Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học phật giáo của trần nhân tông tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.52 KB, 35 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới có nguồn gốc từ Ấn
Độ. Phật giáo đã truyền vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công
nguyên, đến nay đã gần 2000 năm. Từ đó đến nay, Phật giáo đã để lại
cho dân tộc ta nhiều dấu ấn có thể thấy từ tín ngưỡng cho đến văn
hóa, phong tục, tập quán, từ thế giới quan đến nhân sinh quan, từ tư
tưởng đến tình cảm. Từ khi du nhập vào nước ta, Phật giáo đã tồn tại
và gắn liền với lịch sử dân tộc, Phật giáo được bản địa hóa, mang
đậm màu sắc văn hóa Việt Nam và là một bộ phận của nền văn hóa
tinh thần, cũng như nếp sống của người Việt.
Ngay từ thời kỳ đầu dựng nước, thời kỳ khẳng định nền độc lập
dân tộc, Phật giáo và dân tộc đã gắn bó mật thiết, khăng khít với
nhau. Lý Nam Đế (451- 547) vừa tạo lập ra nước “Vạn Xuân” vừa
xây dựng chùa “Khai Quốc”. Hình ảnh nước “Vạn Xuân” và chùa
“Khai Quốc” đã quyện chặt vào nhau trong buổi đầu dựng nước và
giữ nước. Ở thời Lý, Phật giáo tiếp tục chiếm vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần của nhân dân. Câu tục ngữ “Đất vua, chùa làng, phong
cảnh Bụt” phản ánh trong ý thức người dân vai trò của Phật giáo
trong giai đoạn lịch sử này. Dưới triều đại nhà Trần ở thế kỷ XIII,
Phật giáo phát triển mạnh và được xem như là quốc giáo. Đặc biệt
vào thời đại vua Trần Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo phát triển
đến cực thịnh.

1


Đời Trần là thời đại mà Phật giáo thật sự hoà nhập vào lòng dân
tộc từ hình thức lẫn nội dung, yếu tố đưa đến thành công và những
đặc sắc của đạo Phật không tách rời với sự phát triển của dân tộc.
Phật giáo đã trở thành cốt tuỷ và hoà nhập với nền văn hóa dân tộc.


Nó hoàn toàn phù hợp với tâm tư nguyện vọng của một dân tộc khao
khát hoà bình, yêu thích tự do độc lập. Khi chiến tranh chống ngoại
xâm, đạo Phật đã tập hợp những tâm hồn yêu nước, thương dân, đoàn
kết một lòng mọi người với ông Bụt từ bi, với Quan Âm cứu khổ và
giáo lý thực tiễn không tách rời cuộc sống bằng thân, khẩu, ý. Đặc
sắc của Phật giáo đời Trần là tính tích cực nhập thế. Có thể nói rằng
các vị vua, các thiền sư đã sử dụng đúng tiềm năng của đạo Phật,
khiến cho nó trở thành một tôn giáo không thể thiếu trong đời sống
văn hóa xã hội Việt Nam.
Trong số những vị vua, các nhà thiền sư của nhà Trần, thì Trần
Nhân Tông nổi lên không chỉ với tư cách là nhà chính trị, nhà quân
sự nổi tiếng, là một anh hùng dân tộc đã hai lần lãnh đạo nhân dân
nước Đại Việt đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông để giành lấy
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước; mà ông còn là nhà văn
hóa, nhà tư tưởng nổi tiếng đương thời. Điều đáng chú ý là Trần
Nhân Tông còn là vị hòa thượng chân tu, một nhà thiền học có công
lớn nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Ông xuất phát từ thực tế
Việt Nam để sáng lập ra một tông phái Phật giáo mang bản sắc Việt
Nam - thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Vì vậy, nghiên cứu triết học Trần Nhân Tông có ý nghĩa vô
cùng to lớn. Bởi nghiên cứu tư tưởng triết học Trần Nhân Tông để

2


làm sáng tỏ vị trí, vai trò của Trần Nhân Tông đối với Phật giáo Việt
Nam nói chung và đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt
Nam nói riêng. Đồng thời, nó giúp chúng ta biết đến những di sản tư
tưởng văn hóa quý báu của cha ông, để “gạn đục, khơi trong” tiếp
nhận, phát huy những gì là tích cực, ngăn chặn, gạt bỏ những gì là

tiêu cực trong công cuộc đổi mới, mở cửa hiện nay, góp phần xây
dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Với những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Góp phần tìm hiểu
tư tưởng triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông” để làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về những
tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông. Ở đây có thể nêu lên một số
tác phẩm tiêu biểu sau:
- Nguyễn Tài Đông, “Việt Nam hóa Phật giáo ở Trần Nhân
Tông”, Tạp chí Triết học số 12 – 2008
- Nguyễn Đức Sự, “Trần Nhân Tông nhà Thiền học, nhà tư
tưởng lỗi lạc thời Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 12 – 2008
- Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông – Con người và tác phẩm,
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1999
- Nguyễn Tài Thư, “Xu hướng nhập thế trong tư tưởng Phật
giáo Trần Nhân Tông”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 11 – 2009
- Hoàng Ngọc Vĩnh, Phật giáo Huế với đời sống văn hóa tinh
thần con người Huế, Đề tài cấp Bộ B2007-ĐHH 01-41.

