Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.99 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG THỊ THU HƯƠNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA GẮN KẾT XÃ HỘI VÀ HÀNH VI
RỦI RO CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

(Khảo sát tại Hà Nội)

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
Mã số: 62 31 03 01

Hà Nội - 2017


Luận án được hoàn thành tại

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Nguyễn Quý Thanh
2. PGS.TS. Trần Thị Minh Ngọc
Phản biện 1: .....................................................................
.....................................................................

Phản biện 2: .....................................................................
.....................................................................

Phản biện 3: .....................................................................
.....................................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh



Vào hồi......giờ......ngày......tháng.......năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia

và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở mỗi giai đoạn khác nhau của vòng đời, con người có thể phải đối mặt nguy cơ
tiềm ẩn của rất nhiều những hành vi rủi ro (HVRR) rất khác nhau. Hành vi rủi ro là
những hành vi có thể gây ảnh hưởng trước mắt hoặc lâu dài đến sức khoẻ thể chất,
tinh thần, các cơ hội cuộc sống hay các ảnh hưởng xã hội khác cho cá nhân, cộng
đồng. Đây là vấn đề rất đáng quan tâm ở lứa tuổi vị thành niên (VTN) vì các bằng
chứng từ nhiều nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy VTN là giai đoạn phải đối mặt
với nhiều rủi ro sức khoẻ và sự phát triển. Thực tế ở rất nhiều các quốc gia trên thế
giới, VTN đang gặp phải một cuộc khủng hoảng của thực trạng có nhiều hành vi rủi
ro. Thực trạng này đã đặt xã hội đứng trước các thách thức, gánh nặng và những bất
ổn về kinh tế, các vấn đề xã hội, đặt cá nhân vào những rủi ro, nguy cơ bệnh tật, chi
phí chữa trị và cả những nguy cơ tử vong từ những nguyên nhân hoàn toàn có thể
phòng tránh được.
Tại Việt Nam, VTN chiếm khoảng 30% dân số và họ là thế hệ kế cận, nguồn lực
lao động và xây dựng đất nước trong tương lai. Đặt trong bối cảnh của sự hội nhập,
phát triển, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và sự biến đổi nhanh chóng của xã
hội, của thiết chế gia đình hiện nay, VTN Việt Nam có thể đã, đang và sẽ đối mặt với
nhiều hành vi rủi ro khác nhau. Các nghiên cứu VTN Việt Nam cho thấy VTN giai

đoạn cuối đang có xu hướng có các hành vi rủi ro ngày một phổ biến hơn. Vấn đề đặt
ra đối với riêng nhóm học sinh trung học phổ thông (THPT) - nhóm đối tượng dành
phần lớn thời gian sống, học tập và sinh hoạt trong môi trường gia đình và nhà
trường, chịu sự tác động và quản lý của gia đình và nhà trường, vậy họ có liên quan
đến các hành vi rủi ro không? Sống trong môi trường gia đình, nhà trường cũng các
mối quan hệ xã hội khác, vậy đặc điểm và mức độ gắn kết của học sinh với các môi
trường đó có ảnh hưởng như thế nào đến nguy cơ có các hành vi rủi ro (HVRR) ở học
sinh? Thực tế, vấn đề này chưa được quan tâm, nghiên cứu nhiều cả ở góc độ lý luận
và thực tiễn tại Việt Nam, đặc biệt từ hướng nghiên cứu xã hội học.
Từ những vấn đề cấp thiết đặt ra và từ nhu cầu nhận thức lý luận và thực tiễn
như đã đề cập ở trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu “Mối quan hệ giữa gắn kết xã hội
và hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông” với mục đích tiếp cận, phân
tích nhằm bổ sung thêm các hiểu biết về lý luận và thực tiễn từ hướng tiếp cận nghiên
cứu xã hội học đối với vấn đề nghiên cứu.

2. Mục đích nghiên cứu, khách thể, phạm vi nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu



2



- Tìm hiểu thực trạng hành vi rủi ro (HVRR) của học sinh THPT trên địa bàn Hà
Nội, cụ thể như: tần suất và mức độ phổ biến của từng HVRR, nhận diện nhóm học
sinh có nguy cơ có từng HVRR cụ thể cũng như có nguy cơ cao có nhiều HVRR.
- Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm gắn kết xã hội của học sinh, trong đó chú
ý đến mối quan hệ gắn kết với gia đình, gắn kết với trường học, gắn kết với các hoạt
động xã hội, mạng xã hội và nguy cơ có các HVRR, từ đó xác định cụ thể các yếu tố

góp phần làm tăng nguy cơ cũng như các yếu tố bảo vệ khả năng có các HVRR ở học
sinh THPT.
- Từ những số liệu thực tiễn, nghiên cứu hướng tới việc phát triển và làm giàu
thêm các lý thuyết, cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và HVRR của
học sinh THPT. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đưa ra những gợi ý về giải pháp thực
tiễn góp phần quản lý, giám sát có hiệu quả HVRR của học sinh THPT Hà Nội.
2.2. Khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu chính: Học sinh THPT: bao gồm nam và nữ học sinh
THPT tại các trường được chọn vào mẫu nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội.
Ngoài ra nghiên cứu chọn bổ sung thêm 2 nhóm tham gia phỏng vấn sâu: Phụ
huynh học sinh và giáo viên, đại diện ban giám hiệu tại các trường THPT
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Các quận nội thành thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2015 – 2016.

