Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

KL triết lý dân chủ của hồ chí minh với đời sống dân chủ hiện nay ở huyện vĩnh linh, tỉnh quảng trị”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.49 KB, 82 trang )

MỤC LỤC
d) Thực hành dân chủ..........................................................................................38

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam là một
con người tài năng, đức độ vẹn toàn. Toàn bộ sự nghiệp vì dân, vì nước của
Người là tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời để lớp lớp con cháu noi
theo. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần và trí tuệ quý báu của cách
mạng nước ta, của dân tộc và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng đó là
một động lực lớn của nhân dân ta trong cuộc hành trình mới xây dựng nước
ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh.
Trong tư tưởng của Người có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề quan trọng,
trở thành tài sản vô cùng quý giá của dân tộc Việt Nam. Một trong những tư
tưởng quan trọng mà ngày nay chúng ta vẫn đang hướng đến đó là dân chủ.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin xem dân chủ là động
lực, là con đường dẫn tới CNXH. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
dân chủ được kiến giải một cách giản dị, dễ hiểu. Người không định nghĩa
dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị
lý luận của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa khái
niệm dân chủ: “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”. Đây được xem là
một định nghĩa kinh điển về dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một định
nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của
dân chủ. Định nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là
nhân dân. Họ trở thành người chủ của đất nước.

1


Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân…”[17; 548]., Người cũng khẳng định “nước ta là nước dân chủ, địa


vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [16; 286].. Dân chủ là một vấn đề có tính thời
đại và thời sự sâu sắc, nhất là trong sự phát triển của xã hội hiện đại ngày
nay. Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến bộ của mọi thời đại.
Chính vì nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò của dân chủ trong đời
sống xã hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống các luận điểm về dân chủ,
được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội...
Người viết: “Ở nước ta chính quyền là của của nhân dân do nhân dân làm
chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay
mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”[17; 218-219]. Chế độ dân
chủ là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân” [15;698], “Quyền hành và lực lượng là ở
nơi dân”[15; 698], hệ thống chính trị do dân cử ra và do dân tổ chức nên. Dân
chủ không chỉ là một thiết chế xã hội của một quốc gia mà còn thể hiện trong
quan hệ quốc tế: hòa bình giữa các dân tộc, dân chủ bình đẳng trong các tổ
chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử quốc tế…
Trong xã hội ngày nay, với những chuyển biến sâu sắc của thế giới và
của đất nước, chúng ta đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và thử
thách. Vậy nên nước ta đang xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN và hình thái nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân. Đó là nội dung cốt lõi của triết lý dân chủ Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam
nói chung và ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị nói riêng, đã ngày càng bộc
lộ rõ tình trạng vi phạm dân chủ. Điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào và có
nguy cơ làm chệch huớng XHCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù
địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm làm thay đổi chế độ chính trị của
đất nước ta.
2


Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc học tập và vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là việc làm rất cần thiết, cấp bách cả về lý
luận và thực tiễn. Với ý nghĩa đó tôi chọn đề tài “Triết lý dân chủ của Hồ
Chí Minh với đời sống dân chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng
Trị” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài của khóa luận
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu tưởng Hồ Chí Minh nói chung và
triết lý Hồ Chí Minh nói riêng đã trở thành một việc làm thiết thực, chủ yếu
của nghiên cứu lý luận và khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam. Đóng góp
thành công vào cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” hiện nay.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo cáo, nhiều bộ phim
tư liệu và các tài liệu liên quan đã tiếp cận tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh ở nhiều góc độ khác nhau.
- Dân chủ di sản văn hóa Hồ Chí Minh – do Nguyễn Khắc Mai chủ
biên (Nxb Lao Động, Hà Nội, 1997) – đã xác định rõ những nội dung cơ bản
trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh, những đóng góp của Người trong
một số lĩnh vực của thực tiễn và xác định đó là một di sản văn hóa lớn, có
giá trị lớn đối với dân tộc Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ - TS. Phạm Hồng Chương (Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004) - đã chỉ rõ nguồn gốc, quá trình hình thành
những quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ, và việc vận dụng lý luận đó
vào thực tiễn của đất nước.
- Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh – do TS. Phạm Văn Bính chủ
biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008) - đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản
trong triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất áp dụng triết lý dân
chủ vào việc lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
3