3


- Hoàng Ngọc Vĩnh, Giáo trình tôn giáo học đại cương, Nxb
Đại học Huế, Huế 2009.
- Hoàng Ngọc Vĩnh, Hồ Chí Minh với một số tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Đại học Huế, Huế 2009.
Các công trình nghiên cứu mới này đã khẳng định: Phật giáo
Trúc Lâm là nhập thế; phụng sự cho đời sống; giải thoát tâm linh
cũng như giải thoát đời sống xã hội là hai phương diện liên quan đến

nhau, bổ túc cho nhau; Phật tại tâm của Trúc Lâm Yên Tử là sự phát
triển đến trình độ cao gần như hoàn thiện quan niệm Phật tại tâm của
Phật giáo.
Trong quá trình thực hiện đề tài “Góp phần tìm hiểu tư tưởng
triết học Phật giáo của Trần Nhân Tông” nhóm tác giả đã có sự tiếp
thu kế thừa những thành tựu đã đạt được trong các công trình nêu
trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Góp phần làm sáng tỏ vị trí vai trò của
Trần Nhân Tông trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là tư
tưởng về bản thể luận và nhân sinh quan của Trần Nhân Tông; những
đóng góp của ông trong sự phát triển tư tưởng triết học Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày cơ sở hình thành tư tưởng triết học của Trần Nhân
Tông.
- Làm sáng tỏ một số nội dung triết học Phật giáo cơ bản của
Trần Nhân Tông như bản thể luận, nhân sinh quan v.v..

4


- Làm rõ những đóng góp của Trần Nhân Tông đối với Phật
giáo Việt Nam nói riêng, với đời sống văn hóa Việt Nam nói chung.
4. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin;
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về vấn đề tôn giáo.
Phương pháp nghiên cứu
- Phép biện chứng duy vật, với những nguyên tắc khách quan,

toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể là phương pháp nghiên cứu xuyên
suốt của đề tài.
- Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác
như phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, trừu tượng hóa, khái quát
hóa v.v.. để thực hiện đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ giá trị tư tưởng triết học của Trần
Nhân Tông, đặc biệt là bản thể luận và nhân sinh quan của ông.
- Đề tài là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
nền văn hóa Việt Nam và triết học Việt Nam nói riêng, mà sự quan
tâm này là một nhu cầu cấp bách và to lớn trong xã hội hiện nay.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết:
Chương 1: Cơ sở hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông

5


Chương 2: Những nội dung cơ bản trong triết học Phật giáo của
Trần Nhân Tông

6


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO TRẦN NHÂN TÔNG
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Sự hình thành và phát triển của tư tưởng triết học Trần Nhân
Tông không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, bất thường, mà là
một hiện tượng có tính tất yếu lịch sử. Nó không những phản ánh
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội lúc bấy giờ, mà còn là kết
quả của sự tiến triển nội tại của Phật giáo Việt Nam.
Nếu cuối thời Lý nền kinh tế bị suy thoái thì với triều Trần lực
lượng sản xuất bắt đầu được phục hồi và phát triển. Nhà Trần đề ra
chủ trương khai khẩn đất hoang, đắp đê quai vạc ngăn úng lụt, nước
mặn. Bởi vậy số làng quê tăng lên nhanh chóng. Trong các lộ, tỉnh,
nhà Trần đều có người theo dõi đê điều, canh tác đất hoang và quản
lý dân số. Những chính sách tích cực của nhà Trần nhằm đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp, đã có tác dụng đáng kể, nhiều năm được mùa
lớn, cuộc sống nhân dân ổn định.
Những biến đổi to lớn trong cơ sở kinh tế, trong thượng tầng
kiến trúc, nhà nước đã tạo nên những yếu tố tích cực thúc đẩy sự
phục hồi, phát triển của xã hội Việt Nam ở thế kỷ XIII và cho đất
nước một sức mạnh mới đủ sức đánh bại các cuộc xâm lược của quân
Nguyên Mông vào những năm 1258, 1285 và 1287 - 1288.
Sau kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi, do
nhiều nguyên nhân khác nhau như mất mùa, đói kém làm nhân dân

7


rơi vào tình trạng bần cùng hóa, nên “nhân dân nhiều người phải bán
ruộng đất và bán con trai, con gái làm nô tỳ” làm cho xã hội lúc này
hình thành một tầng lớp đông đảo những người nông nô và nô tỳ.
Trong khi đó, quan lại, quý tộc nhà Trần chiếm hết ruộng đất, ăn chơi
xa xỉ, không quan tâm đến cuộc sống của người dân.
Nhận thức được những mâu thuẫn đó, tập đoàn quý tộc tôn thất

nhà Trần đã cố gắng xoa dịu mâu thuẫn. Tư tưởng của Trần Nhân
Tông một mặt phản ánh phản ánh nhu cầu, khát vọng của dân tộc
Việt Nam đang xây dựng, bảo vệ một quốc gia độc lập, tự chủ, thống
nhất, mặt khác nhằm duy trì và củng cố quyền lực, địa vị thống trị
trên toàn xã hội của dòng họ Trần.

1.2. Nguồn gốc tư tưởng
Sự hình thành những tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông là
sự phát triển nội tại, kế thừa, dung hợp các dòng thiền trước đó
(Vinitaruci, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường).
Quan điểm trọng tâm và xuyên suốt của dòng Thiền Vinitaruci
là vươn tới bản chất của sự giác ngộ. Kinh tượng đầu tịnh xá mà
Vinitaruci rất ưa thích, thấu hiểu, ông đã dịch ra để làm căn bản cho
sự hành thiền. Quá trình truyền thừa của nó đã kết hợp có chọn lọc
Dịch pháp với Phật pháp tạo nên sắc thái mới cho Thiền Tông Việt
Nam.
Nếu thiền phái Vinitaruci là thiền phái mang đậm màu sắc Phật
giáo Ấn Độ, thì thiền phái Vô Ngôn Thông là dòng thiền của Phật