3. Khung nghiên cứu, biến số nghiên cứu
3.1. Biến số
Biến số độc lập: Có 2 nhóm biến số độc lập:
- Các mối quan hệ gắn kết xã hội của học sinh, cụ thể nghiên cứu giới hạn tìm
hiểu 3 nhóm gắn kết cơ bản đối với học sinh bậc THPT:
• Gắn kết gia đình
• Gắn kết học sinh với nhà trường, thầy cô, bạn bè
• Gắn kết với các hoạt động xã hội và mạng xã hội.
- Đặc điểm nhân khẩu học (NKH) cá nhân (giới tính, khối học, học lực), đặc
điểm kinh tế - xã hội gia đình và đặc điểm trường học
Biến số phụ thuộc: HVRR của học sinh THPT Hà Nội.
Nghiên cứu tìm hiểu 4 nhóm HVRR, bao gồm 18 HVRR cụ thể.
Các hành vi rủi ro của học sinh được nghiên cứu, tìm hiểu ở 2 khía cạnh cụ thể:
- Thực trạng có nhiều hành vi rủi ro.
- Tần suất, mức độ phổ biến của từng hành vi rủi ro cụ thể




3



3.2. Khung phân tích mối quan hệ giữa các biến số
Hình dưới đây mô tả khung phân tích thể hiện mối quan hệ giữa các biến số
được phân tích cụ thể trong luận án.

Hình 1: Khung nghiên cứu

4.3. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu
4.3.1. Câu hỏi nghiên cứu:
- Hành vi rủi ro (HVRR) của học sinh THPT tại Hà Nội được biểu hiện cụ thể ở
tần suất, mức độ như thế nào? Học sinh THPT Hà Nội có đang đối mặt với nguy cơ
có nhiều HVRR không và những nhóm học sinh nào có nguy cơ cao có nhiều
HVRR?
- Mối quan hệ gắn kết xã hội trong gia đình, trường học, gắn kết với thầy cô, bạn
bè của học sinh hiện nay như thế nào? Học sinh có những mối quan hệ gắn kết xã hội
khác như gắn kết với các hoạt động xã hội và mạng xã hội ở tần suất và mức độ như
thế nào?
- Các mối quan hệ gắn kết xã hội, cụ thể là gắn kết với gia đình, nhà trường, các
gắn kết xã hội khác với có mối quan hệ như thế nào với HVRR của học sinh THPT
tại Hà Nội? Những mối quan gắn kết xã hội nào hệ góp phần bảo vệ nguy cơ có các




4




HVRR của học sinh và những gắn kết xã hội nào góp phần làm tăng nguy cơ HVRR
ở học sinh?
4.3.2. Giả thuyết nghiên cứu:
- Những học sinh có mối quan hệ tốt với các thành viên trong gia đình, gắn kết
bền chặt với gia đình, thường xuyên nhận được sự hỗ trợ tinh thần từ gia đình thường
ít liên quan đến HVRR hơn so với những nhóm học sinh có mối quan hệ gắn kết lỏng
lẻo với gia đình.
- Học sinh có mối quan hệ gắn kết bền chặt với nhà trường, không cảm giác cô
đơn tách biệt tại trường học thường ít liên quan đến các hành vi gây bạo lực với bạn
bè và tự gây bạo lực với bản thân (có ý định tự tử, cố gắng tự tử) so với học sinh có
gắn kết lỏng lẻo hơn với trường học.
- Những học sinh sống trong gia đình có người thân có liên quan đến nhiều
HVRR, chơi với bạn bè có nhiều HVRR thường sẽ có nguy cơ có nhiều HVRR hơn
những những học sinh khác.
- Học sinh ít tham gia các hoạt động xã hội và dành quá nhiều thời gian trong
ngày sử dụng mạng xã hội có nguy cơ có nhiều HVRR hơn so với nhóm học sinh
không đi làm thêm và dành ít thời gian sử dụng mạng xã hội
5. Phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận chung nhất được vận dụng là phương pháp luận Macxit (chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử).
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin:
- Phương pháp định lượng: điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi có sẵn: Nghiên cứu
sử dụng phương pháp điều tra xã hội học thông qua công cụ nghiên cứu là bảng hỏi
nhằm thu thập thông tin thông qua các câu hỏi được cụ thể hoá từ các biến số và chỉ
báo nghiên cứu. Số liệu thu được giúp nhà nghiên cứu phân tích tần suất, tương quan,

hồi quy đơn biến, đa biến nhằm trả lời câu hỏi về mối quan hệ giữa gắn kết xã hội
trong gia đình, trường học và các hoạt động xã hội khác với nguy cơ có các HVRR
của học sinh. Mẫu nghiên cứu: 1333 học sinh.
- Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu đối với học sinh chủ yếu tập trung vào ý
kiến của những học sinh có nhiều HVRR và giáo viên, lãnh đạo trường và phụ huynh
học sinh nhằm tìm hiểu về những chia sẻ, kinh nghiệm tạo dựng gắn kết với học sinh
và ý nghĩa của nó trong việc quản lý HVRR của học sinh.




5



Phương pháp chọn mẫu:
- Chọn mẫu định lượng
Mẫu được chọn theo nhiều giai đoạn, với hơn 1300 học sinh từ 3 quận nội thành
Hà Nội, gồm Hoàn Kiếm, Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm, được chọn vào mẫu nghiên cứu.
- Chọn mẫu định tính: phỏng vấn 15 học sinh THPT, 8 phụ huynh học sinh và
giáo viên, đại diện lãnh đạo các trường: 15 đại diện.

