Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Triết lý dân chủ của hồ chí minh với đời sống dân chủ hiện nay ở huyện vĩnh linh, tỉnh quảng trị” tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.31 KB, 29 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của nhân dân
Việt Nam là một con người tài năng, đức độ vẹn toàn. Toàn bộ
sự nghiệp vì dân, vì nước của Người là tấm gương đạo đức
cách mạng sáng ngời để lớp lớp con cháu noi theo. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần và trí tuệ quý báu của cách
mạng nước ta, của dân tộc và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư
tưởng đó là một động lực lớn của nhân dân ta trong cuộc hành
trình mới xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh. Trong tư tưởng của
Người có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề quan trọng, trở thành
tài sản vô cùng quý giá của dân tộc Việt Nam. Một trong những
tư tưởng quan trọng mà ngày nay chúng ta vẫn đang hướng đến
đó là dân chủ.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin xem dân
chủ là động lực, là con đường dẫn tới CNXH. Trong tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách
giản dị, dễ hiểu. Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn
lâm, bác học nhưng lại phản ánh được chiều sâu giá trị lý luận
của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa
khái niệm dân chủ: “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”.
Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về dân chủ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh - một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao
quát đầy đủ nhất, sâu sắc nhất bản chất của dân chủ. Định nghĩa
này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân
dân. Họ trở thành người chủ của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “dân chủ là của quý
báu nhất của nhân dân…”[17; 548]., Người cũng khẳng định
“nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”[16; 286].. Dân chủ là một vấn đề có tính thời đại và thời


sự sâu sắc, nhất là trong sự phát triển của xã hội hiện đại ngày

1


nay. Dân chủ là tiêu chuẩn cơ bản, để đánh giá sự tiến bộ của
mọi thời đại.
Chính vì nhận thấy được tầm quan trọng, vai trò của dân
chủ trong đời sống xã hội, Hồ Chí Minh đã đưa ra một hệ thống
các luận điểm về dân chủ, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội... Người viết: “Ở nước ta
chính quyền là của của nhân dân do nhân dân làm chủ... Nhân
dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay
mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”[17; 218219]. Chế độ dân chủ là “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”[15;698],
“Quyền hành và lực lượng là ở nơi dân”[15; 698], hệ thống
chính trị do dân cử ra và do dân tổ chức nên. Dân chủ không
chỉ là một thiết chế xã hội của một quốc gia mà còn thể hiện
trong quan hệ quốc tế: hòa bình giữa các dân tộc, dân chủ bình
đẳng trong các tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử quốc tế…
Trong xã hội ngày nay, với những chuyển biến sâu sắc
của thế giới và của đất nước, chúng ta đang phải đương đầu với
rất nhiều khó khăn và thử thách. Vậy nên nước ta đang xây
dựng một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN
và hình thái nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Đó là nội dung cốt lõi của triết lý dân chủ Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng nền dân chủ
XHCN ở Việt Nam nói chung và ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh
Quảng Trị nói riêng, đã ngày càng bộc lộ rõ tình trạng vi phạm
dân chủ. Điều này có thể xảy ra bất cứ lúc nào và có nguy cơ
làm chệch huớng XHCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các thế

lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” gây bạo
loạn lật đổ, sử đụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”
nhằm làm thay đổi chế độ chính trị của đất nước ta.
Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc học tập và
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là việc làm rất cần
thiết, cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Với ý nghĩa đó tôi
chọn đề tài “Triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh với đời sống

2


dân chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị” làm
khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài của khóa luận
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và triết lý Hồ Chí Minh nói riêng đã trở thành
một việc làm thiết thực, chủ yếu của nghiên cứu lý luận và khoa
học xã hội nhân văn ở Việt Nam. Đóng góp thành công vào
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” hiện nay.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo cáo,
nhiều bộ phim tư liệu và các tài liệu liên quan đã tiếp cận tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh ở nhiều góc độ khác nhau.
- Dân chủ di sản văn hóa Hồ Chí Minh – do Nguyễn
Khắc Mai chủ biên (Nxb Lao Động, Hà Nội, 1997) – đã xác
định rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh, những đóng góp của Người trong một số lĩnh vực
của thực tiễn và xác định đó là một di sản văn hóa lớn, có giá
trị lớn đối với dân tộc Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ - TS. Phạm Hồng

Chương (Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004) - đã chỉ rõ
nguồn gốc, quá trình hình thành những quan điểm của Hồ Chí
Minh về dân chủ, và việc vận dụng lý luận đó vào thực tiễn của
đất nước.
- Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh – do TS. Phạm
Văn Bính chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008) - đã
chỉ rõ những vấn đề cơ bản trong triết lý dân chủ của Hồ Chí
Minh, từ đó đề xuất áp dụng triết lý dân chủ vào việc lãnh đạo
của Đảng ta trog giai đoạn hiện nay.
Tiếp nối và kế thừa những giá trị, những lý luận mà các
nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã đưa ra, đề tài “Triết lý
dân chủ của Hồ Chí Minh với đời sống dân chủ ở huyện
Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị”, nhằm làm sáng tỏ hơn nội dung
triết lý dân chủ của Người và vận dụng vào thực hiện đời sống
dân chủ ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
3