8


giáo Trung Hoa mà nét đặc trưng của nó là sự kết hợp giữa Thiền với
Lão. Đặc trưng chủ yếu của thiền Vô Ngôn Thông là sự phát triển
khái niệm “tâm”, đặt cơ sở lí luận cho khuynh hướng triết lý hướng
nội và biện tâm sau này của Trần Thái Tông, mà đặc biệt là quan
niệm “Phật tại tâm” của Trần Nhân Tông sau này.
Thiền phái Thảo Đường do Lý Thánh Tông (1054- 1068) sáng
lập là sự kết hợp giữa thiền, tịnh và Nho. Thiền phái này mặc dù chỉ
tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng nó cũng có ảnh hưởng nhất

định đến tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông với khuynh hướng
“tam giáo đồng nguyên” và khuynh hướng trọng tri thức, triết lý thơ
ca.
Những giáo lý cơ bản của Thiền tông (tâm, Phật, đốn ngộ, sinh
tử,.. giữa chúng có ảnh hưởng đến nhau và đều mang tinh thần nhập
thế) đã hòa mình vào cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, càng về sau
cả 3 thiền phái này đều không đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển
lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
do Trần Nhân Tông đứng đầu đã thống nhất 3 phái thiền trên bằng
dung hợp nó trên nền tảng ý thức độc lập chủ quyền của dân tộc,
hạnh phúc của nhân dân. Sự dung hợp này đã được các thiền sư
Thường Chiếu (?- 1203), Huyền Quang (?- 1220), Trúc Lâm quốc sư
và một vài thiền sư khác ở Yên Tử thực hiện bước đầu. Họ như
những người thợ cần cù mải miết pha màu để tạo ra những màu sắc
mới, mang phong cách và tinh thần thiền học Việt Nam. Họ là chiếc
cầu nối giữa thiền học đời Lý và thiền Trúc Lâm và tạo tiền đề cho
Trần Thái Tông - “một ông vua”, “một Phật tử” đầy tài năng và tinh

9


thần sáng tạo, đặt những nét chấm phá mới cho bức tranh thiền học
Việt Nam - kết hợp được các luồng tư tưởng trước đó một cách có
chọn lựa và nhào nặn chúng thành một triết lý hoàn chỉnh, làm nền
tảng cho tư tưởng triết học của ông và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
sau này.
Khi đề cập đến tư tưởng triết học Trần Nhân Tông không thể
không nhắc đến triết học Trần Thái Tông (1218 - 1277) - “tập đại
thành đầu tiên của Phật giáo Việt Nam” và tư tưởng của Tuệ Trung
Thượng Sĩ - ngọn đèn tổ của Phật hoàng Trần Nhân Tông.

Toàn bộ tư tưởng của Trần Thái Tông được thể hiện trong 2 tác
phẩm Thiền tông chỉ nam và Khóa hư lục. Đó là những tác phẩm mà
hình như máu chảy ngọn bút, nước mắt thấm trên từng trang giấy.
Những tác phẩm này là sau bao khát khao tìm tòi chân lý với nổi đau
thái thế nhân tình, để rồi đạt đến sở đắc “chân tâm”. Ông đề cao tinh
thần “đốn ngộ” vừa coi trọng việc thực hiện tuần tự tam học, chủ
trương dung hợp cả “đốn ngộ” lẫn “tiệm ngộ”. Ông không đề cao
phép niệm Phật mà chỉ coi nó là một trong những bước đi thiền của
người trung trí và hạ trí. Tất cả các tư tưởng trên của Trần Thái Tông
về sau được cháu nội của mình là Trần Nhân Tông kế thừa và phát
triển.
Tuệ Trung (1230 - 1291) - ngọn đuốc sáng nhất của thiền học
đời Trần, là đỉnh cao của tư tưởng Việt Nam ở thế kỷ XIII được các
vị tổ Trúc Lâm coi đã “thấu suốt đến cội nguồn của tâm tính, tột cùng
của trí tuệ”. Thiền ở Tuệ Trung Thượng Sĩ là một thái độ, hành động
sống, đưa con người trở về với chính mình để khai mở con người

10


đích thực không vị trí. Ở ông thiền không chỉ là hành thiền mà còn là
“sống thiền” tức là đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, đánh giặc cứu
nước cũng là thiền, thậm chí chẳng thiền gì cả cũng là thiền.
Trong quan niệm nhân sinh quan của mình, ông đặt mục tiêu tự
do tuyệt đối lên hàng đầu, coi nó là chuẩn mực là thước đo của thiền.
Ông cho rằng, tự do tuyệt đối là sống ung dung tự tại, thuận với tự
nhiên, hòa đồng với tự nhiên “Phật là Phật, anh là anh, trong tâm có
Phật ăn gì chẳng được”.
Tất cả những tư tưởng đó đều ảnh hưởng rất lớn đến ngọn đèn
tổ Phật hoàng Trần Nhân Tông “là ngọn gió lành của nhà Phật, đề

xướng những châm ngôn để dẫn dắt lớp người hậu học đi tới vầng
sáng trác việt”.

1.3. Phẩm chất đặc biệt của Trần Nhân Tông
Không phải ngẫu nhiên lịch sử tôn vinh Trần Nhân Tông là vị
anh hùng, là nhà văn hoá của dân tộc.
Ông là vị vua có công lớn trong việc lãnh đạo nhân dân Đại
Việt hai lần đánh thắng quân Nguyên-Mông. Trần Nhân Tông là vị
vua anh minh, văn võ toàn tài, ông chịu ảnh hưởng bởi triết lý Phật
giáo - một triết lý sau hai thế kỷ chiếm địa vị quốc giáo dưới thời Lý.
Đến đầu nhà Trần, triết lý đó đã đủ thời gian và điều kiện hòa nhập
với truyền thống, bản sắc dân tộc Việt, vì vậy nó ăn sâu vào nếp sống,
suy nghĩ, hành động của ông.