6. Đóng góp mới về khoa học:
Phát triển hướng tiếp cận nghiên cứu từ góc độ xã hội học, tìm hiểu các yếu tố xã
hội có mối quan hệ với nguy cơ có nhiều HVRR của học sinh THPT. Trong quá trình
phát triển khung nghiên cứu theo hướng nói trên, nghiên cứu cũng mở ra những khám
phá và đóng góp mới về các khía cạnh sau:
- Phát triển hướng nghiên cứu về gắn kết xã hội và vai trò, tác động của các mối
quan hệ gắn kết xã hội đến các cá nhân trong nhóm, cộng đồng. Đây là hướng tiếp
cận nghiên cứu còn ít được quan tâm tại Việt Nam, đặc biệt từ tiếp cận nghiên cứu xã

hội học.
- Vận dụng có kế thừa và phát triển khung phân tích về mối quan hệ giữa gắn kết
xã hội và hành vi con người trong xã hội, trong đó vấn đề được lựa chọn phân tích là
HVRR của học sinh THPT, một trong các vấn đề cần được ưu tiên quan tâm ở VTN.
Cụ thể:
+) Phát triển khái niệm gắn kết xã hội, trong đó đặc biệt là gắn kết gia đình và
gắn kết nhà trường, gắn kết với các hoạt động xã hội và môi trường mạng xã hội
thông qua xây dựng các chỉ báo cụ thể của khái niệm gắn kết xã hội trong từng môi
trường xã hội trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quan điểm của các học giả đi trước.
+) Kế thừa và phát triển có chọn lọc lý thuyết gắn kết xã hội từ hướng nghiên
cứu xã hội học, từ đó xây dựng khung nghiên cứu và phân tích về mối quan hệ giữa
gắn kết xã hội và HVRR của học sinh THPT.
- Nghiên cứu góp phần bổ sung thêm các hiểu biết về thực trạng gắn kết xã hội
và hành vi rủi ro của học sinh THPT cũng như mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và
hành vi rủi ro từ hướng tiếp cận xã hội học. Bằng chứng từ nghiên cứu sẽ góp phần
trả lời cho câu hỏi về gắn kết xã hội có vai trò hay mối quan hệ như thế nào đến các
thành viên trong nhóm, cộng đồng và xã hội nói chung? Những gắn kết xã hội nào
làm tăng những ảnh hưởng tích cực, bảo vệ nguy cơ có các HVRR và những gắn kết
xã hội nào là yếu tố làm tăng nguy cơ có các HVRR của đối tượng lựa chọn nghiên
cứu là học sinh THPT.



6



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Hướng nghiên cứu tìm hiểu thực trang hành vi rủi ro
Luận án điểm luận các nghiên cứu đáng chú ý đã khai thác, phân thích thông tin

theo hướng nghiên cứu này, trong đó có đề cập đến các nghiên cứu được tiến hành từ
các quốc gia phát triển như Mỹ, Úc và các nước đang phát triển thuộc khu vực châu Á
như Lào, Thái Lan cũng như các nghiên cứu đáng chú ý tại Việt Nam. Ở nội dung này,
một số đóng góp chính từ các nghiên cứu đã được đúc kết, tổng hợp như sau:
- Các nghiên cứu góp phần chọn lọc danh sách các HVRR cần quan tâm đối với lứa
tuổi VTN nói chung và đối với riêng nhóm học sinh THPT. Đồng thời xác định cách
thức đánh giá mức độ nguy cơ của các HVRR: trong đó không chỉ chú ý đến thực trạng
cũng như thời điểm bắt đầu, tần suất, mức độ của hành vi.
- Học sinh THPT là một trong những nhóm có nguy cơ cao đối với các HVRR và
được quan tâm chú ý nghiên cứu ở nhiều quốc gia: bằng chứng nghiên cứu từ các quốc
gia cho thấy đây là nhóm có nguy cơ cao đối với các HVRR, thậm chí một số quốc gia
đã xây dựng các chương trình giám sát định kỳ về nguy cơ các HVRR của học sinh
THPT. Tuy nhiên đây là vấn đề chưa có nhiều các nghiên cứu phổ biến và có quy mô tại
Việt Nam, đặc biệt đối với học sinh THPT.
- Thực trạng có nhiều HVRR ở học sinh THPT tóm lược tại một số quốc gia.
1.2. Hướng nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa gắn kết xã hội và hành vi rủi ro
1.2.1. Hướng nghiên cứu tìm hiểu thực trạng gắn kết xã hội và hành vi rủi ro
Ở hướng nghiên cứu này, gắn kết xã hội chủ yếu được thao tác ở cấp độ đơn giản
như có hay không có tồn tại mối quan hệ gắn kết xã hội và mối quan hệ của nó với các
HVRR của học sinh. Cụ thể như đối với gắn kết gia đình, một số các nghiên cứu đề cập
đến gắn kết ở dạng đơn giản như: tình trạng hôn nhân của bố & mẹ: sống chung hay ly
thân/ly hôn, gia đình đầy đủ hay khuyết thiếu hay ảnh hưởng của tình trạng hôn nhân đối
với nguy cơ có HVRR của những đứa trẻ. Hoặc đối với gắn kết nhà trường, các nghiên
cứu dừng lại ở việc xem xét hiện có đi học hay đã bỏ học, có hay không gắn kết với
trường học và nguy cơ có các HVRR. Một số phát hiện chính từ hướng nghiên cứu này
cho thấy tình trạng của các mối quan hệ gắn kết gia đình, thể hiện như được sống trong
môi trường gia đình, tình trạng hôn nhân của bố mẹ, việc tiếp tục duy trì việc đi học,
mối quan hệ với trường học, bạn bè là yếu tố góp phần làm giảm nguy cơ các HVRR
của học sinh THPT hay VTN nói chung.
1.2.2. Hướng nghiên cứu tìm hiểu mức độ gắn kết xã hội và hành vi rủi ro

Ở hướng nghiên cứu này, khái niệm gắn kết không đơn giản dừng lại ở việc xem
xét có tồn tại hay không tồn tại mối quan hệ gắn kết mà tập trung tìm hiểu các chỉ báo đa