Mặc dù ở những góc độ nghiên cứu, tìm hiểu khác
nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục địch hiểu rõ và sâu sắc triết
lý dân chủ và vận dụng nó vào thức tiễn nhằm xây dựng một
chế độ xã hội, một đất nước dân giàu – nước mạnh – xã hội dân
chủ – công bằng – văn minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
+ Mục đích: góp phần làm sáng tỏ triết lý dân chủ của
Hồ Chí Minh và sự vận dụng triết lý đó của Người vào xây
dựng đời sống dân chủ ở huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở, quá trình hình thành và phát triển của
triết lý dân chủ Hồ Chí Minh.

- Chỉ rõ những nội dung cơ bản trong triết lý dân chủ
của Hồ Chí Minh.
- Đưa ra những nội dung và những kết quả đạt được, tìm
ra những giải pháp, bài học kinh nghiệm và đề ra những đề xuất
trong vấn đề thực hiện dân chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của
khóa luận
+ Cơ sở lý luận:
Phép biện chứng duy vật về lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về
dân chủ.
+ Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp lôgic –
lịch sử, phương pháp so sánh – đối chiếu, …
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận nhằm nâng cao nhận thức triết lý dân chủ của
Hồ Chí Minh cả về lý luận và hoạt động thực tiễn, nhằm khắc
phục những cách nhìn phiến diện và tình trạng vi phạm dân chủ
trong đời sống hiện nay ở Việt Nam. Đồng thời có thể là một tài
liệu sinh hoạt hết sức bổ ích trong hoạt động lý luận và thực
tiễn, đặc biệt trong giai đoạn đất nước đang tiến hành đẩy mạnh
4


cuộc vận động “Học tập và lam theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” hiện nay.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận gồm hai chương, bốn tiết:

Chương 1 : Triết lý dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
1.1.
Cơ sở hình thành và phát triển
1.2 Những nội dung cơ bản trong triết lý dân chủ của
Hồ Chí Minh
Chương 2: Vận dụng triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh
vào xây dựng đời sống dân chủ hiện nay ở huyện Vĩnh Linh,
tỉnh Quảng Trị
2.1 Thực trạng dân chủ hiện nay ở Vĩnh Linh tỉnh
Quảng Trị
2.2 Nội dung cơ bản của sự vận dụng triết lý dân chủ
của Hồ Chí Minh vào xây dựng đời sống dân chủ hiện nay ở
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị

5


Chương 1:
TRIẾT LÝ DÂN CHỦ TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1 Cơ sở hình thành và phát triển
1.1.1 Cơ sở hình thành
a) Cơ sở khách quan
- Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là một sản phẩm
lịch sử cụ thể, là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò
của nhân dân trong lịch sử được hình thành dưới tác động
và ảnh hưởng của những điều kiện lịch sử xã hội của dân
tộc và của thời đại vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

+ Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Vào cuối thế kỷ XIX, Việt Nam từ một nước phong
kiến độc lập đã bị chủ nghĩa tư bản Pháp xâm lược, trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống
trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam không có tự do,
đã không ngừng nổi lên chống lại chúng. Trong khi đó, triều
đình nhà Nguyễn bạc nhược. Đầu thế kỷ XX, các phong
trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả
nước nhưng đều thất bại… Trong điều kiện lịch sử ấy, Hồ
Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước, đáp ứng đòi hỏi bức
thiết của dân tộc và thời đại.
+ Bối cảnh thời đại
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản
đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, xác lập sự thống trị trên phạm vi thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của tất cả các
dân tộc thuộc địa.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi và
sự ra đời của Liên bang Xô viết đã tạo ra những tiền đề,
điều kiện cơ bản thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước trên Thế giới, trong đó có Việt Nam phát triển
nhanh chóng, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại.
6


- Những tiền đề tư tưởng, lý luận
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là kết quả của sự
kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở phương
Đông và quan điểm cách mạng, là sự nghiệp của quần
chúng trong học thuyết Mác-Lênin. Kết hợp giữa truyền

thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
+ Giá trị truyền thống của dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết bắt nguồn từ các giá
trị truyền thống của dân tộc, là sự kế thừa và phát triển các
giá trị văn hoá truyền thống dân tộc.
Trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, dân
chủ được hiểu là dân chủ trong nông dân, trong chính cuộc
sống của người nông dân đấu tranh cho chủ nghĩa bình quân
về quyền lợi, đấu tranh để đòi quyền được sống, được hạnh
phúc.
Không chỉ dừng ở đây, trong tư tưởng dân chủ của
truyền thống dân tộc Việt Nam thì dân chủ còn tồn tại ở một
số biện pháp thân dân của các vương triều tiến bộ.
+ Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Đông (Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo,..). Người đã tiếp thu,
kế thừa có chọn lọc tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa
Phục hưng, của thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản
phương Tây, cách mạng tư sản Trung Quốc.
Đối với Nho giá Người đã cãi biến tư tưởng của Mạnh
Tử về “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vị khinh” theo nghĩa
dân là quý nhất, nhà nước là thứ yếu, người lãnh đạo phải ở
sau hết. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có
những tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân
chia đẳng cấp (quân tử và tiểu nhân), trọng nam khinh nữ.