11


Ngay từ nhỏ, Trần Nhân Tông đã tỏ ra là người xuất chúng.
Tam tổ thực lục còn ghi, Trần Nhân Tông “thánh tính thông minh, tài
giỏi hiếu học, đọc hết các sách vở, thông suốt nội điển (kinh Phật) và
ngoại điển (sách vở khác)”; “thông thảo cả các vấn đề thiên văn, lịch
số, binh pháp, y dược, âm luật”. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần
Nhân Tông là “tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như
vàng , thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng… Vua nhân từ hòa nhã
cấu kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thủa trước thực là
bậc vua hiền của nhà Trần”. Điều này sách Tam tổ thực lục nói “Điều
Ngự đi khắp mọi nẻo thôn quê, khuyên dân phá bỏ các dâm từ và
thực hành giáo lý Thập Thiện”.
Tất cả những tư tưởng của ông đều được lãnh hội trên tinh thần
dung hợp Nho, Phật và coi nó có tính chất chỉ đường cho cuộc đời

hoạt động của chính mình và thế hệ mai sau. Ông đã cố gắng thực
hiện nó trên cơ sở kết hợp giữa đời và đạo “Nhân Tông trên thờ Từ
Cung tỏ rõ đạo hiếu, dưới dùng người giỏi, lập nên võ công. Nếu
không có tư chất nhân, minh, anh, võ thì sao được như thế?”. Việc
Trần Nhân Tông xuất gia không chỉ mang mục đích thuần túy tôn
giáo mà còn bao hàm cả ý đồ chính trị, điều đó đã nâng cao hơn nữa
địa vị và thế lực tinh thần của mình, đã kết hợp trong đời mình một
anh hùng võ công hiển hách với một đức Phật từ bi, cốt cách thanh
tao. Vì thế, ông trở thành một ông vua triết gia, một Phật tử có nhãn
quan chính trị, ảnh hưởng lớn lao đến triều đình và toàn xã hội. Bằng
uy tín và đức độ của mình Trần Nhân Tông đã thúc đẩy nhanh chóng
thanh thế cho thiền phái Trúc Lâm nhằm biến nó thành thế lực tinh

12


thần có ảnh hưởng mạnh mẽ, không chỉ ở trong tầng lớp quan lại mà
với toàn thể dân chúng. Ông dù làm vua hay làm giáo chủ thì đều dốc
hết lòng, hết sức cho sự nghiệp đời và đạo.
Trần Nhân Tông được biết đến không chỉ với tư cách là một nhà
vua, nhà sư mà ông còn là một nhà thơ, nhà văn có những đóng góp
cho thơ văn thời Trần lúc bấy giờ. Những tác phẩm đó bao gồm:
Trần Nhân Tông thi tập, Tăng già toái sự, Đại Hương hải ấn thi tập,
Thạch thất mỵ ngữ…. Đáng chú ý nhất là hai tác phẩm chữ Nôm Cư
Trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca không chỉ có
giá trị về mặt nội dung tư tưởng Thiền học mà còn góp phần mở đầu
cho sự phát triển tiếng Việt trong lịch sử văn học dân tộc. Cư Trần
lạc đạo phú là bản tuyên ngôn của con đường sống đạo mà Phật giáo
Đại Việt đã đề ra và chi phối toàn bộ tư tưởng, cuộc sống người dân
lúc bấy giờ. Nó cũng là một trong những tác phẩm được giới nghiên

cứu Phật giáo và văn hoá dân tộc Việt Nam quan tâm khá đặc biệt,
được trích dẫn đích danh khi Thiền sư Chân Nguyên trình bày cho
vua Lê Chính Hoà vào khoảng những năm 1692 trong Kiến tính
thành Phật lục. Chính vì thế, nó góp phần tác động vào sự tồn tại và
ảnh hưởng của nó trong quá trình truyền đạt tư tưởng Thiền học Việt
Nam.
Xuất gia tu hạnh Đầu Đà nhưng vẫn không tách biệt với xã hội
đời thường, chú trọng đến hình tướng của sự vật, hành động nhiều
hơn. Khuynh hướng của ông là lấy đạo giúp đời và lấy đời giúp đạo.
Trần Nhân Tông đã có những đóng góp trong việc tập hợp, xây dựng
và củng cố một giáo hội Phật giáo thống nhất. Các nguyên lý đạo đức

13


của Phật được ông chú ý truyền dạy cho Phật tử và thần dân. Chỉ có
Trần Nhân Tông với cuộc đời hoạt động của ông, với tính cách của
ông, khiến ông tạo được sự sẵn sàng (cả về tiền đề khách quan và tiền
đề chủ quan) cho việc thực hiện bước nhảy từ xuất thế đến nhập thế.
Tóm lại, tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là sản phẩm tổng
hòa của những điều kiện khách quan và chủ quan, của truyền thống
văn hóa dân tộc cùng với phẩm chất của ông để xây dựng tư tưởng
triết học có ý nghĩa to lớn đối với tư tưởng triết học Việt Nam.