7



chiều cạnh của khái niệm gắn kết. Hay nói cách khác, khái niệm "gắn kết" được xem
như một chỉ số tổng hợp của nhiều chỉ số thành phần thể hiện nội hàm của khái niệm,
hay cụ thể hơn là đánh giá mức độ gắn gắn kết bền chặt hay lỏng lẻo của VTN nói
chung và học sinh THPT nói riêng có mối quan hệ như thế nào với HVRR. Chỉ báo "gắn
kết" đã được các nghiên cứu đi trước đánh giá ở rất nhiều các chiều cạnh, trong đó một
số các chiều cạnh cơ bản được các nghiên cứu đề cập tới như:
- Xây dựng thang đo tính điểm nhằm đánh giá mức độ gắn kết
- Gắn kết không chỉ dừng lại ở việc đánh giá mức độ quan tâm, mà còn được thao
tác ở các chỉ báo về mức độ cảm nhận thuộc về mối quan hệ đó, mức độ giám sát, ngăn
cản đối với những HVRR từ phía gia đình và nhà trường.
- Ảnh hưởng tích cực, tiêu cực từ gia đình, nhà trường, bạn bè đến HVRR của VNT
- được một số các nghiên cứu phân tích như là một chỉ báo về hệ quả của gắn kết học
sinh trong các môi trường gia đình và nhà trường.
Phát triển khái niệm và các chỉ báo “gắn kết” ở mức độ cụ thể nhất, có lẽ phải kể
đến tác giả Berkman và cộng sự. Đóng góp của bà và các cộng sự thể hiện ở chỗ: ông
không chỉ đơn thuần quan tâm đến đặc điểm gắn kết bền chặt hay lỏng lẻo, mà quan tâm
đến con đường, cơ chế, các đặc trưng gắn kết xã hội khác nhau tạo ra ảnh hưởng đến
hành vi sức khoẻ. Berkman và các cộng sự đã đưa ra 4 cơ chế, con đường cơ bản mà gắn
kết xã hội có thể ảnh hưởng đến hành vi sức khoẻ, ba gồm: (1) gắn kết tạo ra các hỗ trợ
xã hội; (2) gắn kết tạo ra các ảnh hưởng xã hội; (3): gắn kết tạo ra cơ hội tham gia, thắt
chặt mối quan hệ; (4) gắn kết tạo cơ hội tiếp cận nguồn lực và vật chất. Quan điểm của

tác giả Berkman và các cộng sự đã gợi mở cho luận án hướng nghiên cứu sâu hơn về
gắn kết xã hội và HVRR của học sinh THPT, đặc biệt là thao tác khái niệm gắn kết gia
đình.
1.2.3. Hướng nghiên cứu tìm hiểu ảnh hưởng từ gắn kết với người thân và bạn
bè đến nguy cơ có các hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông.
Có rất nhiều những lý thuyết xã hội học đã khái quát hoá ảnh hưởng của môi
trường sống đến HVRR của học sinh, ví dụ như lý thuyết học hỏi xã hội hay lý thuyết xã
hội hoá cũng có đề cập đến ảnh hưởng quan trọng của môi trường gia đình và nhà
trường đến các khuôn mẫu hành vi của học sinh, con em trong gia đình. Trong khung
nghiên cứu mối quan hệ giữa gắn cá nhân với mạng lưới xã hội, kết cấu xã hội, Berkman
và cộng sự cũng đã đề cập đến sự ảnh hưởng lẫn nhau của mối quan hệ gắn kết xã hội,
trong đó có thể bao gồm cả ảnh hưởng tích cực và không tích cực từ những người có
mối quan hệ thân thiết. Các phát hiện từ hướng nghiên cứu này cho thấy rất rõ học sinh
sống trong môi trường gia đình có người thân có các HVRR, có nhiều bạn bè thân có



8



các HVRR có xu hướng có HVRR cao hơn những học sinh khác.
Phân tích tổng quan cho thấy trên thế giới cũng như Việt Nam thực trạng HVRR
của VTN nói chung và học sinh THPT nói riêng là vấn đề đáng đáng quan tâm, cần có
những nghiên cứu toàn diện hướng tới những giải pháp góp phần giúp thế hệ tương lai
của đất nước có một cuộc sống khoẻ mạnh về thể chất, tinh thần.

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Gắn kết xã hội

Từ việc phân tích các quan điểm của một số các nhà nghiên cứu về các khái
niệm có liên quan (quan hệ xã hội, hội nhập xã hội, ràng buộc xã hội) và khái niệm
gắn kết xã hội theo quan điểm của Newcomb (1990), Hagerty và cộng sự (1993),
Timpone (1998), Lee và Robbins (2000), nghiên cứu tổng hợp một số nội hàm chính
của khái niệm gắn kết xã hội được vận dụng trong nghiên cứu như sau:
- Gắn kết xã hội không chỉ bao gồm cả gắn kết theo chiều rộng hay chỉ đề cập
đến mặt lượng, đến tần suất gắn kết mà khía cạnh quan trọng của gắn kết chính là
mối quan hệ theo chiều sâu, chất lượng của mối quan hệ.
- Gắn kết không phải đơn thuần thể hiện thông qua các mối quan hệ rời rạc mà
nó phải tạo cho chủ thể có được cảm giác được thuộc về môi trường đó, cá nhân được
tham gia chủ động vào hoạt động, được thừa nhận, có được cảm giác gắn bó chặt chẽ,
thân mật, được đồng hành cùng các thành viên khác trong môi trường gắn kết đó. Nó
liên quan cả đến khái niệm "được tính đến" (inclussion) và không bị loại trừ
(exclussion) trong nhóm, mạng lưới, cộng đồng.
- Bên cạnh đó, khi nhắc đến gắn kết xã hội thường đề cập đến các hệ quả cá nhân
có được từ sự gắn kết đó, trong đó có thể bao gồm cả tích cực và tiêu cực.
- Một số hệ quả của việc không tạo dựng được các gắn kết xã hội bao gồm: sự
tách biệt xã hội, không có cảm giác thuộc về nơi nào (mất phương hướng) hay không
có mục đích sống. Đây có thể xem như chỉ báo về gắn kết hay không gắn kết.
2.1.2. Hành vi rủi ro
Các khái niệm như "rủi ro", "hành vi rủi ro", "hành vi rủi ro cho sức khoẻ", một
số điểm thống nhất đưa ra như sau: hành vi rủi ro là những hành vi mà chủ thể thực
hiện hoặc có liên quan ở một tần suất hay mức độ có nguy cơ ảnh hưởng đến bản
thân, gây ảnh hưởng đến bản thân như ảnh hưởng về sức khoẻ thể chất, tinh thần, sự
phát triển