7



Đối với Phật giáo là quan điểm của về tư tưởng vị tha,
bình đẳng, từ bi, bác ái. Phật giáo cũng đề cao nếp sống đạo
đức, trong sạch, chăm làm điều thiện, coi trọng lao động.
Người cũng đã tìm thấy ở “chủ nghĩa tam dân” của
Tôn Trung Sơn những điều phù hợp với điều kiện của cách
mạng nước ta là tư tưởng dân chủ tiến bộ với chủ trương
dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền
văn hoá dân chủ và cách mạng phương Tây như: tư tưởng
tự do, bình đẳng trong “Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền” của Đại cách mạng Pháp 1791; tư tưởng dân chủ, về
quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong
“Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ 1776.
+ Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp,
là cơ sở lý luận cốt lõi tạo nên sự hoàn thiện triết lý dân chủ
của Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Chủ nghĩa MácLênin đối với chúng ta… là mặt trời soi sáng con đường
chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã
hội…”[19; 128].
Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là đến với mục tiêu giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Người đã vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin theo phương pháp mác-xít và
theo tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh
viện, không tìm kết luận có sẵn mà tự tìm ra giải pháp
riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam.
b) Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là một nhân tố quan trọng trong việc
hình thành tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Nhân cách,
phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn

đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có
óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu,
tìm hiểu các cuộc cách mạng trong nước và trên thế giới.
8


Hồ Chí Minh có sự khổ công học tập, rèn luyện chiếm
lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm
đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào
công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin với
tư cách là học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh có tâm hồn của một người yêu nước vĩ
đại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái
tim yêu thương nhân dân, thương người cùng khổ, sẵn sàng
chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của
nhân dân.
1.1.2. Quá trình phát triển
a) Giai đoạn từ 1890 đến 1920
Đây là khoảng thời gian mà Hồ Chí Minh tìm tòi, lựa
chọn cho mình một con đường cứu nước đúng đắn, đồng
thời là khoảng thời gian bước ngoặt trong quá trình hình
thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân
chủ.
b) Giai đoạn từ 1920 đến 1930
Đây là thời kỳ hình thành cơ bản về tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong có có tư tưởng dân chủ.
Những tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp
(1925), Đường Kách mệnh (1927) và những bài viết của Hồ
Chí Minh trong thời kỳ này đều đứng trên lập trường dân

chủ đã tố cáo sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân; tuyên
truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào các nước thuộc địa và thể
hiện những quan điểm lớn và độc đáo, sáng tạo về con
đường cách mạng Việt Nam.
c) Giai đoạn từ 1930 đến 1945
Giai đoạn này Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp nhiều khó
khăn, thử thách những vẫn kiên định tư tưởng, quan điểm
của mình về cách mạng Việt Nam, nêu cao tư tưởng độc lập,
tự do và quyền dân tộc cơ bản

9


d) Giai đoạn từ 1945 đến 1969
Đây là giai đoạn tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh được
đưa vào thực tiễn xây dựng chế độ dân chủ mới ở nước ta
sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến khi Người qua
đời, tư tưởng dân chủ luôn luôn được phát huy rộng rãi
trong tất cả các phong trào trên tất cả các lĩnh vực. Đến
phút cuối trước khi Người ra đi vẫn mong muốn xây dựng
một nhà nước dân chủ, một nhà nước thực sự của dân, do
dân và vì dân.
1.2. Những nội dung cơ bản trong triết lý dân chủ
của Hồ Chí Minh
1.2.1. Triết lý dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh là một hệ thống
chỉnh thể, bao quát trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Với Người dân chủ là khát vọng ngàn đời của con người.
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là dân là chủ và

dân làm chủ.
Dân là chủ là muốn nói đến quyền lực, địa vị của dân
trong bộ máy nhà nước và vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp phát triển xã hội. Dân phải ở địa vị cao nhất của đất
nước. Người nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất
là dân, vì dân là chủ”[16; 515].
Dân làm chủ là phản ánh năng lực và trách nhiệm của
nhân dân đều làm chủ chế độ, làm chủ đất nước. Năng lực
đó được biểu hiện ở trình độ văn hóa, bản lĩnh, ý thức, trách
nhiệm…
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của một nhà nước dân
chủ là “mọi người có quyền làm, quyền nói”[21; 225],
“nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
người chủ”[16; 515].