14


CHƯƠNG 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO CỦA TRẦN NHÂN TÔNG

2.1. Vấn đề thế giới quan trong tư tưởng triết học Phật giáo của
Trần Nhân Tông
Trước Trần Nhân Tông thì các nhà thiền học như Trần Thái
Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ đã đề cập đến vấn đề bản thể luận thông
qua một loạt các khái niệm như “Phật tâm”, “Phật tính”, “Pháp thân”.
Quan niệm về bản thể của Trần Thái Tông là quan điểm
“Không”. Khái niệm “không” được hiểu là thực tại tuyệt đối, là thực
thể của vũ trụ. “Không” là cội nguồn và là nguyên khởi của toàn bộ
thế giới sự vật hiện tượng. “Không” ở đây là cái tuyệt đối, là thái hư,
chân tễ, là không sinh không hóa, không có tướng cũng không có
hình, không có điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc. Nghĩa là
ở trạng thái không có đối lập, không có mâu thuẫn, siêu việt lên tất
cả, trạng thái “vô sở trụ”.
Trong triết học Trần Thái Tông, chúng ta còn thấy khái niệm
“bản lai diện mục”. “Bản lai diện mục” (khuôn mặt nguyên xưa)
cũng chính là bản tâm (cái tâm ban đầu). Cái tâm ban đầu này chính
là bản thể, là không hư. Trần Thái Tông gọi Phật tính là bồ đề giác
tính hay bát nhã thiện căn. Khi diệt được tham, sân, si thì bồ đề giác
tính hay bát nhã thiện căn ở mỗi con người lại trong trẻo tràn đầy.
Trần Thái Tông cũng đề cập đến khái niệm “Pháp thân”. Pháp
thân là “cái nhơn thân, cái đạo thể, cái thể của pháp tánh..., nó tự

15


nhiên trường tồn không thay đổi”. Theo Trần Thái Tông, người đời
thường “nhận mình là thực, quên mất pháp thân”.
Cũng như Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng coi cái
bản thể là “không”. “Không” đó vừa có vừa không, rất biện chứng
“có mà không, không mà có”. Ông cũng dùng “tâm thể”, “Phật tính”

để chỉ bản thể: “Tâm thể không phải cũng không trái, Phật tính không
hư cũng không thực”. Như vậy, tâm thể là cái tâm siêu việt, thường
tịch vắng lặng, không hình không tướng, không trái không phải,
không sinh không diệt. Cũng như quan điểm của Thiền Tông, Tuệ
Trung Thượng Sĩ coi tâm là cái vô hình, vô sắc, vô thanh, tức là
không có hình tướng, nếu xem là lớn thì nó vô cùng lớn, nếu nhỏ thì
vô cùng nhỏ.
Nối tiếp Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ, từ góc độ
Thiền học Trần Nhân Tông đã làm sáng tỏ hơn nữa vấn đề bản thể
của vũ trụ và vạn vật. Ông dùng khái niệm bản và gốc để chỉ cái bản
thể đó.
Để chỉ bản thể, Trần Nhân Tông dùng khái niệm “bản”. Ông
dùng chữ bản là muốn nói tới cái gốc, cái ngọn nguồn, cái bản
nguyên, cái đầu tiên trong vũ trụ. Điều này được ông nói trong bài
Cư trần lạc đạo phú:
“Bụt ở trong nhà;
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy bản nên ta tìm bụt
Đến cốc hay chỉn bụt là ta”.

16


Ở đây Trần Nhân Tông cho rằng Bụt ở trong bản thân mình,
không phải tìm ở đâu khác bên ngoài. Tục ngữ ta cũng có câu “Bụt ở
trong nhà mà lại đi cầu Thích Ca ngoài đường”. Cầu như vậy thì thấy
Phật thế nào được. Sở dĩ có hiện tượng đi cầu như vậy, là do ta quên
gốc, “khuấy bản”. Đến khi hiểu ra thì chính bụt là ta. Tất nhiên, ta ở
đây là cái ta đã giác ngộ, chứ không phải cái ta ở mọi người.
Nếu ở Trần Thái Tông bản thể sâu trầm, trong lặng như như,

không vương chút niệm lự, trong suốt, xưa nay không gợn một bụi
nhơ; còn Tuệ Trung Thượng Sĩ bản thể như nhiên tự không tịnh, vằng
vặc chưa hề có mê lầm; thì ở Nhân Tông bản thể lặng yên trong trẻo.
Thực ra, tuy diễn đạt có khác nhau, nhưng tư tưởng của ba ông là
một. Tư tưởng là một, nhưng những thiền ngữ của Trần Thái Tông thì
bóng bẩy, của Tuệ Trung Thượng Sĩ thì mạnh mẽ, mãnh liệt, còn của
Trần Nhân Tông thì thực tế, chững chạc.
Bản thể, Phật tính, theo Trần Nhân Tông về thực chất thì ai
cũng có đầy đủ, viên thành. Ông viết: “Ai ai cũng đủ bản tính, người
người đều được viên thành”. Cũng như Trần Thái Tông và Tuệ Trung
Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông cho rằng tâm (hay lòng) là Phật, Phật là
tâm (hay lòng), Phật ở trong tâm (hay lòng), ngoài tâm (hay lòng)
không có Phật. Ông viết: “Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã
tổ”. Theo Nhân Tông, Di Đà là tính sáng soi chẳng phải nhọc tìm về
cực lạc, còn tịnh độ không phải là phương trời trừu tượng mà chính là
lòng trong sạch.
Khi đã làm cho Phật tính trong trẻo tròn đầy lại như xưa, tức là
khi đã giác ngộ, thì làm gì còn tội phúc, nhân quả. Với ý nghĩa đó,

