản và nhân dân
lao động vốn đang tồn tại cố hữu trong xã hội tư bản hiện đại.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ chế độ tư hữu không phải là một việc có thể
tiến hành nhanh chóng. Không thể xóa bỏ ngay chế độ tư hữu một cách
chủ quan, duy ý chí mà thời gian của sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” là định
tính phụ thuộc vào sự phát triển của mâu thuẫn giữa lao động và tư bản.
Bởi vì, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của chế độ tư hữu có tính lịch sử
của nó.
Không có một hình thái xã hội nào diệt vong mà tất cả lực lượng sản
xuất của hình thức xã hội đó chưa tạo được địa bàn đầy đủ cho sự phát
triển. Những quan hệ sản xuất mới, cao hơn cũng không bao giờ xuất
hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó
chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Bởi vậy, từ Đại hội VI của
đảng cộng sản Việt Nam tới nay, trải qua các kỳ đại hội VII, VIII, IX, X.
Quan điểm của Đảng ta về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam đã có nhiều biến đổi và sáng tạo, phù hợp với phát triển của thời đại.
Trong đó có những đổi mới, và sáng tạo của Đảng ta trong sự chỉ đạo
chiến lược về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa rất đáng kể. Đảng ta chủ trương: đảng viên làm
kinh tế tư nhân phải gương mẩu chấp hành pháp luật, chính sách Nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành điều lệ đảng và quy định của Ban chấp
hành Trung ương. Dẫu việc Đảng ta khẳng định và tạo điều kiện cho sở
hữu tư nhân có được một vị trí thích đáng trong nền kinh thế thị trường xã
18



hội chủ nghĩa là một hoạch định và chỉ đạo chiến lược cần thiết, đúng dắn
và phù hợp với quy luật vận động và phát triển xã hội. Qua đó, có thể
khẳng định tầm tư duy lãnh đạo và bản lĩnh chính trị của Đảng ta. Và
hoàn toàn có thể khẳng định rằng, trong thời đại ngày nay chủ nghĩa Mác
vẫn là bất diệt.
KẾT LUẬN
Tác phẩm của Ph.Ăngghen “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước” là một trong những tác phẩm chủ yếu của chủ
nghĩa Mác, ra đời vào thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở một trình
độ cao và đang chuyển mạnh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, đồng thời
cũng là thời kỳ giai cấp vô sản tập trung lực lượng để chuẩn bị cho cuộc
cách mạng mới.
Bởi vậy, việc Ph.Ăngghen quyết định viết tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” đã đề cập tới một nội dung
hết sức quan trọng đó là nhà nước. Ph.Ănghhen đã chỉ rõ nguồn gốc xuất
hiện nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết quả
của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, là sản phẩm của
sự phát triển bên trong của xã hội, là công cụ của một giai cấp nhất định
thống trị xã hội. Do đó, nhà nước có chức năng cơ bản là kiềm chế mâu
thuẫn đối kháng giai cấp giữa những xung đột giai cấp trong vòng trật tự
của sự thống trị. Ph.Ănghhen chỉ rõ tiền đề để có sự xuất hiện Nhà nước
là sự ra đời của chế độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp. Sự ra
đời của chế độ tư hữu làm xuất hiện tình trạng bất đồng về của cải, hình
thành sự phân biệt giữa kẻ giàu và người nghèo giữa chủ nô và nô lệ. Do
sự phát triển của lực lượng để sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu phân
chia xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thủy đã tan rã.

19



Ph.Ăngghen cho rằng sự tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy dẫn tới
sự ra đời của Nhà nước là do:
Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ
lao động, đã cho phép có thể tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo
nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình. Sở hữu chung trở thành vật cản đối với sự
phát triển của sản xuất. Hơn nữa công cụ sản xuất đó, người ta có thể sản
xuất một lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cầu tối thiểu
cho sự tồn tại của mình. Đó là cơ sở khách quan làm nảy ở những người
có chức và có quyền trong công xã khát vọng chiếm đoạt sản phân lao
động của người khác.
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đưa tới một kết quả
song trùng: chế độ sở hữu chung bị thay thế bởi chế độ sở hữu tư nhân
đối với tư liệu sản xuất, xuất hiện chế độ người bóc lột người.
Thứ hai, sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng và khát vọng
muốn chiếm đoạt nó đã làm nảy sinh ở giới cầm quyền thói ham của. Họ
sử dụng mọi quyền lực có trong tay để thực hiện khát vọng đó. Đây là
nguyên nhân thúc đẩy sự phân hóa xã hội. Giai cấp xuất hiện, quan hệ áp
bức người thay thế quan hệ bình đẳng, hợp tác, tương trợ. Sự đối kháng
giữa giai cấp bóc lột và bị bóc lột ngày càng sâu sắc.
Thứ ba, chiến tranh ăn cướp giữa các bộ lạc, thị tộc làm cho quyền
lực của thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cùng với sự ra đời
chế độ phụ quyền, người trong một gia đình được quyền kế thừa thủ lĩnh
quân sự, làm cho họ ngày càng giàu có về của cải; địa vị thống trị của họ
ngày càng được củng cố và mở rộng, họ bóc lột nhân dân ngày càng thậm
tệ. Họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân.
Thứ tư, cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ
của nó trong nhân dân. Từ chỗ là công cụ của nhân dân, các tổ chức đó
trở thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân

20



Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất hiện
trong lịch sử xã hội - chủ nô và nô lệ dẫn tới nguy cơ chẳng những các
giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó
không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước một thiết chế có tiền thân của mình từ những tổ chức phi chính trị xuất
hiện ngay trong xã hội thị tộc, bộ lạc. Trong xã hôi thị tộc, bộ lạc đã xuất
hiện những thiết chế có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng;
giờ đây khi xuất hiện giai cấp các thiết chế đó biến thành công cụ bảo vệ
lợi ích của một giai cấp. “Lúc đầu xã hội, bằng sự phân công đơn giản
trong lao động, thiết lập ra những cơ quan đặc thù để bảo vệ những lợi ích
chung của mình. Nhưng với thời gian, các cơ quan ấy mà cơ quan chủ
chốt là chính quyền nhà nước, do phục vụ lợi ích riêng của mình, đã từ
chỗ là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội”.[15;258]
Như vậy, sự ra đời nhà nước chứng tỏ rằng nhà nước không phải là
cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn
giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hòa được. Giai cấp bóc lột
không thể duy trì địa vị bóc lột, nếu không dựa vào bộ máy bạo lực mà bộ
phận chủ yếu của nó là những đội vũ trang đặc biệt dùng để trấn áp giai
cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh đã trở nên gay gắt, chế độ nhân
dân tự tổ chức thành lực lượng vũ trang không còn thích hợp. Nó phải
được thay thế bằng thiết chế nhà nước.
Trong tác phẩm này Ph.Ăngghen cũng chỉ ra đặc trưng và chức năng
của nhà nước.Ph.Ăngghen đã nêu ra ba dấu hiệu cơ bản của nhà nước.
Chúng bao gồm tiêu chuẩn tổng hợp, phân biệt cơ bản nhà nước vời hệ
thống tự quản xã hội của chế độ công xã nguyên thủy. Đó là, nhà nước
với cơ quan tự quản của chế độ thị tộc, theo Ăngghen là việc tổ chức dân
cư theo lãnh thổ. Đây là đặc trưng làm rõ sự khác biệt của nhà nước với
các hình thức tổ chức thị tộc, bộ lạc. Các tổ chức thị tộc bộ lạc được hình
thành trên cơ sở những quan hệ huyết thống, còn nhà nước hình thành

21


trên cơ sở phân chia dân cư theo địa bàn lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực
nhà nước, về nguyên tắc, có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống
trên địa bàn ấy. Từ đó, biên giới quốc gia xuất hiện. Một dấu hiệu khác để
phân biệt nhà nước với cơ quan tự quản thị tộc là có một cơ quan quyền
lực và nó được hình thành từ một tầng lớp xã hội đặc biệt trong dân cư đại biểu cho chức năng thi hành quyền lực, bảo vệ duy trì đặc quyền, đặc
lợi mang tính chất cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Đặc
trưng thứ ba được Ăngghen gọi là việc đánh thuế vào dân cư và công trái.
Thuế má là nguồn phương tiện đặ thù để duy trì bộ máy đàn áp quần
chúng lao động bằng sức lực của chính người và bóc lột. Thuế má và
công trái dần dần phát triển thành một hệ thống thu thuế của nhà nước.
Về thực chất, điều đó có nghĩa là sự hình thành một hệ thống trị tự bảo
bảm đời sống kinh tế của nhà nước. Tất cả những biện pháp đó được đặt
ra để duy trì quyền lực công cộng - mà thực chất là quyền lực nhà nước
do giai cấp thống trị tổ chức nên.
Như vậy, với tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước” Ăngghen đã vạch ra bản chất của nhà nước “Nhà nước
là Nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của giai cấp thống trị về mặt
kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt
chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc
lột giai cấp bị áp bức”.[15;255] Cuối cùng khi kết thúc tác phẩm,
Ăngghen muốn nhấn mạnh tính chất nhất thời về mặt lịch sử của nhà
nước. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự
phát triển xã hội và mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. “Giai
cấp tiêu vong thì nhà nước không tránh khỏi tiêu vong theo. Xã hội sẽ tổ
chức lại nền sản xuất trên cơ sở của sự liên hợp tự do và bình đẳng giữa
những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ nhà nước xếp vào cái vị trí thật
sự của nó lúc bấy giờ: vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xe kéo sợi và

cái rìu bằng đồng”.[16;258]
22


Từ quan điểm về Nhà nước của Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” có một ý nghĩa lý
luận và ý nghĩa thực tiễn to lớn. Bổ sung, cung cấp về lý luận về nhà
nước của chủ nghĩa Mác - Lênin… Quan điểm của Ăngghen trong tác
phẩm có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận đó là xác định nguồn gốc xuất
hiện nhà nước, xác định bản chất của nhà nước. Điều này, là cơ sở lý luận
để đập tan những luận điểm sai lầm của giai cấp tư sản về nhà nước nhằm
bảo về địa vị thống trị, xóa nhòa tính giai cấp và bản chất bóc lột của
mình. Quan điểm của Ph.Ănghen về nhà nước còn là cơ sở lý luận cho
giai cấp công nhân đấu tranh để tiến tới xây dựng xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Hơn nữa, quan điểm của Ph.Ăngghen còn là căn cứ cho lý luận duy
vật lịch sử về chức năng giai cấp và chức năng tổ chức - quản lý xã hội của
nhà nước.
Đặc biệt là tác phẩm còn giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của chế độ
tư hữu, vận dụng vào cách mạng xóa bỏ chế độ tư hữu. Nhưng việc xóa
bỏ chế độ tư hữu không phải là việc tiến hành nhanh chóng mà phải là
quá trình lâu dài. Muốn xóa bỏ được chế độ tư hữu thì phải phát triển lực
lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, lúc dó mới xóa bỏ được chế
độ tư hữu.
Qua ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm “Nguồn gốc
gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước” nói riêng và chủ nghĩa Mác
nói chung. Chúng ta càng thấy thấy giá trị trường tồn những giá trị mà tác
phẩm kinh điển đã để lại cho tới ngày hôm nay.

23




×