10


1.2.2 Những phương diện biểu hiện triết lý dân chủ
của Hồ Chí Minh
a) Dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Khi nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
trong chính trị, cho thấy nổi lên những nội dung lớn sau:
- Giải phóng nhân dân về mặt chính trị để xác lập
quyền lực chính trị của nhân dân
Tư tưởng giải phóng của Hồ Chí Minh rất triệt để, đó
là giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, đưa cộng đồng
dân tộc Việt Nam hoà nhập vào cộng đồng dân tộc thế giới.
Trong sự nghiệp giải phóng này, trước hết là giải phóng về
mặt chính trị để xác lập quyền tự do chính trị, quyền tự

quyết dân tộc, đảm bảo trên thực tế quyền lực chính trị của
nhân dân, từ đó tiến tới những cuộc giải phóng khác.
- Xây dựng nền chính trị mới khoa học và cách mạng.
+ Xác định chủ thể của nền chính trị mới, khoa học
và cách mạng.
Nền chính trị mới mà Hồ Chí Minh xây dựng là nền
chính trị mà trong đó nhân dân, những người lao động
là chủ thể của quyền lực chính trị. Chủ thể đó được khẳng
định rõ ràng trong nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước của dân là do nhân dân đứng dậy đấu tranh để giành
lấy chính quyền về tay mình.
+ Xác lập quyền lực chính trị của nhân dân.
* Nhân dân làm chủ nhà nước và xã hội để thực hiện
quyền lực chính trị của mình trong chế độ mới.
Trong chế độ xã hội mới - chế độ xã hội chủ nghĩa thì
động lực quan trọng để phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị
là con người, là quần chúng nhân dân đã được giải phóng và
làm chủ.
Quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động
của nhà nước với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân,
do nhân dân làm chủ… Nhân dân là ông chủ nắm chính
11


quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành
chính quyền ấy. Thế là dân chủ”[17; 218-219].
* Nhân dân làm chủ thông qua bầu cử, ứng cử vào Nhà nước
Thông qua bầu cử, ứng cử vào bộ máy nhà nước mà
nhân dân thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân

trong Nhà nước và trước xã hội. Đây là điều kiện để phát
huy vai trò, địa vị và năng lực làm chủ nhà nước của một
người dân với tư cách người chủ.
* Quyền làm chủ của nhân dân còn thể hiện ở chỗ,
nhân dân phát biểu góp ý kiến của mình vào các công việc
nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức do nhân dân lập ra để thay
mặt nhân dân thực thi quyền lực cho nhân dân. Thông qua
bầu cử, nhân dân ủy thác quyền lực của mình cho nhà nước.
Khi quyền lực của nhân dân đã được uỷ thác cho nhà nước,
trở thành quyền lực nhà nước, thì việc thực hiện quyền lực
nhà nước phải minh bạch và để tránh lạm quyền, chuyên
quyền, tha hóa về quyền lực.
* Nhân dân làm chủ bằng cách tham gia vào công việc
quản lý nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn công việc tham gia quản lý
nhà nước với mục tiêu xây dựng CNXH và trách nhiệm của
người làm chủ nước nhà.
Hồ Chí Minh còn khẳng định rằng: “Chỉ có chế độ của
chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết
là nhân dân lao động, bảo đảo mọi quyền lợi của nhân dân,
mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà
nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm tròn
nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã
hội, làm cho đất nước ta mạnh, dân ta giàu:[18,593].
* Kiểm tra giám sát, kiểm tra cơ quan công quyền,
kiểm tra hành vi đạo đức công chức.
Việc nhân dân tham gia giám sát, kiểm tra cơ quan
công quyền và kiểm tra hành vi đạo đức công chức là thể
12



hiện nhiệm vụ sinh hoạt chính trị rộng rãi của nhân dân. Đó
là cách tốt nhất để ngày càng hoàn thiện nhà nước, phát huy
tính tích cực và sức sáng tạo, chủ động của nhân dân trong
việc xác định địa vị, trách nhiệm và năng lực làm chủ của
mình.
b) Dân chủ trong kinh tế
Điểm cốt lõi của dân chủ trong kinh tế là vấn đề lợi
ích. Theo Hồ Chí Minh, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân
thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của
nhân dân với tinh thần “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Nội dung tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong
lĩnh vực kinh tế được thể hiện trong vấn đề sở hữu tư liệu
sản xuất:
Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong nước ta hiện nay có
những hình thức sở hữu chính như sau:
+ Sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân.
+ Sở hữu của hợp tác xã tức là của tập thể nhân dân
lao động.
+ Sở hữu của những người lao động riêng lẻ.
+ Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của
nhà tư bản”[18; 588]
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế là đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân đối với quá
trình sản xuất, mà trước hết là sự làm chủ của họ đối với
các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất trong các thành
phần kinh tế, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Tổ chức và quản lý sản xuất.
Từ quyền làm chủ tư liệu sản xuất tạo cơ sở cho nhân

dân ta thực hiện quyền làm chủ trong lĩnh vực tổ chức
và quản lý sản xuất.
Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực này
thể hiện trước hết trong việc hình thành một cơ cấu kinh tế
nhằm tạo sự phát triển cân đối giữa các ngành kinh tế, giữa
các vùng kinh tế.
13