17


theo Trần Nhân Tông tội phúc vốn là không, nhân quả cũng không
thực.
Trần Nhân Tông kế thừa trực tiếp được ở người ông – Trần Thái
Tông, và ở người thầy – Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng điểm khác
giữa ông với hai người đi trước có lẽ ở quan niệm về nguồn gốc xuất
hiện thế giới cảm tính, xuất hiện dường mối, xuất hiện hiện hữu. Ở
Trần Thái Tông, từ không khởi vọng (tức vô minh). Vọng xét trên
bình diện nhân sinh cũng chính là niệm. Bởi vậy, vấn đề là thủ tiêu

vọng niệm đã đạt đến vô niệm, tức đạt đến giải thoát. Ở Thượng Sĩ,
từ không (hay vô) xuất hiện huyền hóa (ảo hóa hay vô minh) phân
thành nhị kiến. Như vậy, xuất hiện vô minh cũng tức là xuất hiện nhị
kiến, có nhị kiến là do vô minh, thủ tiêu nhị kiến thì vô minh tự diệt.
Trần Nhân Tông dường như ít đề cập đến nguồn gốc xuất hiện thế
giới hiện tượng. Ông nói: “Chỉ vì phân biệt kén chọn, nên sinh ra lắm
mối nhiều đường”. Như vậy, nguồn gốc những dường mối, mọi cái
trong thế giới hiện tượng này là do phân biệt kén chọn.
Có lẽ điểm vượt xa hơn Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng
Sĩ là ở chỗ Trần Nhân Tông đề cập đến mối quan hệ giữa Phật tính và
Pháp thân, giữa tâm, tính, pháp và Phật. Theo ông, Phật tính và Pháp
thân như hình với bóng, không lìa nhau, ở ngay trước mắt nhưng
không thấy, đặc biệt có ý truy tầm lại càng không được, càng tìm
càng mất, càng diễn đạt càng lệch. Như vậy, bản thể ở khắp mọi nơi,
ở trong mỗi người, nhưng đã mấy ai nhận thấy. Bản thể này không
thể suy, bàn định được, không thể dùng sắc, âm thanh diễn đạt được,
vừa động niệm suy nghĩ là sai, vừa mở miệng nói ra là đã lầm, có ý

18


truy tầm lại không thấy. Phật tính hay tính giác ngộ có ở trong mỗi
chúng sinh. Còn Pháp thân là cái thân bất sinh bất diệt mà tất cả các
đức Phật đều báo ứng từ đó mà ra. Phật tại tâm. Bởi vậy, chớ có chạy
hỏi Đông, Tây, Nam, Bắc mà hãy nhìn lại tự tâm.
Về quan hệ giữa tâm, tính, pháp, Phật, Trần Nhân Tông cho
rằng: “Pháp tức là tính, Phật tức là tâm, vậy thì tính nào không phải
pháp, tâm nào không phải là Phật? Tâm là Phật mà tâm cũng là pháp.
Nhưng vì pháp vốn là không pháp, nên nói pháp là tâm, cũng như nói
tâm là không tâm, mà tâm là Phật”. Mỗi chúng ta chỉ có tính Phật, sẽ

thành Phật, còn những có cái tâm giác ngộ là đã thành Phật. Khi đã
giác ngộ thì chẳng còn tính với pháp, Phật với tâm. Đạt đến quả vị
Phật, sẽ không biết vị Phật nào cả, bởi vì Phật cũng chỉ là danh hiệu.
Đạt đến cái tâm không tâm tức vô tâm. Với Trần Nhân Tông, Phật,
tâm, pháp, tính, pháp tính, tính Phật… cũng chỉ là phương tiện, vấn
đề là chứng ngộ.
Ngoài những quan điểm trên, khi bàn về mối quan hệ giữa thế
giới bản chất và thế giới hiện tượng, ông đã trình bày tư tưởng của
mình trong các bài thơ, kệ, nhất là bài kệ về vấn đề hữu, vô. Thế giới
hiện tượng chỉ là giả tướng, nó có đấy, nhưng không thật, giống như
giấc chiêm bao vừa hư vừa thực, hư ở chỗ nó không thật, không thể
xác định tính hiện thực của nó, thực ở chỗ nó đã tồn tại dù chỉ như
một giấc mơ với tất cả hình danh, sắc tướng của nó. Thế giới hiện
tượng trói buộc con người trong vòng luẩn quẩn của nhận thức,
chồng chất thêm những mê lầm, buộc con người phải lao đao, điên
đảo chạy tìm Phật tổ ở Tây, Đông cầu thiền ở Nam, Bắc”. Xét về mặt

19


bản thể luận, Trần Nhân Tông không bác bỏ tính hiện thực của thế
giới hiện tượng, song ông cũng không thừa nhận tính chân thật, bền
vững, bất biến của nó. Thế giới là tự nhiên như thế trong mối tương
quan với cái tâm tĩnh lặng, nó viên đồng hết thảy, chẳng phân biệt
“có - không”, “thị - phi”, “phàm - thánh”, nhưng khi nó bị ý thức đối
tượng hóa, phân biệt và chia cắt thì nó trở thành thế giới sai biệt. Lúc
đó, dù có “lập tông lập chỉ, đập ngói dùi rùa, trèo non, lội nước” thì
cũng chẳng ích gì.
Như vậy, theo Trần Nhân Tông, tự tính, bản thể tối cao của vạn
pháp là thế giới tự nhiên thô sơ nguyên thủy chưa bị dòng ý thức đối

tượng hóa, phân biệt và chia cắt. Tự tính hay pháp, tâm, Phật, phàm
hay thánh, đồng nhất hay khác biệt là do chính cái tâm của con người
quyết định. Tâm tĩnh lặng thì tất cả là một, tự nhiên như nhiên, còn
tâm sai biệt thì ngay lập tức xuất hiện thế giới hiện tượng sai biệt, đối
đãi. Chính tư tưởng này chi phối và xuyên suốt những vấn đề nhân
sinh của Trần Nhân Tông.
Như vậy, quan niệm của Trần Nhân Tông về thế giới hiện tượng
là quan niệm hoàn toàn có tính chất Phật giáo, bởi lẽ ông cho rằng thế
giới này là vô thường, là hư hư thực thực, như mộng ảo hư huyễn. Sự
xuất hiện nó là do sự phân biệt kén chọn và suy cho cùng là do vô
minh. Diệt được vô minh thì những thiên sai vật biệt, những dường
mối cũng biến mất.
2.2 Vấn đề nhân sinh quan trong tư tưởng của Trần Nhân Tông
Cốt lõi nhân sinh quan của Trần Nhân Tông là quan niệm về
nhân quả. Theo Phật giáo, “nhân” (Nidana) là cái nguyên do, căn cứ