9




Đối với đối tượng và học sinh THPT, luận án giới hạn nghiên cứu 4 nhóm
HVRR với 18 hành vi cụ thể: Hút thuốc lá, uống bia/rượu, hút shisha, sử dụng ma
tuý, sử dụng thuốc/chất gây ảo giác. Các loại hành vi gây bạo lực cho bạn bè: bao lực
thể chất (đánh nhau), bạo lực tinh thần (bắt nạt, doạ nạt trực tiếp và bắt nạt, xúc
phạm, đe doạ (gián tiếp) trên mạng xã hội, tin nhắn). Hành vi tự gây bạo lực cho bản
thân: Tự gây thương tích cho bản thân, có ý định tự tử; cố gắng tự tử. Hành vi tham
gia giao thông không an toàn, bao gồm 7 hành vi cụ thể: không đội mũ bảo hiểm; lưu
thông trên xe chở quá số người quy định; phóng nhanh/vượt ẩu/vượt đèn đỏ/đi sai làn
đường; vi phạm luật giao thông bị công an nhắc nhở/xử phạt; tự điều khiển xe máy;
đua xe.
2.2. Cơ sở lý luận và các lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu
Nghiên cứu vận dụng trực tiếp quan điểm và mô hình lý thuyết của Lisa
Berkman và cộng sự bàn về sự hội nhập xã hội, gắn kết xã hội và hành vi sức
khoẻ. Mô hình lý thuyết của các tác giả được kế thừa và phát triển từ ý tưởng của
Durkheim về mối quan hệ giữa hội nhập xã hội, gắn kết xã hội và hành vi tự tử
cùng với lý thuyết của Bowlby về vai trò quan trọng của gắn kết gia đình - điểm
tựa an toàn đối với sự phát triển của những đứa trẻ trong gia đình. Trên cơ sở
những ý tưởng từ hai lý thuyết này, Berkman và cộng sự đã phát triển một khung
lý thuyết phân tích mối quan hệ giữa ảnh hưởng từ sự hội nhập vào cấu trúc xã
hội, mạng lưới xã hội đến hành vi sức khoẻ, trong đó bao gồm: hội nhập, gắn kết
xã hội tạo ra cơ hội có được các hỗ trợ, tạo ảnh hưởng xã hội, tạo cơ hội có được
sự tham gia, được tiếp xúc trực tiếp, được tiếp cận với các nguồn lực, từ đó ảnh
hưởng đến hành vi. Trên cơ sở kế thừa khung nghiên cứu của Lisa Berkman và
cộng sự, nội hàm khái niệm gắn kết và các chỉ báo đánh giá mối quan hệ giữa gắn
kết xã hội đối với HVRR của học sinh THPT đã được kế thừa, phát triển phù hợp
đối với khách thể nghiên cứu là học sinh THPT và bối cảnh văn hoá Việt Nam.
Bên cạnh khung phân tích của Lisa Berkman và cộng sự, nghiên cứu cũng vận dung lý
thuyết học hỏi xã hội như một cơ sở lý thuyết góp phần đưa ra những gợi ý về giả thuyết

ảnh hưởng từ môi trường gia đình, nhà trường đến HVRR của học sinh THPT.
Trên cơ sở các lý thuyết và khung nghiên cứu được lựa chọn, vận dụng, kế thừa
và phát triển, nghiên cứu đưa ra khung phân tích được đề xuất sử dụng cho nghiên
cứu trong đó có 3 mối quan hệ gắn kết xã hội cơ bản được giới hạn trong nghiên cứu:
gắn kết trong gia đình, gắn kết nhà trường, gắn kết với các hoạt động xã hội và mạng
xã hội.



10



CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG GẮN KẾT XÃ HỘI VÀ HÀNH VI RỦI RO
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ NỘI
3.1. Đặc điểm gắn kết gia đình, nhà trường và gắn kết xã hội khác.
3.1.1. Gắn kết trong gia đình của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
Đối gắn kết trong gia đình của học sinh THPT, nghiên cứu đề cập:
- Mối quan hệ hôn nhân của bố & mẹ
- Mức độ gắn kết của học sinh với gia đình: đây là chỉ số tổng hợp được đánh giá
thông qua 5 chỉ số thành phần.
- Gắn kết trong gia đình có người thân trong gia đình có các hành vi rủi ro.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 13% học sinh trong mẫu nghiên cứu hiện đang
sống trong các gia đình ly thân/ly hôn, trong đó tỉ lệ học sinh trường ngoài công lập
sống trong gia đình bố mẹ ly thân, ly hôn cao gấp hơn 2 lần so với học sinh trường
công lập (19% so với 8,2%).
Về mức độ gắn kết học sinh với gia đình, điểm số trung bình đánh giá chỉ số
thành phần trong gia đình, học sinh "được bày tỏ ý kiến, được lắng nghe tôn trọng"
có điểm số trung bình thấp nhất (3,35 điểm), tiếp đến là chỉ số thành phần "gia đình