Tiếp nối và kế thừa những giá trị, những lý luận mà các nhà khoa học,

các nhà nghiên cứu đã đưa ra, đề tài “Triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh với
đời sống dân chủ ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị”, nhằm làm sáng tỏ
hơn nội dung triết lý dân chủ của Người và vận dụng vào thực hiện đời sống
dân chủ ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Mặc dù ở những góc độ nghiên cứu, tìm hiểu khác nhau, nhưng tất cả
đều nhằm mục địch hiểu rõ và sâu sắc triết lý dân chủ và vận dụng nó vào
thực tiễn nhằm xây dựng một chế độ xã hội, một đất nước dân giàu – nước
mạnh – xã hội dân chủ – công bằng – văn minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
+ Mục đích: góp phần làm sáng tỏ triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh và
sự vận dụng triết lý đó của Người vào xây dựng đời sống dân chủ ở huyện
Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở, quá trình hình thành và phát triển của triết lý dân chủ
Hồ Chí Minh.
- Chỉ rõ những nội dung cơ bản trong triết lý dân chủ của Hồ Chí
Minh.
- Đưa ra những nội dung và những kết quả đạt được, tìm ra những giải
pháp, bài học kinh nghiệm và đề ra những đề xuất trong vấn đề thực hiện dân
chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của khóa luận
+ Cơ sở lý luận:
Phép biện chứng duy vật về lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường
lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ.
+ Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp lôgic – lịch sử,
phương pháp so sánh – đối chiếu, …
4



5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận nhằm nâng cao nhận thức triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh
cả về lý luận và hoạt động thực tiễn, nhằm khắc phục những cách nhìn phiến
diện và tình trạng vi phạm dân chủ trong đời sống hiện nay ở Việt Nam.
Đồng thời có thể là một tài liệu sinh hoạt hết sức bổ ích trong hoạt động lý
luận và thực tiễn, đặc biệt trong giai đoạn đất nước đang tiến hành đẩy mạnh
cuộc vận động “Học tập và lam theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” hiện
nay.

6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm hai chương, bốn tiết:
Chương 1 : Triết lý dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.

Cơ sở hình thành và phát triển

1.2

Những nội dung cơ bản trong triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh

Chương 2: Vận dụng triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh vào xây dựng
đời sống dân chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
2.1 Thực trạng dân chủ hiện nay ở Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị
2.2 Nội dung cơ bản của sự vận dụng triết lý dân chủ của Hồ Chí
Minh vào xây dựng đời sống dân chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh
Quảng Trị

5



6


NỘI DUNG KHÓA LUẬN
Chương 1:
TRIẾT LÝ DÂN CHỦ TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1 Cơ sở hình thành và phát triển
1.1.1 Cơ sở hình thành
a) Cơ sở khách quan
- Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là một sản phẩm lịch sử cụ thể,
là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử
được hình thành dưới tác động và ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử
xã hội của dân tộc và của thời đại vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
+ Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
Vào cuối thế kỷ XIX, Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập đã
bị chủ nghĩa tư bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam
không có tự do, đã không ngừng nổi lên chống lại chúng. Trong khi đó,
triều đình nhà Nguyễn bạc nhược đã từng bước khuất phục, lần lượt kí
kết các hiệp ước đầu hàng, thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo
thủ, phản động,… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc
và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới. Các cuộc khởi nghĩa vũ trang
dưới khẩu hiệu “Cần vương” do các văn thân, sỹ phu lãnh đạo cuối cùng
cũng thất bại. Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt
Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa giai cấp - xã hội sâu sắc. Tạo
tiền đề bên trong cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX.

7



Đầu thế kỷ XX, các phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp
rầm rộ, lan rộng ra cả nước (Chủ trương cầu viện, dùng vũ trang khôi
phục độc lập của Phan Bội Châu; Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” khai
thông dân trí, nâng cao dân trí,…trên cơ sở đó mà dần dần tính chuyện
giải phóng của Phân Chu Trinh; Khởi nghĩa nặng cốt cách phong kiến
của Hoàng Hoa Thám; Khởi nghĩa theo khuynh hướng tư sản của
Nguyễn Thái Học) nhưng đều thất bại. Phong trào cứu nước của nhân
dân ta muốn đi đến thắng lợi, phải đi theo con đường mới.
Sứ mệnh lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, cho mỗi người yêu nước
Việt Nam lúc bấy giờ là phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân thoát
khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Trong điều kiện lịch sử
ấy, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, đáp ứng đòi hỏi bức thiết
của dân tộc và thời đại.
+ Bối cảnh thời đại
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát
triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, xác
lập sự thống trị trên phạm vi thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ
thù chung của tất cả các dân tộc thuộc địa.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi và sự ra đời của
Liên bang Xô viết đã tạo ra những tiền đề, điều kiện cơ bản thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên Thế giới, trong đó có Việt
Nam phát triển nhanh chóng, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại.
Ngay sau đó, Quốc tế III được thành lập năm 1919, đã làm phong trào
công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa và phong trào giải phóng của
các nước thuộc địa càng có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
- Những tiền đề tư tưởng, lý luận