20


của sự vật. Quả là sự xuất hiện do nhân sinh ra, nhân quả có mối liên
hệ mật thiết với nhau, có nhân ắt có quả, có quả tất phải có nhân,
song sự tác động nhân quả cần có duyên trợ giúp. Nhân quả tồn tại
trong thế giới hiện tượng vì chúng do mê kiến, vọng tưởng tạo tác mà
ra. Tâm đã tĩnh lặng thì chúng tự diệt.
Đối với các thiền sư, vấn đề nhân, quả, không thể chỉ hiểu một
cách đơn giản bằng ngôn từ, cũng không thể tiêu diệt chúng trong ý
thức. Trong lịch sử thiền tông, Bách Trượng thiền sư (?- 814) - vị
thiền sư Trung Quốc, thầy của Vô Ngôn Thông - được coi là người
giải quyết triệt để vấn đề này. Theo Bách Trượng, nhân quả là lẽ tự
nhiên, thường biến và tác động hằng ngày vào tâm thức con người,

vấn đề là ở chỗ, hiểu được bản chất vô thường và hư huyễn của
chúng, để cho cái tâm không chạy theo dính mắc vào đó.
Trần Nhân Tông đã thấu hiểu vấn đề này song ông lại giải quyết
theo phương pháp “đối cảnh vô tâm”. Ở trình độ này, chẳng có gì có
thể xen vào, gặp cảnh thì hành xử tự tại, không so sánh phân chia, áp
đặt bất cứ một khái niệm, ngôn từ nào. Những người đạt được trạng
thái đó đã vượt ra khỏi lời sinh lời câu sinh câu, ý sinh ý và nắm
được ý chỉ của thiền.
Theo ý chỉ của thiền, câu trả lời của Trần Nhân Tông đã đạt đến
trình độ siêu thanh, vượt sắc, nắm buông tự tại, mỗi câu đều như chọi
đá nhóm lửa, điện xẹt, nhằm ngoài lời nói mà biết chỗ trở về.
Xuất phát từ quan niệm tâm chính là Phật (tức tâm tức Phật),
Phật ở trong tâm (Phật tại tâm trung), Trần Nhân Tông cho rằng, chỉ
cần loại bỏ được vọng niệm, ngay lập tức quay về tâm thanh tịnh là

21


đạt đến giải thoát: “Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; Nửa ngày rồi
tự tại thân tâm. Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc
quý; Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm” (Cư trần
lạc đạo, đệ nhất hội).
Quan niệm tâm chính là Phật của Trần Nhân Tông đóng vai trò
làm nền tảng lý luận cho giáo nghĩa của ông. Theo ông, “Bản tính
lặng yên trong trẻo, không thiện không ác”; “Nên biết rằng tội và
phúc vốn là không, nhân quả thực ra chẳng thật. Người người vốn đủ,
ai nấy tròn đầy. Phật tính pháp thân như hình với bóng, lúc ẩn lúc
hiện, chẳng dính chẳng rời”. Như vậy có nghĩa là, con người, nhân
sinh vốn không có thiện, không có ác, không tồn tại ranh giới giữa
phúc và tội, trong mỗi một con người, ai ai cũng có Phật tính. Lý luận

này cho rằng, người ta ai cũng có thể thành Phật.
Sự phân biệt giữa Phật và chúng sinh chỉ ở chỗ giác ngộ hay
không giác ngộ. “Pháp tức là tính, Phật tức là tâm. Tính nào chẳng
phải là pháp. Tính nào chẳng phải là Phật. Tức tâm tức Phật, tức tâm
tức pháp, pháp vốn chẳng pháp. Tức pháp tức tâm, tâm vốn chẳng
tâm, tức tâm tức Phật”. Đối với Trần Nhân Tông, con đường hiện
thực để thành Phật chính là sự giác ngộ của “bản tính” trong mỗi một
con người, nhấn mạnh đến truy cầu nội tại từ trong tâm. Ông khẳng
định: “Bụt ở trong nhà; Chẳng phải tìm xa”; “Tịnh độ là lòng trong
sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di Đà là tính sáng soi, mựa
phải nhọc tìm về Cực lạc”; “Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm
Phật tổ Tây Đông; Chứng thực tướng, nên vô vi, nào nhọc hỏi kinh
Thiền Nam Bắc”.