là chỗ dựa tâm lý, tinh thần và không chịu áp lực từ gia đình" (điểm trung bình 3,66
điểm/ 5 điểm). Các chỉ số gắn kết gia đình còn lại như: mối quan hệ gắn kết với các
thành viên, gia đình thường xuyên quan tâm, giám sát và trong gia đình, học sinh
được đối xử công bằng và được tham gia các hoạt động có chỉ số điểm trung bình
đánh giá tương đối ngang bằng nhau (3,9 điểm/5 điểm).
Về đặc điểm gắn kết với người thân trong gia đình có HVRR, kết quả cho thấy
một tỉ lệ đáng kể học sinh sống trong gia đình có người thân có liên quan đến các
HVRR, đáng chú ý là hành vi sử dụng bia/rượu, hút thuốc lá, hành vi giao thông
không an toàn ở mức tương đối phổ biến trong các gia đình tại địa bàn. Ví dụ như có
tới 71% học sinh cho biết gia đình có người thân hút thuốc, 90% cho biết gia đình có
người thân sử dụng bia/rượu, 21% học sinh cho biết gia đình có người thân đã từng
gây gổ, đánh nhau và hơn 7% người thân trong gia đình các em có sử dụng ma
tuý/thuốc gây ảo giác.
3.3.2. Gắn kết với trường học, thầy cô, bạn bè của học sinh trung học phổ thông
Nghiên cứu đề cập đến mức độ gắn kết học sinh với trường học, thầy cô, bạn bè
và thực trạng học sinh gắn kết với bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung có các
HVRR.



11



Bảng 1: Điểm trung bình các chỉ số gắn kết học sinh với nhà trường, thầy cô, bạn bè.
Điểm trung
Các chỉ số thành phần mức độ gắn kết trường học
bình
1. Gắn kết, thuộc về nhà trường
3.66

2. Gắn kết với bạn bè

3.52

3. Gắn kết với thầy cô

3.47

4. Được đối xử công bằng, được tham gia các hoạt động tại trường

3.44

5. Thầy cô là người gương mẫu, thường xuyên giám sát, nhắc nhở
học sinh

3.78

Ở mức độ gắn kết học sinh với nhà trường, thầy cô, bạn bè, nghiên cứu đánh giá
bằng thang điểm với điểm của chỉ số tổng hợp bằng tổng số của điểm số 5 chỉ số
thành phần, để tiện so sánh 5 chỉ số thành phần, điểm trung bình sau khi tính toán
được quy về thang điểm 5 và kết quả điểm số trung bình của từng chỉ số thành phần
được thể hiện ở bảng trên. Bảng số liệu trên cho thấy học sinh đánh giá thấp nhất chỉ
số "được đối xử công bằng, được tham gia vào hoạt động" và "mức độ gắn kết với
thầy cô".
Về gắn kết với bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung có nhiều HVRR, kết quả
nghiên cứu cho thấy học sinh có bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung có các HVRR
là tương đối phổ biến, cụ thể có 53,65 học sinh có bạn thân, bạn trong nhóm chơi
chung có hành vi giao thông không an toàn, tỉ lệ bạn thân có hành vi uống bia/rượu:
51%, hành vi hút thuốc lá/hút shisha: 38%, có hành vi bạo lực: 28,4% và bạn thân,
bạn trong nhóm chơi chung có hành vi sử dụng ma tuý là: 6,6%. Phân tích tổng hợp

cũng cho thấy có 70% học sinh trong mẫu nghiên cứu có bạn thân, bạn trong nhóm
chơi chung có ít nhất 1 HVRR.
3.2.3. Gắn kết với các hoạt động xã hội, mạng xã hội của học sinh trung
học phổ thông
Bên cạnh các mối quan hệ gắn kết trong gia đình và ở trường học, học sinh
còn có các mối quan hệ, gắn kết bên ngoài. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh
tham gia vào câu lạc bộ ngoại khoá là phổ biến nhất (28,1%), tiếp đến là hoạt động
tình nguyện/từ thiện (18,9%), trong đó chỉ có 10,1% học sinh đã từng đi làm thêm.
Tuy nhiên có tới 97,6% học sinh trong mẫu nghiên cứu đã từng sử dụng mạng xã
hội, đặc biệt có tới 31,1% học sinh cho biết thường dành trung bình trên 3
tiếng/ngày sử dụng mạng xã hội, đồng thời 27,2% học sinh trong mẫu nghiên cứu
có trên 1000 bạn bè trên mạng xã hội. Có thể thấy mạng xã hội và bạn bè trên
mạng xã hội trở thành một vấn đề đáng quan tâm ở học sinh THPT Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay



12



3.2. Thực trạng hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
- Thực trạng có nhiều hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông
Nghiên cứu không chỉ hướng tới tìm hiểu từng HVRR cụ thể mà quan tâm tìm
hiểu thực trạng có nhiều HVRR ở học sinh THPT Hà Nội. Phát hiện từ nghiên cứu
cho thấy đây là vấn đề đáng quan tâm. Trung bình một học sinh có 4,88 hành vi trong
tổng số 18 hành vi được nghiên cứu và gần 95% học sinh có ít nhất 1 HVRR.
- Mức độ phổ biến của các hành vi rủi ro.
Bảng số liệu dưới đây thống kê chi tiết tần suất các HVRR cụ thể:
Bảng 2: Tần suất các hành vi rủi ro của học sinh THPT Hà Nội