8


Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kết hợp giữa
tư tưởng thân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng,
là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác-Lênin. Kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nâng
tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa
mang tính nhân văn sâu sắc.
+ Giá trị truyền thống của dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết bắt nguồn từ các giá trị truyền
thống của dân tộc, là sự kế thừa và phát triển các giá trị văn hoá truyền
thống dân tộc. Trong đó chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã trở thành
động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là
nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của người Việt Nam.
Trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, dân chủ được
hiểu là dân chủ trong nông dân, trong chính cuộc sống của người nông
dân đấu tranh cho chủ nghĩa bình quân về quyền lợi, đấu tranh để đòi
quyền được sống, được hạnh phúc.
Không chỉ dừng ở đây, trong tư tưởng dân chủ của truyền thống
dân tộc Việt Nam thì dân chủ còn tồn tại ở một số biện pháp thân dân của
các vương triều tiến bộ.
Chẳng hạn, trong điều kiện khó khăn của đất nước, sự phân hóa
của các giai cấp và những yêu cầu của việc giữ nước thì nhà Lý, nhà Trần
đã xây dựng nên một thiết chế tập quyền thân dân, nhằm giữ được lòng
dân bằng nhiều hình thức dân chủ: Nhà Lý đã cho đặt chuông kêu oan;
nhà Trần mở Hội nghị Diên Hồng (1284)…
+ Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đông (Nho
giáo, Lão giáo, Phật giáo,..). Người đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc tư


9


tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, của thế kỷ Ánh sáng,
của cách mạng tư sản phương Tây, cách mạng tư sản Trung Quốc.
Nho giáo là học thuyết về đạo đức và phép ứng xử, triết lý hành
động, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đặc biệt Nho giáo đề cao văn hoá,
lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân. Người đã cãi biến tư
tưởng của Mạnh Tử về “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vị khinh” theo
nghĩa dân là quý nhất, nhà nước là thứ yếu, người lãnh đạo phải ở sau
hết. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại. Theo
cách diễn giải của Người chúng ta thấy một thiết chế dân chủ mới theo
thứ tự: dân, xã tắc và quân. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho
giáo có những tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia
đẳng cấp (quân tử và tiểu nhân), trọng nam khinh nữ.
Phật giáo có hạn chế về thế giới quan duy tâm chủ quan, hướng
con người tới xuất gia tu hành làm hạn chế tính tích cực xã hội của con
người. Tuy nhiên đã được Việt Nam hóa theo hướng tích cực, trở nên gắn
bó, gần gủi với quần chúng nhân dân. Đó là quan điểm của Phật giáo về
tư tưởng vị tha, bình đẳng, từ bi, bác ái. Phật giáo cũng đề cao nếp sống
đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động. Phật giáo
vào Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa yêu nước sống gắn bó với dân, hoà
vào cộng đồng chống kẻ thù chung của dân tộc là chủ nghĩa thực dân. Sự
hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm vào thế kỷ XIII với tính
chất “tùy duyên nhi bất biến” của đạo Phật, sống gắn bó với dân, với
nước là một ví dụ điển hình.
Nói như Phật giáo Ấn Độ thì Hồ Chí Minh là hiện thân của vị “Phật sống”.
Người cũng đã tìm thấy ở “chủ nghĩa tam dân” của Tôn Trung Sơn
những điều phù hợp với điều kiện của cách mạng nước ta là tư tưởng dân

chủ tiến bộ với chủ trương dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh
hạnh phúc. Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung
10


Sơn có những chính sách “thích hợp với điều kiện nước ta”[1;15], mà tự
nhận mình là một học trò nhỏ của Tôn Dật Tiên.
Hồ Chí Minh là nhà Mácxít tỉnh táo và sáng suốt, biết khai thác
những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hoá phương Đông, vận dụng và
phát triển các học thuyết ấy lên một trình độ mới để phục vụ cho sự
nghiệp của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân
chủ và cách mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong
“Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Đại cách mạng Pháp 1791;
tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh
phúc trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ 1776. Trước khi ra nước ngoài,
Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Sau này Người
nhớ lại vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người được nghe những từ Tự do,
Bình đẳng, Bác ái. Đó là khẩu hiệu nổi tiếng của Đại cách mạng Pháp năm
1789.Vì vậy, Người đã nảy ra ý muốn tìm hiểu những gì ẩn giấu đằng sau những
từ ấy.
Lần đầu sang Pháp, Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách,
phẩm chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt
trái của “lý tưởng” tự do, bình đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng
tiến bộ của những nhà Khai sáng Pháp như Voltaire, Rousso,
Montesquieu.
Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hoá Đông - Tây để
phục vụ cho cách mạng Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “ Chỉ có
những người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết
quý báu của các đời trước để lại”[16; 46]

+ Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, là cơ sở lý
luận cốt lõi tạo nên sự hoàn thiện triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh.
11


Người khẳng định: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với chúng ta… là mặt trời
soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa
xã hội…”[19; 128]. Với chủ nghĩa yêu nước cao cả, Người ra đi tìm
đường cứu nước với những giá trị truyền thống tốt đẹp của người Việt
Nam. Người đã tiếp thu những giá trị tốt đẹp của tư tưởng dân chủ nhân
loại, thông qua những trải nghiệm, những gì mà Người đã tận mắt nhìn
thấy qua các hình thức dân chủ tư sản điển hình ở các nước phương Tây.
Để rồi từ đó Người đã nhận ra cho mình một con đường đúng đắn khi
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là đến với mục tiêu giải phóng con
người khỏi ách áp bức, bóc lột. Người đã vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin theo phương pháp Mácxít và theo tinh thần phương Đông, không
sách vở, không kinh viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự tìm ra giải
pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Thế giới quan và phương
pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá, phân
tích, tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối cách mạng và kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn để đề ra con đường cách mạng giải phóng
dân tộc đúng đắn.
b) Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc hình thành
tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí
tuệ của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát
triển tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán
tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách

mạng trong nước và trên thế giới.
Hồ Chí Minh có sự khổ công học tập, rèn luyện chiếm lĩnh vốn tri
thức phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào
12


giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác Lênin với tư cách là học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại, một chiến
sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thương nhân dân,
thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ
quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Bác Hồ từ một người tìm đường cứu
nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo.
Chính vì vậy, cùng với sự tiếp nhận những giá trị dân chủ của nhân
loại, Người cũng đã nhìn thấy tư tưởng dân chủ tư sản và các mô hình xã
hội của nó là những cái đã trở nên không còn phù hợp, không còn mới
mẽ đối với sự phát triển của nhân loại nữa. Những năm bôn ba trong các
phong trào công nhân ở “chính quốc” và các nước thuộc địa, Người đã
nhận thấy rõ điều đó. Thực tế ở nước Nga, nơi mà phong trào công nhân,
nhân dân lao động diễn ra mạnh mẽ nhằm xây dựng một chế độ mới, một
nền dân chủ vô sản. Đây còn là ước mơ, là khát khao của cả nhân loại.
Bởi vì chỉ có nền dân chủ vô sản thì quyền lực mới thực sự là của nhân
dân, dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản.
Với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã thực sự tìm cho mình một
tiếng nói chung, Người đã kế thừa, vận dụng đúng đắn, sáng tạo những
tư tưởng dân chủ vào trong các hoạt động của mình. Người đã đưa vào
trong phong trào đấu tranh, lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, nhằm thiết lập nên một chế độ dân chủ mới ở nước
ta.
Tóm lại, cùng với sự kết hợp những giá trị dân chủ trong những nét
văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại và kho

tàng lý luận chủ chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là nhân cách, phẩm
chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh, đã làm cơ sở cho việc hình
thành nên triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh.
13


1.1.2. Quá trình phát triển
a) Giai đoạn từ 1890 đến 1920
Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước và lớn lên trong
hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Từ nhỏ Người đã tiếp thu những truyền
thống của dân tộc, nền văn hiến của nước nhà và những tinh hoa văn hóa
phương Đông. Người lại được hưởng nền giáo huấn “yêu nước, thương
nòi” của gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
Vậy nên, Hồ Chí Minh đã được trang bị cho mình những tư tưởng dân
chủ trong văn hóa, truyền thống của dân tộc. Ngoài vốn Nho học và
Quốc học, trong hành trang học vấn của Người còn có những hiểu biết
nhất định về nền văn hoá phương Tây, đặc biệt là nền văn hoá, văn minh
Pháp. Hấp dẫn nhất đối với Người là câu châm ngôn về lý tưởng “Tự do,
Bình đẳng, Bác ái” mà cách mạng Pháp đã khai sinh.
Để thực hiện hoài bão của mình, Người đã đi và sống ở nhiều nước
thuộc châu Âu, châu Á, châu Phi, Châu Mỹ, tận mắt chứng kiến cuộc
sống bị bóc lột, bị đàn áp của nhân dân các nước thuộc địa và cũng đã
trực tiếp tìm hiểu đời sống của nhân dân lao động các nước tư bản.
Người rút ra kết luận rằng trên đời này chỉ có hai giống người: giống
người bóc lột và giống người bị bóc lột và chỉ có một mối tình hữu ái tình hữu ái vô sản là thật mà thôi.
Năm 1919, thay mặt nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây, những yêu sách của nhân dân An
Nam đòi các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng. Người cũng đã khảo sát,
và tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia Đảng Xã hội
Pháp (1919), tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga.

Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lội tìm con đường
cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7/1920), Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
14


đó những lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Hồ
Chí Minh quyết định đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau đó, Người đã
tham gia vào Quốc tế cộng sản, Người trở thành một trong những người
sáng lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản đầu tiên của
dân tộc Việt Nam. Đây là bước nhảy vọt lớn trong nhận thức của Người,
một sự chuyển biến về chất, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước
với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đây là khoảng thời gian mà Hồ Chí Minh tìm tòi, lựa chọn cho
mình một con đường cứu nước đúng đắn, đồng thời là khoảng thời gian
bước ngoặt trong quá trình hình thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
đó có tư tưởng dân chủ.
b) Giai đoạn từ 1920 đến 1930
Đây là thời kỳ hình thành cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
đó có tư tưởng dân chủ.
Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi,
phong phú ở Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc
(1924-1927), ở Thái Lan (1928-1929)... Trong thời gian này , tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành cơ bản. Hồ Chí
Minh đã kết hợp nghiên cứu xây dựng lý luận, kết hợp với tuyên truyền
tư tưởng giải phóng dân tộc và vận động tổ chức quần chúng đấu tranh,
xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Những tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường
Kách mệnh (1927) và những bài viết của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này

đều đứng trên lập trường dân chủ đã tố cáo sự tàn bạo của chủ nghĩa thực
dân; tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào các nước thuộc địa và thể

15


hiện những quan điểm lớn và độc đáo, sáng tạo về con đường cách mạng
Việt Nam.
c) Giai đoạn từ 1930 đến 1945
Giai đoạn này Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp nhiều khó khăn, thử
thách nhưng vẫn kiên định tư tưởng, quan điểm của mình về cách mạng
Việt Nam, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền dân tộc cơ bản.
Từ năm 1934, Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva và Người đã tìm
thấy trong nghị quyết Đại hội VII Quốc tế cộng sản năm 1935 bước
chuyển hướng mới phù hợp với những suy nghĩ tìm tòi của mình về
đường lối, đặc biệt là vấn đề mặt trận dân tộc rộng rãi chống đế quốc, đòi
dân chủ cơm áo và hòa bình. Chính điều đó đã dẫn đến thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
ra đời. “Tuyên ngôn độc lập” do Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố trước
quốc dân đồng bào và toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa – Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã khẳng định về mặt
pháp lý quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây là một bước phát
triển mở rộng tư tưởng dân quyền và nhân quyền của cách mạng tư sản
thành quyền tự do, độc lập của các dân tộc trên thế giới. Người viết: “Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền sung sướng, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”[1;
34].
d) Giai đoạn từ 1945 đến 1969
Đây là giai đoạn tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh được đưa vào thực

tiễn xây dựng chế độ dân chủ mới ở nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945. Vì vậy Người đã lãnh đạo nhân dân ta vừa tiến hành kháng
chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
(1945 - 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ và tiến hành
16


cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến khi Người qua đời, tư
tưởng dân chủ luôn luôn được phát huy rộng rãi trong tất cả các phong
trào trên tất cả các lĩnh vực. Đến phút cuối trước khi Người ra đi vẫn để
lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng - một
bản tổng kết sâu sắc, nói lên những nội dung cơ bản, những tư tưởng,
tình cảm lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là xây dựng một nhà nước dân chủ, một nhà nước
thực sự của dân, do dân và vì dân.
1.2. Những nội dung cơ bản trong triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh
1.2.1. Triết lý dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới đã trọn đời phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Cuộc
đời của Người là một tấm gương sáng ngời về phẩm chất và đạo đức
cách mạng. Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động của mình, Người đã để lại
những tư tưởng, những triết lý vô cùng giá trị. Đó là nền tảng lý luận
vững chắc cho quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Một trong những
triết lý có ý nghĩa quan trọng và đáng tự hào là triết lý dân chủ.
Triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh là một hệ thống chỉnh thể, bao
quát trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Với Người dân chủ là khát
vọng ngàn đời của con người. Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân
ta bởi vì hàng ngàn năm nay sống dưới chế độ phong kiến và gần một

trăm năm dưới chế độ thực dân đều không biết đến dân chủ, tự do. Hồ
Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ.
Dân là chủ là muốn nói đến quyền lực, địa vị của dân trong bộ máy
nhà nước và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp phát triển xã hội. Dân
phải ở địa vị cao nhất của đất nước. Người nói: “Nước ta là nước dân
17


chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[16; 515]. Dân là chủ sẽ đối lập
với nô lệ, thần dân hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng như thân
phận nô lệ trong tình cảnh bị thực dân thống trị. Trong xã hội phong
kiến, thì dân chủ được xem là chủ của dân, ông vua được xem là Thiên
Tử. Cho nên tất cả thần dân phải cung phụng vua như bổn phận, cho dù
đó là minh quân hay bạo chúa. Đó là mối quan hệ quân - thần. Trong chế
độ chính trị mới, khi nhà nước dân chủ ra đời, nhìn trong hệ quy chiếu
địa vị quyền lực thì dân là chủ thể quyền lực, còn cán bộ, công chức là
đầy tớ của nhân dân, là người phục vụ nhân dân. Dân là chủ còn biểu
hiện vị thế xã hội, tính tích cực chính trị và địa vị pháp lý của người dân.
Dân làm chủ là phản ánh năng lực và trách nhiệm của nhân dân
đều làm chủ chế độ, làm chủ đất nước. Năng lực đó được biểu hiện ở
trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm… Đó là nội hàm của năng
lực dân chủ, thể hiện hành vi làm chủ. Chính địa vị của người chủ và
năng lực làm chủ đã khái quát đầy đủ nhất trong nhận thức về dân chủ
của Hồ Chí Minh. Làm chủ, đó là hoạt động của dân, biểu hiện năng lực
thực hành dân chủ của dân, trước hết là về trình độ phát triển ý thức dân
chủ của dân với tư cách là chủ thể quyền lực thực hiện sự ủy quyền chân
chính của mình vào thể chế nhà nước
Tuy Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nhưng phải luôn lấy dân làm
gốc. Nghĩa là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo nhưng phải luôn để cho
dân làm chủ và dân là chủ. Hai vế của mệnh đề luôn đi đôi với nhau, thể

hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của nhân dân. Người nói: “bao
nhiêu quyền hạn đều của dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”[15; 698], Người cũng nhấn mạnh: “nhân dân có quyền lợi làm chủ
thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân”[17; 452]. Người luôn
luôn khẳng định: Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân,
mọi quyền bính thuộc về nhân dân, do nhân dân nắm giữ. Như vậy, nhân
18


dân là chủ thể của quyền lực và nhà nước là chủ thể đại diện cho dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất quan
niệm dân chủ chung trên thế giới được hình thành từ xa xưa: quyền hành
và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó
được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của một nhà nước dân chủ là “mọi
người có quyền làm, quyền nói”[21; 225], “nước ta là nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là người chủ”[16; 515]. Người chỉ rõ: “Chúng
ta thà hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao
kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay
một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới
được hạnh phúc”[12; 270]. Người cũng đã khẳng định rằng:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến chính phủ do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và mọi lực lượng đều ở nơi dân.”[15; 698]
Điểm nổi bật trong triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh là luôn luôn

có cái cốt lõi: dân là gốc; dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là
gốc thì dân phải là chủ. Dân chủ phải được hiểu là quyền con người,
quyền mưu cầu hạnh phúc như nhau…Mất cái lõi “dân là gốc” thì dân
chủ sẽ thành vô nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Lãnh đạo một
nước mà để cho dân nước mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh
phúc con người cũng là mất dân chủ. Người đánh giá cao về vai trò của
dân chủ: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân…”[17; 548]. Muốn
19


vận động nhân dân thì điều cơ bản đầu tiên phải dân chủ. Vì vậy, mở đầu
bài báo “Dân vận”, Người khẳng định “nước ta là nước dân chủ”[16;
515].
Triết lý của Người về dân chủ đã khẳng định dân chủ là giá trị của
nhân loại, là khát vọng sâu xa, cũng là thành tựu của cuộc đấu tranh lâu
dài của các dân tộc và của loài người. Trong xã hội ta, xã hội do nhân
dân làm chủ thì dân chủ vừa là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội, vừa là cơ chế và phương thức để vận hành quyền lực của
nhân dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội.
1.2.2 Những phương diện biểu hiện triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh
a) Dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Dân chủ trong xã hội Việt Nam thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội..., trong đó dân chủ thể hiện trong lĩnh
vực chính trị là quan trọng nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt
động của Nhà nước do nhân dân thành lập, ủng hộ, xây dựng. Điểm cốt
lõi của dân chủ trong chính trị là chế độ uỷ quyền của dân thông qua bầu
cử, bằng phương thức dân chủ đại diện, bầu ra Chính phủ với chế độ phổ
thông đầu phiếu. Khi Chính phủ đó ra đời, nhiệm vụ chủ yếu cấp bách là
phải thực hiện dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Đó là mục đích
căn bản sâu xa của dân chủ trong chính trị. Triết lý Hồ Chí Minh về dân

chủ trong chính trị xuất phát từ truyền thống văn hoá dân tộc, được kết
tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; là sự kết hợp những
tinh hoa giá trị dân chủ của văn hoá phương Đông và phương Tây, đặc
biệt là lý tưởng giải phóng dân tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng
con người của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Khi nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị,
cho thấy nổi lên những nội dung lớn sau:

20


- Giải phóng nhân dân về mặt chính trị để xác lập quyền lực chính
trị của nhân dân.
Tư tưởng giải phóng của Hồ Chí Minh rất triệt để, đó là giải phóng
dân tộc để phát triển dân tộc, đưa cộng đồng dân tộc Việt Nam hoà nhập
vào cộng đồng dân tộc thế giới. Trong sự nghiệp giải phóng này, trước
hết là giải phóng về mặt chính trị để xác lập quyền tự do chính trị, quyền
tự quyết dân tộc, đảm bảo trên thực tế quyền lực chính trị của nhân dân, từ đó
tiến tới những cuộc giải phóng khác. Chính vì thế mà Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Thứ nhất, đánh đổ chủ nghĩa thực dân, phong kiến làm cho
nước Nam hoàn toàn độc lập.
Thứ hai, xây dựng chính phủ công nông
Thứ ba, xây dựng chính trị: dân quyền.”[10; 30].
- Xây dựng nền chính trị mới khoa học và cách mạng.
+ Xác định chủ thể của nền chính trị mới, khoa học và cách
mạng.
Sau khi đánh đổ chế độ chính trị chuyên chế thực dân và phong
kiến, Hồ Chí Minh đã xác lập nền chính trị mới ở Việt Nam, đó là nền
chính trị thấm nhuần sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, thế giới quan
và hệ tư tưởng chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, thống nhất hữu cơ

giữa tính chất giai cấp với tính chất và truyền thống dân tộc, kết hợp
nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Như vậy, nền chính trị mới mà Hồ Chí Minh xây dựng là nền chính
trị mà trong đó nhân dân, những người lao động là chủ thể của quyền lực
chính trị. Chủ thể đó được khẳng định rõ ràng trong nhà nước của dân,
do dân và vì dân. Nhà nước của dân là do nhân dân đứng dậy đấu tranh
để giành lấy chính quyền về tay mình. Đó là kết quả của sự hy sinh anh

21


dũng của biết bao nhiêu người con ưu tú của dân tộc, hy sinh trên máy
chém, trong nhà tù của thực dân đế quốc và trên chiến trường.
Tư tưởng nhà nước của dân là điểm mấu chốt trong xác định
chủ thể chính trị mới. Điều này được thể hiện rõ ngay từ Quốc dân Đại
hội Tân Trào lập ra Chính phủ Lâm thời. Người quan niệm cần phải xây
dựng một nhà nước mà: tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể
nhân dân Việt Nam. “Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng
cháu Tiên, bất kỳ già, trẻ, gái trai, giàu nghèo quý tiện, đều phải gánh
vác một phần”[14; 240-241].
Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà được thành lập thông qua tổng tuyển cử. Việc Hồ Chí Minh
chủ trương thực hiện tổng tuyển cử là một sáng kiến vĩ đại phản ánh
được tính chất dân chủ. Nhà nước của dân, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng mang bản chất giai cấp công
nhân, đó là điểm đặc sắc đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xác
lập chủ thể của nền chính trị mới.
Nhà nước do dân là việc hiện thực hoá quyền lực thuộc về nhân
dân, nhân dân là chủ thể chính trị mới, nhân dân uỷ quyền của mình cho
nhà nước bằng cách lựa chọn, bầu ra những đại biểu xứng đáng của mình

để thay mặt mình thực thi mọi công việc hàng ngày. Nhà nước đó do dân
tổ chức nên, dân ủng hộ, giúp đỡ đóng thuế để nhà nước hoạt động. Nhà
nước đó cũng do nhân dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí Minh đã
từng chỉ rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân
dân”[18; 591], và “Hễ chính phủ nào mà có hại cho dân chúng thì dân
chúng phải đạp đổ chính phủ ấy đi và gây lên chính phủ khác”[12;
270].

22


Nhà nước vì dân là nhà nước có trách nhiệm và chịu trách nhiệm
trước dân phải giải quyết cho được bốn vấn đề cốt yếu nhất là: “1. Làm
cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chổ ở; 4. Làm
cho dân có học hành”[14; 152]. Nhà nước vì dân là nhà nước bảo vệ
nhân dân, chống lại những tệ nạn vi phạm quyền dân chủ và lợi ích của
nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân
dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ từ
trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và
ngành nào đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân”[19; 323].
Như vậy, chủ thể của nền chính trị mới mà Hồ Chí Minh xác lập
phản ánh được tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn. Tính
khoa học là nắm vững tinh thần lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận
dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, xuất phát từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Tính cách mạng triệt để trong tư tưởng chính trị dân
chủ của Hồ Chí Minh là ở chỗ, hướng sự nghiệp giải phóng đến triệt để,
gắn liền giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người.
Chủ thể chính trị mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thấm