c) Dân chủ trong lĩnh vực văn hóa – xã hội.
Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ
quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan
điểm Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và nước ta là
một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân. Vì vậy, văn hóa
cũng phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì nhân dân phục
vụ và phát huy sứ mạng của toàn dân làm văn hóa. Làm cho
văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất
cao, là nhiệm vụ khó khăn và lâu dài.
Cụ thể như sau:
- Văn hóa phục vụ nhân dân.
Xuyên suốt sự nghiệp văn hóa của mình, Hồ Chí Minh
luôn tâm niệm lấy lợi ích của nhân dân làm mục tiêu cho
công tác văn hóa. Hồ Chí Minh luôn yêu cầu người làm văn
hóa phải luôn đặt câu hỏi sáng tác cho ai? và về cái gì?
- Văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng.
Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ của nhà nước dân
chủ trong xây dựng văn hóa dân tộc là “phải xây dựng một
nền văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng. Phải nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân… Phải chống văn hóa nô lệ

của đế quốc, phong kiến”[17; 220].
- Phát triển văn hoá các dân tộc.
Các dân tộc ít người ở Việt Nam được Hồ Chí Minh
dành một sự quan tâm đặc biệt và một sự cảm thông sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực nói chung và văn hoá nói riêng.
“Các dân tộc có quyền bình đẳng... Chính phủ sẽ gắng sức
giúp cho các dân tộc thiểu số về mọi mặt... Về văn hoá,
Chính phủ sẽ chú ý tới trình độ học thức cho dân tộc. Các
dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng và phải cố gắng để
cùng giành cho bằng được độc lập hoàn toàn, tự do và thái
bình”[14;110-111].

14


Trên lĩnh vực giáo dục, Hồ Chí Minh rất quan tâm chỉ
đạo sự nghiệp phát triển giáo dục miền núi, khôi phục và
xây dựng hệ thống chữ viết cho các dân tộc ít người.
- Sử dụng trí thức và nhân tài.
Hồ Chí Minh chú ý đặc biệt tới vị trí và vai trò của
trí thức trong tiến trình cách mạng và xây dựng đất nước.
Người nói: “Là một bộ phận trong lực lượng cách mạng, trí
thức có nhiệm vụ thi đua phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Vì vậy, Đảng và Chính phủ ta rất quý trọng những
người trí thức của nhân dân, vì nhân dân”[15;170].
Trên thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đào tạo, phát
hiện, cảm hoá, trọng dụng nhiều nhà trí thức, nhân tài như:
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại,…; những nhà khoa học
nổi tiếng như: GS Trần Đại Nghĩa, GS Hồ Đắc Di,…; những
nhà chính trị, quân sự tài ba như: Trường Chinh, Phạm Văn

Đồng, Võ Nguyên Giáp,…
- Xây dựng nền giáo dục và đời sống văn hóa mới.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo
dục luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong
việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính
bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm
đào tạo ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”,
có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ...
Mục đích trọng tâm và xuyên suốt tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh là vì con người, cho con người, là xây dựng
con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi thời kỳ cách
mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục
khác nhau cho phối hợp.
Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương
pháp về giáo dục. Nguyên tắc này được Người sử dụng

15


trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, thanh thiếu niên,
công nhân, nông dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên…
Cùng với việc xây dựng một nền giáo dục mới, Hồ
Chí Minh chủ trương xây dựng đời sống văn hóa mới của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đời sống văn hoá mới
được Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội dung: đạo đức mới, lối
sống mới, nếp sống mới
d) Thực hành dân chủ

Thực hành dân chủ là một vấn đề có ý nghĩa vô cùng
quan trọng, bởi vì dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
cách mạng. Dân chủ càng được đảm bảo thì cách mạng mới
thành công và thành công triệt để.
Hồ Chí Minh coi thực hành dân chủ là sự huy động
và sử dụng được tối đa quyền hạn, lực lượng của toàn dân để
thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng vì lợi ích của nhân
dân ở tất cả các thời kì phát triển. Vai trò quan trọng đó được
Hồ Chí Minh thực hiện rất thành công trong thực tiễn cách
mạng nước ta.
- Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi.
Ngay trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã xây dựng một chương
trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách
nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước nhà, gắn độc lập,
tự do của tổ quốc với quyền lợi của từng người dân.
Dân chủ ở nước Việt Nam mới được thể hiện và được
bảo đảm trong đạo luật cơ bản nhất là các bản Hiến pháp do
Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng và được Quốc hội thông qua.
Hiến pháp năm 1946, bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, thể hiện rõ nhất và thấm đậm nhất tư
tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ
sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân
dân.
Người chú trọng đảm bảo quyền lực của các giai cấp, tầng
lớp, các cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta.
16


- Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và

các đoàn thể chính trị-xã hội vững mạnh để đảm bảo dân chủ
trong xã hội.
Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh chú trọng tới việc xây dựng các tổ chức đảm bảo dân chủ
trong xã hội:
- Xây dựng Đảng với tư cách là đảng cầm quyền, Đảng
lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo toàn xã hội;
- Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
- Xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự
nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung là
sự phát triển của đất nước;
- Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác
của nhân dân
Trong đó, quan điểm nhất quán của Người là có đảm bảo
và phát huy dân chủ trong Đảng thì mới đảm bảo được dân chủ
của toàn xã hội.
- Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác
của nhân dân
Trong đó, quan điểm nhất quán của Người là có đảm
bảo và phát huy dân chủ trong Đảng thì mới đảm bảo được dân
chủ của toàn xã hội. Đó là quan điểm nhất quán của Hồ Chí
Minh. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền
của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng trở
thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết
để đảm bảo tính chất dân chủ của xã hội.