Số lượng Tỉ lệ
Hành vi rủi ro
(học sinh) (%)
a.Hút thuốc lá, sử dụng bia rượu và các chất gây nghiện
1 Hút thuốc lá (đã từng hút thuốc, thử hút)
21
280
2 Đã từng uống hết 1 cốc bia/ 1 chén rượu
63,5
846
3 Hút shisha
291
21,8
4 Ma tuý
92
6,9
5 Chất/ thuốc gây ảo giác
91
6,8
b. Hành vi gây bạo lực với bạn bè
6 Gây gổ, đánh nhau với bạn trong/ ngoài trường
24
320
7 Bắt nạt, doạ nạt bạn bè trong/ ngoài trường
259
19,4
8 Doạ nạt, uy hiếp bạn trên mạng xã hội, tin nhắn
167
12,5
Có ít nhất 1 trong 3 hành vi gây bạo lực

460
34,5
c. Tự gây thương tích cho bản thân, có ý định tự tử và cố gắng tự tử
9 Chủ động tự gây thương tích cho bản thân
272
20,4
10 Đã từng có ý định tự tử
18,3
244
11 Đã từng cố gắng tự tử
4,8
64
d. Hành vi giao thông không an toàn
12 Không đội mũ bảo hiểm
792
59,4
13 Phóng nhanh/ vượt ẩu/ vượt đèn đỏ/ đi sai làn đường
689
51,7
14 Tự điều khiển xe máy khi tham gia giao thông
670
50,3
15 Tham gia giao thông trên xe chở quá số người quy định
608
45,6
16 Gây va quệt, tai nạn giao thông
483
36,2
17 Vi phạm luật giao thông bị công an nhắc nhở/ phạt
21,6

288
18 Đua xe
93
7
Có ít nhất 1 hành vi giao thông không an toàn
1165
87,4
Kết quả phân tích cho thấy, đối với cả 4 nhóm hành vi được nghiên cứu, học
sinh đều có nguy cơ ở các mức độ đáng chú ý, trong đó hành vi phổ biến nhất là uống
bia/rượu, hành vi giao thông không an toàn, hành vi gây bạo lực. Ngoài ra những
HVRR ở mức cao như sử dụng ma tuý, sử dụng chất/thuốc gây ảo giác, va quệt, gây



13



tai nạn giao thông, đua xe, cố gắng tự tử cũng chiếm một tỉ lệ đáng chú ý ở học sinh
THPT tại địa bàn nghiên cứu
Như vậy phát hiện từ nghiên cứu cho thấy HVRR ở học sinh THPT thực sự là
vấn đề đáng quan tâm không chỉ ở mức độ phổ biến của từng hành vi mà ở cả nguy
cơ có đồng thời nhiều HVRR. Việc tìm ra nguyên nhân, các yếu tố xã hội có mối
quan hệ giải thích cho các HVRR cũng nhưng đưa ra những luận chứng cho các giải
pháp quản lý, giám sát HVRR ở thế hệ tương lai của đất nước là rất cần thiết, góp
phần hướng tới một thế hệ khoẻ mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội.
CHƯƠNG 4
GẮN KẾT VỚI GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG, XÃ HỘI VÀ HÀNH VI RỦI
RO CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ NỘI
4.1. Mối quan hệ giữa gắn kết gia đình và hành vi rủi ro của học sinh trung

học phổ thông Hà Nội.
4.1.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm hôn nhân của cha mẹ và nguy cơ các hành
vi rủi ro ở học sinh trung học phổ thông Hà Nội
Phân tích tương quan so sánh HVRR ở nhóm học sinh bố mẹ hiện sống chung và
bố mẹ hiện đã ly thân/ ly hôn/khác, kết quả phân tích cho thấy học sinh có bố & mẹ
ly thân/ly hôn có nguy cơ có hầu hết các HVRR cao hơn hẳn so với học sinh sống
trong gia đình hiện bố & mẹ sống chung. Sự khác biệt ở nhóm hành vi thứ nhất được
thể hiện ở biểu đồ dưới đây:
Bảng 3: Mối quan hệ giữa hôn nhân của bố & mẹ và HVRR của học sinh (%)
Bố mẹ sống
Bố mẹ ly
Hành vi rủi ro của học sinh
chung
hôn
1. Hút thuốc lá (đã từng hút thuốc, thử hút)
19,7
30,8
2. Đã từng uống hết 1 cốc bia/ 1 chén rượu

62,8

68,8

3. Hút shisha

19,8

34,9

4. Chất gây nghiện (ma tuý)


6,4

10

5. Chất/ thuốc gây ảo giác

5,6

10,5

Đối với hành vi gây bạo lực, sự khác biệt thể hiện rất rõ, trong đó đáng chú ý là
hành vi gây gổ, đánh nhau (37,2% so với 22%) và hành vi bắt nạt trực tiếp (30,2% so
với 17,7%). Đối với hành vi doạ nạt, uy hiếp bạn bè trên mạng xã hội, mặc dù có sự
khác biệt nhưng sự chênh lệch là không lớn so với 2 hành vi bạo lực trực tiếp nói trên
(16,8% so với 11,9%). Bên cạnh đó, học sinh sống trong gia đình ly thân/ly hôn/khác
cũng có tỉ lệ đã từng có ý định tự tử cao hơn (24,4% so với 17,3%) và đặc biệt, có tỉ



14



lệ đã từng cố gắng tự tử gấp hơn 2 lần so với học sinh sống trong gia đình hiện bố mẹ
đang sống chung (8,8% so với 4,2%). Như vậy, có thể thấy rất rõ học sinh trong
nhóm bố mẹ ly thân/ly hôn có nguy cơ cao hơn đối với hầu hết các HVRR được đề
cập trong phân tích đơn biến.
4.1.2. Mối quan hệ giữa mức độ gắn kết với gia đình và hành vi rủi ro của học
sinh trung học phổ thông Hà Nội.