nhuần sâu sắc tính nhân văn của Người. Đó là “lấy giá trị con người là
cốt lõi, lấy giải phóng và phát triển con người và xã hội làm mục đích”,
“nước lấy dân làm gốc” mà căn dặn cán bộ, đảng viên phải làm điều lợi
cho dân, tránh điều hại cho dân, phải thấu hiểu tâm trạng và nguyện vọng
của dân, tiếp thu ý kiến phê bình của dân và quyết tâm sửa chữa những
khuyết điểm, sai lầm để phục vụ dân chúng ngày một tốt hơn. Đó là nét
độc đáo của giá trị triết lý dân chủ Hồ Chí Minh.
+ Xác lập quyền lực chính trị của nhân dân.

23


* Nhân dân làm chủ nhà nước và xã hội để thực hiện quyền lực
chính trị của mình trong chế độ mới.
Trong chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa thì động lực
quan trọng để phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị là con người, là quần
chúng nhân dân đã được giải phóng và làm chủ.
Quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động của
nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ… Nhân
dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt
mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”[17; 218-219]. Điều này
cho thấy trong chế độ mới, nhân dân làm chủ thông qua bầu cử, ứng cử
vào nhà nước. Thông qua bầu cử và ứng cử vào bộ máy nhà nước mà
nhân dân thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trong nhà nước
và trước xã hội. Đây là điều kiện để phát huy vai trò, địa vị và năng lực
làm chủ nước nhà của mỗi một người dân với tư cách người chủ.
* Nhân dân làm chủ thông qua bầu cử, ứng cử vào Nhà nước
Thông qua bầu cử, ứng cử vào bộ máy nhà nước mà nhân dân thể
hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân trong Nhà nước và trước xã

hội. Đây là điều kiện để phát huy vai trò, địa vị và năng lực làm chủ nhà
nước của một người dân với tư cách người chủ.
Đấu tranh cho dân chủ không chỉ lật đổ chế độ chuyên chế thực
dân và phong kiến mà còn xây dựng chế độ xã hội mới. Việc người dân ý
thức được nghĩa vụ công dân của mình để đi bỏ phiếu giống như người
lính, người chiến sĩ trên mặt trận vậy. Bởi vì: “Một lá phiếu cũng có sức
lực như một viên đạn”[14,145]. Mặt khác, việc tham gia bầu cử của
người dân để lựa chọn những người xứng đáng đảm nhận việc nước, “đó

24


là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị
của mình”[17,218].
* Quyền làm chủ của nhân dân còn thể hiện ở chỗ, nhân dân phát
biểu góp ý kiến của mình vào các công việc nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức do nhân dân lập ra để thay mặt nhân dân
thực thi quyền lực cho nhân dân. Thông qua bầu cử, nhân dân ủy thác
quyền lực của mình cho nhà nước. Khi quyền lực của nhân dân đã được
uỷ thác cho nhà nước, trở thành quyền lực nhà nước, thì việc thực hiện
quyền lực nhà nước phải minh bạch và để tránh lạm quyền, chuyên
quyền, tha hóa về quyền lực. Để làm được như vậy thì nhà nước phải
chịu sự kiểm soát quyền lực từ phía nhân dân, phải lắng nghe sự đóng
góp ý kiến phê bình của nhân dân. Điều đó vừa phản ánh được trách
nhiệm của nhân dân đối với nhà nước; vừa thể hiện mối quan hệ giữa nhà
nước và nhân dân. Hồ Chí Minh viết: “dân dùng đầy tớ làm việc cho
mình, thì phải giúp đỡ chính phủ. Nếu chính phủ sai thì phải phê bình,
phê bình nhưng không phải là chửi”[15; 60]. Thực hiện như vậy mới thực
sự là Chính phủ của nhân dân và do nhân dân lập ra. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực luợng, nếu không có

chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”[14; 56].
* Nhân dân làm chủ bằng cách tham gia vào công việc quản
lý nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn công việc tham gia quản lý nhà nước
với mục tiêu xây dựng CNXH và trách nhiệm của người làm chủ nước
nhà. Người đã chỉ rõ mục đích tại sao người dân từ công nhân, nông dân
đến trí thức và với người lao động khác phải tham gia vào quản lý nhà
nước. Người nhấn mạnh: “Khác hẳn với trước kia, công nhân bây giờ là
người chủ đất nước, chủ xã hội, chủ cuộc sống… Muốn thực hiện đúng
vai trò làm chủ, giai cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí
25


×