22


Trần Nhân Tông khẳng định rằng, Phật tính nằm ngay trong tâm
mình, không cần phải hướng ngoại, truy cầu ở sự vật. Chúng sinh
hoặc Phật chỉ là các cảnh giới khác nhau của chủ thể, chứ không phải
là có một chủ thể khác được mang tên “Phật”. Đồng thời, mê vọng
phiền não và giải thoát chỉ là các hoạt động khác nhau của cùng một
chủ thể, chứ không phải thoát khỏi chủ thể “phiền não” này để sang
một “Bồ Đề” khác.
“Tính” mà Pháp bảo đàn kinh nói đến chính là “tính” mà tất cả
các pháp hiện ra (biến hóa); “Tính bao chứa tất cả các pháp” (tính
hàm vạn pháp) và “tất cả mọi pháp đều nằm ở tính” đều không xa rời
tính, đồng thời cũng không chỉ là tính. Chính vì vậy, tính vừa siêu
việt (xa rời mọi tướng, thể tính thanh tĩnh), vừa là nội tại (tất cả các
pháp đều không khác với điều này). Trong thế giới hiện thực, tính là

chủ thể của sinh mệnh, là bản nguyên của vũ trụ. Tính hiển hiện ra
thành tất cả, nhưng lấy tâm làm chủ. Tâm không chỉ là nhận thức, mà
còn là hành vi, là sự vận động. Tri giác và vận động trực tiếp thể hiện
lên tính – tác dụng của tự tính, chân tính và Phật tính. “Kiến tính
thành Phật”, cần phải tự chứng nghiệm trong tâm thân của mình, chứ
không phải là đi lĩnh hội từ sắc thân.
Trên phương diện này, Trần Nhân Tông không hoàn toàn đi
theo truyền thống Thiền tông Nam phái mà ngược lại, ông cương
quyết xác lập quy tắc cho Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Ông rất
chú ý đến các quy phạm đạo đức, không coi nhẹ tu dưỡng ngôn hành, chú trọng mối quan hệ giữa “đốn” và “tiệm”. Ngoài ra, ông có
những kiến giải mới về sự kết hợp giữa Nho giáo với Phật giáo và

23


những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc để rèn đúc nên một
mẫu người lý tưởng của một thời đại anh hùng, một thời đại mà dân
tộc Việt Nam đã ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên - Mông.
Mẫu người Việt Nam lý tưởng đó, theo Trần Nhân Tông không
những được rèn luyện theo tiêu chí của đạo Phật là “sạch giới lòng,
chùi giới tướng”, mà còn theo tiêu chí của đạo Nho là “Ngay thờ
chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu”. Hơn nữa những
quy phạm đạo đức của đời thường mang nặng truyền thống tốt đẹp
của dân tộc cũng là những chất liệu góp phần rèn luyện con người lý
tưởng đó. Như vậy là việc thực hiện giới luật của đạo Phật cần kết
hợp với việc thực hiện những quy phạm đạo đức của đạo Nho và
những quy phạm đạo đức truyền thống của dân tộc đều tạo nên con
người Phật giáo của Thiền Trúc Lâm.
Điều mà Trần Nhân Tông liên tục nhấn mạnh đến chính là “bản
tính thanh tịnh” và phương pháp để đem lại sự thanh tịnh cho bản

tính vừa là “đốn ngộ”, vừa là “tiệm tu”. Trần Nhân Tông có sự kết
hợp cả tu thiền và tu tịnh độ. Việc làm rõ bản chất của lối tu thiền và
mối quan hệ giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông của Trần Nhân Tông là
một đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Thiền học Việt Nam thời
Trần.
Bên cạnh việc coi trọng kiến tính, giác ngộ trong từng khoảnh
khắc, từng sát-na, ông cũng chú trọng đến việc mỗi người phải không
ngừng tu dưỡng lời nói và hành vi của mình.
Một trong những tư tưởng không thể không nói đến khi đề cập
đến tư tưởng thiền chính là học thuyết vô niệm của Trần Nhân Tông.

24


Đối với Trần Nhân Tông, cần phải xuất phát từ nội tâm để chứng
Phật tính, trên phương diện tu dưỡng, tâm không chịu ảnh hưởng của
ngoại vật, điều này chính là “vô niệm”: “Gìn tính sáng tính mới hầu
an; Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác”. Phương pháp “nén niềm
vọng” này vừa phải dựa vào phương pháp “vô trụ” (không chấp
trước), vừa phải dựa vào phương pháp “vô tướng”. Thiền không phải
là kinh viện, mà là cuộc sống, do đó cần phải “bất lập văn tự”. “trực
chỉ nhân tâm”. Nếu như chấp trước vào “hữu cú vô cú” thì sẽ “dập
đầu trán vỡ”, sẽ chỉ vô ích mà thôi.
Xu hướng nhập thế là một vấn đề nổi bật trong quan niệm nhân
sinh quan của Trần Nhân Tông. Nó thể hiện tư tưởng “gắn đời với
đạo” của ông góp phần đưa Phật giáo tham gia vào đời sống xã hội,
vào sự nghiệp của dân tộc. “Nhập thế” là thuật ngữ được hình thành
từ Nho giáo - một hệ thống triết học mang tính thực tiễn chính trị và
luân lý đạo đức rất cao. Trong Phật giáo chính truyền không có khái
niệm “nhập thế”. Ở đó chỉ có khái niệm “xuất thế”, tức là thoát ra

khỏi “thế gian” (loka), hoặc ra khỏi “thế tục” (samvrti) để được giải
thoát, để có thể tiến tới cõi “niết bàn” hoặc đến chốn “viên tịch”, nơi
không còn biến hóa, không còn sự khổ đau cũng như sự sung sướng.
Tuy vậy, Phật giáo vẫn đề cập đến các vấn đề của trần thế. Vì
sinh, lão, bệnh, tử là hiện tượng của chúng sinh nơi trần thế, vì “dục
vọng” là hiện tượng tinh thần của con người nơi trần thế. Thái độ
xem sinh, lão, bệnh, tử, xem sướng khổ là hiện tượng tự nhiên và chủ
trương sống thuận theo tự nhiên đó của các nhà sư trên có thể xem
như là một biểu hiện của nhập thế. Là người am hiểu Phật giáo dân

25


×