Chương 2.

17



VẬN DỤNG TRIẾT LÝ DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG DÂN CHỦ HIỆN NAY Ở
HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1 Thực trạng dân chủ hiện nay ở Huyện Vĩnh
Linh,tỉnh Quảng Tri
2.1.1. Vài nét về mảnh đất và con người Vĩnh Linh
Vĩnh Linh – một huyện nằm ở phía Bắc của tỉnh Quảng
Trị. Phía Đông giáp biển Đông; phía Tây giáp huyện Hướng
Hóa; phía Nam giáp huyện Gio Linh và phía Bắc giáp huyện Lệ
Thủy (Quảng Bình). Dân số 89.027 người trong đó có 2.175
người dân tộc Vân Kiều, toàn huyện có 20.323 hộ; 22 xã, thị
trấn; 191 làng, bản, khóm, phố. Nơi đây có con sông Bến Hải
và cầu Hiền Lương một thời là chứng tích của nỗi đau chia
cắt.Một vùng quê nối liền hai miền Nam Bắc, luôn phải chịu
đựng sự khắc nghiệt của gió Lào và cát trắng bao đời hun nóng
mặt đất và con người…
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, Vĩnh Linh chỉ có hai bàn
tay trắng và mặt đất nham nhở hố bom. Người dân Vĩnh Linh
đã và đang từng ngày từng giờ biến quê hương Vĩnh Linh lũy
thép chiến thắng thành lũy hoa tràn đầy sức sống. Từng bước
đưa Vĩnh Linh trở thành trung tâm phát triển kinh tế xã hội phía
Bắc tỉnh Quảng Trị.
2.1.2. Thành tựu
- Trong lĩnh vực kinh tế:
Vĩnh Linh là địa phương có nền kinh tế xã hội phát triển
khá đồng đều và vững mạnh.
Các cấp chính quyền đã có nhiều chủ trương, biện pháp
tích cực nhằm thực hiện các chương trình dự án đầu tư phát
triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sông

vật chất, đời sống tinh thần cho nhân dân. Nhờ vậy, trong năm
2010 các chỉ tiêu kinh tế – xã hội đều đạt tốc độ và vượt kế
18


hoạch. Tổng giá trị sản xuất tăng 16,3%, cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch đúng hướng. Bình quân thu nhập đầu người 15,3
triệu đồng/người/năm, tăng 16,7% so với năm 2009. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, các chính sách phát triển nông nghiệp
nông thôn được quan tâm đầu tư và thực hiện có hiệu quả.
Nhiều công trình trọng điểm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Thương mại dịch vụ ngày càng phục vụ tốt cho sản xuất và tiêu
dùng, hàng hóa cung ứng đầy đủ, phong phú về chủng loại đáp
ứng nhu cầu của nhân dân.
- Trong lĩnh vực chính trị:
Phát huy truyền thống của quê hương, trong năm vừa
qua chính quyền địa phương đã quán triệt những chủ trương,
quan điểm của Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy
quyền dân chủ của nhân dân để đưa ra các chính sách đứng
đắn, phù hợp tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục, vận động cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước.
Không những vậy, trong năm 2010 UBND Huyện Vĩnh
Linh còn tiến hành công tác tổ chức, xây dựng chính quyền và
cải cách hành chính.
Công tác thanh tra được tiếp tục đẩy mạnh, bám sát nhiệm
vụ chính trị của huyện.
Năm 2010 đã tiến hành 04 cuộc thanh tra, qua đó phát
hiện kịp thời và kiến nghị xử lý nghiêm túc các trường hợp vi

phạm. Tổng số lượt tiếp công dân trên toàn huyện là 405 người/
400 lượt với nội dung chủ yếu liên quan đến vấn đề đất đai, đền
bù, giải phóng mặt bằng, chế độ, chính sách…
Công tác phòng chống tham nhũng được tiếp tục đẩy
mạnh, nhất là việc tuyên truyền, quán triệt các văn bản của
Đảng, Nhà nước về phòng chống tham nhũng và triển khai các
hoạt động phòng ngừa tham nhũng.
Bên cạnh đó, Mặt trận từ huyện đến cơ sở đã làm tốt
công tác phát huy dân chủ, tăng cường công tác giám sát, phản
19


biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong sạch vựng mạnh.
- Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội:
Trong năm 2010 Mặt trận và đoàn thể các cấp đã phát
huy tốt vai trò trách nhiệm trong công tác vận động đoàn viện,
hội viện và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền vững mạnh; thực hiện tốt vai trò kiểm tra, giám sát
nhằm đảm bảo quyền lợi cho quần chúng nhân dân; tích cực
vận động xã hội cùng chăm lo người nghèo, gia đình chính
sách, thương binh liệt sĩ, thắm tình đoàn kết, tương thân, tương
ái. Nhờ vậy, trong năm 2010 văn hóa – xã hội của huyện đã có
nhiều chuyển biến tích cực, công tác giáo dục đào tạo, nâng cao
chất lượng đội ngũ giáo viên được quan tâm. Công tác chăm
sóc sức khỏe nhân dân, kế hoạch hóa gia đình tiếp tục được duy
trì. Công tác đào tạo nghề cho người lao động được quan tâm,
đặc biệt là người nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số, người
tàn tật. Các chính sách xóa đói giảm nghèo được triển khai thực
hiện có hiệu quả…

2.1.3. Hạn chế
- Trong lĩnh vực kinh tế:
Mặc dù kinh tế huyện nhà đạt kết quả cao, tuy nhiên
nền kinh tế hiện nay vẫn cơ bản là sản xuất nhỏ, phát triển chưa
vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Dân chủ trong kinh
tế còn nhiều vấn đề cần giải quyết ở tất cả các lĩnh vực. Tình
trạng mất dân chủ trong kinh tế, đặc biệt trong quản lý kinh tế
đã trực tiếp đẩy tới tình trạng khiếu kiện của nhân dân diễn ra
kéo dài và phức tạp ở nhiều nơi. Những yếu kém trong quản lý
và sự tác động của nền kinh tế thị trường đã làm gia tăng tệ
tham nhũng và quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
ở mức độ rất nghiêm trọng.
- Trong lĩnh vực chính trị:
Việc chỉ đạo, hướng dẫn và nắm bắt diễn biến tâm tự,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân còn chậm. Chế độ thông
20


tin báo cáo còn thiếu kịp thời dẫn đến một số vụ việc xử lý còn
bị động, lúng túng trong phối kết hợp.
Việc giải quyết khiếu nại ở cơ quan, UBND xã, thị trấn
nhìn chung chưa thực hiện đúng quy trình giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo, phần lớn của các cơ quan, đơn vị giải quyết
bằng biên bản và trả lời bằng văn bản cho công dân.
Một số cơ quan, đơn vị và cán bộ công chức chưa thực
hiện tốt trách nhiệm của mình trên các lĩnh vực, phương diện
được giao, còn để xảy ra nhiều sai sót dẫn đến khiếu nại, tố cáo.
Nhiều cơ quan, đơn vị chưa thực hiện nghiêm túc ý kiến
chỉ đạo của UBND huyện nên giải quyết khiếu nại, tố cáo chậm

trễ, đùn đẩy từ đó làm công dân bức xúc, dẫn đến khiếu nại, tố cáo
vượt cấp, gây mất lòng tin của nhân dân với Đảng, chính quyền.
- Trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
Việc thực hiện một số chính sách an sinh xã hội còn
chậm. Hệ thống điện nông thôn sau khi bàn giao cho nghành
điện quản lý hiện nay một số nơi xuống cấp trầm trọng.
Một số cơ sở giáo dục ở vùng sâu vùng xa cơ sở vật
chất chưa đảm bảo, cá biệt tại Làng Rào Trường học sinh tiểu
học, mầm non phải học tạm trong nhà làm việc của làng không
phù hợp với yêu cầu dạy và học, gây bức xúc cho người dân.
Trộm cắp tài sản của công dân còn diễn ra nhiều ở địa
phương gây lo ngại trong nhân dân, cuối năm còn xảy ra một số
vụ trọng án, dư luận xã hội bức xúc.
Cải cách hành chính và giải quyết công việc đối với công
dân của một số cán bộ công chức xã thị trấn, phòng ban còn
chậm.
Công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân
tham gia học tập các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, kể cả các hội nghị tiếp xúc cử tri tỷ lệ cử tri
tham gia đạt thấp, do đó việc phát huy vai trò, tác dụng to lớn
của người dân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền còn hạn chế nhiều mặt.
Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong
21


nhân dân nhiều mặt còn hạn chế dẫn đến tình trạng công dân vi
phạm pháp luật, hiểu sai Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở nên
vẫn còn có đơn thư khiếu nại , khiếu kiện kéo dài.
Việc tổ chức ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở một

số khu dân cư còn đơn điệu, công tác tổ chức còn thiếu chặt
chẽ, thiếu chu đáo, số lượng nhân dân tham gia còn ít, do đó tác
dụng, hiệu quả còn thấp, chưa tạo ra được không khi dân chủ
rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
2.1.3 Sự cần thiết phải vận dụng triết lý dân chủ của
Hồ Chí Minh trong đời sống hiện nay ở huyện Vĩnh Linh
tỉnh Quảng Tri.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc xây
dựng quê hương, nhằm đảm bảo quyền dân chủ của người dân
trong huyện, thì vẫn còn đó tình trạng mất dân chủ trầm trọng.
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh
vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ còn mang tính hình
thức, có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn
kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.
Chính vì vậy, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế
phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh
thấp… Nguồn lực phát triển chưa được khai thác hợp lý. Năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở còn hạn
chế.
Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi
trường chậm được khắc phục. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức lối sống chưa
được ngăn chặn đẩy lùi.
Nhằm đạt được những chỉ tiêu đã đặt ra trong năm
2011, thiết nghĩ việc quan trọng đầu tiên để xây dựng những
mục tiêu của huyện là phải xây dựng một nền dân chủ rộng rãi.
Bởi vì chỉ có dân chủ, thông qua dân chủ sẽ phát huy hơn nữa
quyền làm chủ, đảm bảo lợi ích của nhân dân, vai trò giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức trên địa bàn

22


huyện. Luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, tạo ra sức mạnh to lớn, góp phần quyết định vào sự thành
công của huyện nhà. Phát huy dân chủ nhằm tạo ra sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân, đó là nền tảng cho quá trình xây dựng và
phát triển quê hương.
Để phát huy dân chủ rộng rãi, phát huy tối đa quyền và
lợi ích của quần chúng nhân dân thì cần phụ thuộc vào việc vận
dụng sáng tạo triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh vào điều kiện
cụ thể ở địa phương hiện nay.
2.2 Nội dung cơ bản của sự vận dụng triết lý dân chủ
của Hồ Chí Minh vào xây dựng đời sống dân chủ hiện nay ở
huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Tri
2.2.1 Xây dựng nền dân chủ trong lĩnh vực chính tri
Sự vận dụng triết lý dân chủ của Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng nền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của huyện
Vĩnh Linh được thể hiện cụ thể như sau:
- Xây dựng chính quyền và thực thi pháp luật
Nhằm đạt kết quả cao trong quá trình thực hiện thì BCH
Đảng bộ huyện, UBND huyện cũng đã đề ra những biện pháp
cụ thể như sau:
Thư nhất, thực hiện tốt công tác tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng cường đối thoại, xử lý kịp thời,
dứt điểm các vụ việc từ cơ sở, không để tồn đọng kéo dài gây
bức xúc, tạo động lực thúc đẩy và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, xây dựng xã hội văn minh, lành mạnh.
Thứ hai, tổ chức tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật, trợ giúp pháp lý nhằm phát huy tối đa quyền lợi của quần

chúng nhân dân.
Thứ ba, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm
tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của UBND. Tiếp
tục đổi mới và hoàn thiện thể chế, tổ chức và phương thức kiểm
tra, giám sát kết hợp sự kiểm tra giám sát của nhân dân, của các
cơ quan thông tin đại chúng và của dư luận xã hội...
23


Thứ tư, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ về: tổ
chức thực hiện quy định về công khai, minh bạch trong hoạt
động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức.
Thứ năm, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công
chức. Coi đây là một yêu cầu cấp bách và không thể thiếu đối
với sự nghiệp xây dựng quê hương. Mọi chủ trương, chính sách
của BCH Đảng bộ huyện, UBND huyện đều phải vì dân, chính
quyền từ huyện đến xã, thị trấn đều phải thực sự gương mẫu,
thực sự trong sạch, vững mạnh.
- Nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở xã, thị
trấn
Thứ nhất, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng
tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Xây dựng quy
chế phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ,
chi bộ ở cơ sở.
Thứ hai, thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức
của hệ thống chính trị theo nguyên tắc tập trung dân
chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực
hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện,
quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức
và cán bộ ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát

huy quyền dân chủ đi liền với củng cố, nâng cao kỷ luật, kỷ
cương theo pháp luật.
Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nhận thức rõ được điều đó, Đảng bộ huyện đã tích cực
cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
(khóa X) về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, mở rộng dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của Đảng, nhất là bàn và quyết định các chủ trương,
24


nghị quyết, các quyết định của cấp ủy. Thực hiện cơ chế lãnh
đạo tập thể đi đôi với phát huy trách nhiệm cá nhân, nhất là
người đứng đầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối
với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, bảo đảm các nguyên
tắc, nội dung và cơ chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ
quan trong hệ thống chính trị, đồng thời phát huy tốt vai trò của
chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể.
- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của mặt
trận, các đoàn thể, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Tiếp tục quán triệt, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết
Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo gắn với tích
cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao chất

lượng công tác của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng,
hướng mạnh về cơ sở, sâu sát nhân dân, đem lại lợi ích thiết
thực cho nhân dân. Tổ chức cho đoàn viên, hội viên làm nòng
cốt trong các phong trào hành động cách mạng của quần chúng
nhân dân, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra.
Phát huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt của Mặt trận tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, đẩy mạnh các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động.
Phát huy dân chủ, thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Mở rộng, đa dạng hoá thông tin, nâng cao chất
lượng thông tin để thực hiện dân biết làm cơ sở cho dân bàn
bạc xây dựng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
và thực hiện quyền làm chủ của mình ở địa phương, cơ sở.
2.2.2 Xây dựng nền dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Xây dựng một nền kinh tế đa dạng về các hình thức
sở hữu và các thành phần kinh tế, được lãnh đạo, được định
hướng bởi thành phần kinh tế Nhà nước với cơ cấu hợp lý, phát
huy lực lượng của toàn dân trong tổ chức, quản lý sản xuất và
25


×