Nghiên cứu phân tích hồi quy đơn biến mối quan hệ giữa chỉ số tổng hợp gắn kết
gia đình với từng HVRR, kết quả về mối quan hệ này được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4: Các mô hình hồi quy đơn biến phân tích mối quan hệ giữa chỉ số tổng hợp
gắn kết gia đình và từng HVRR cụ thể của học sinh THPT (N= 1333)
Sai số
Hành vi
B
Ward
chuẩn
1. Hút thuốc lá (đã từng hút thuốc, thử hút)
-,022***
12,8
,006
2. Đã từng uống hết 1 cốc bia/ 1 chén rượu

,023**

9,8

,007

3. Hút shisha

-,005

,77

,006

4. Chất gây nghiện (ma tuý)


-,015

2,35

,010

5. Chất/ thuốc gây ảo giác

-,018*

2,89

,010

6. Gây gổ, đánh nhau
7. Bắt nạt, doạ nạt bạn bè trong/ ngoài trường
8. Doạ nạt, uy hiếp bạn trên MXH, tin nhắn
9. Chủ động tự gây thương tích cho bản thân

-,023***
-,027***
-,030***
-,036***

14,57
17,31
16,03
32,13


,006
,006
,008
,006

10. Đã từng có ý định tự tử

-,057***

69,08

,007

11. Đã từng cố gắng tự tử
12. Phóng nhanh, vượt ẩu, vượt đèn đỏ, đi
ngược đường …
13. Đua xe
14. Gây va quệt, tai nạn giao thông

-,068***
-,031***

36,0
33,47

,011
,005

-,035***
-,015***


13,11
7,29

,010
,005

15. Ngồi trên xe chở quá số người quy định
16. Tự điều khiển xe máy

-,013**
,014

6,29
,061

,005
,055

,87
1,82

,005
,006

17. Không đội mũ bảo hiểm
-,005
18. Vi phạm luật GT bị công an nhắc nhở/ phạt -,008
(Mức ý nghĩa thống kê: * P<0,1


** P<0,05

*** P<0,001)

Số liệu phân tích bảng trên cho thấy rất rõ, sự khác biệt về mức độ gắn kết gia
đình bền chặt là yếu tố có mối quan hệ rõ ràng nhất với các hành vi: gây bạo lực cho
bạn bè và gây bạo lực cho chính bản thân mình, hút thuốc lá, sử dụng ma tuý cũng
như nhiều hành vi giao thông nguy hiểm như đua xe, gây va quệt, tai nạn giao thông.




15



Gắn kết gia đình bền chặt, thể hiện ở điểm số gắn kết cao là yếu tố bảo vệ đối với các
HVRR nói trên.
4.1.3. Gắn kết với người thân trong gia đình có các hành vi rủi ro và hành vi
rủi ro của học sinh trung học phổ thông Hà Nội.
Kết quả các phân tích đơn biến cho thấy rất rõ mối quan hệ giữa HVRR của
người thân trong gia đình và nguy cơ có các HVRR ở học sinh THPT. Tỉ lệ học sinh
có hút thuốc trong gia đình có người thân hút thuốc là 26,2%, trong khi đó tỉ lệ này ở
học sinh sống trong gia đình không hút thuốc là 8.5%. Học sinh trong gia đình có
người thân có uống bia/rượu cho biết đã từng uống hết 1 cốc bia/chén rượu cao hơn
gần 2 lần so với học sinh trong gia đình không có người thân sử dụng bia rượu
(66,2% so với 38,2%), sự khác biệt đối với học sinh đã từng có hành vi gây bạo lực là
hơn 2 lần (63,3% so với 27,4%). Sự khác biệt rõ nhất là đối với hành vi sử dụng ma
tuý: có 34% học sinh trong gia đình có người thân sử dụng ma tuý cho biết đã từng sử
dụng ma tuý, trong khi đó tỉ lệ này ở học sinh trong gia đình chưa từng sử dụng ma

tuý chỉ chiếm 4,7%.

4.2. Mối quan hệ giữa gắn kết học sinh với nhà trường, thầy cô, bạn bè và
hành vi rủi ro của học sinh THPT Hà Nội.
4.2.1. Mức độ gắn kết giữa học sinh với trường học, thầy cô, bạn bè và hành
vi rủi ro của học sinh THPT Hà Nội
Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy đơn biến với biến độc lập là mức
độ gắn kết học sinh với nhà trường (chỉ số tổng hợp) và biến số phụ thuộc là khả
năng có/không có từng hành vi cụ thể. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ gắn kết
học sinh với trường học, thầy cô, bạn bè không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê
với nhóm HVRR thứ nhất (uống bia/rượu, hút thuốc lá, shisha, sử dụng ma tuý, sử
dụng thuốc/chất gây kích thích, ảo giác). Tuy nhiên, mức độ gắn kết học sinh với
trường học lại có mối quan hệ rất rõ ràng đối với những hành vi gây bạo lực cho bạn
bè, gây bạo lực cho chính bản thân mình.
Đối với các hành vi giao thông không an toàn, gắn kết bền chặt với trường học,
thầy cô, bạn bè có mối quan hệ chặt chẽ và góp phần làm giảm nguy cơ hành vi cụ
thể như: hành vi phóng nhanh, vượt ẩu, vượt đèn đỏ, hành vi không đội mũ bảo hiểm,
gây tai nạn giao thông, chở quá số người quy định.
4.2.2. Gắn kết với bạn bè có nhiều hành vi rủi ro và hành vi rủi ro của học
sinh trung học phổ thông Hà Nội.
Tương tự như gắn kết trong gia đình có người thân liên quan đến HVRR, việc có
nhiều bạn thân có các HVRR là yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nguy cơ có các
HVRR ở học sinh. Về hành vi hút thuốc, có 29,8% học sinh nữ có bạn thân hoặc bạn



16




trong nhóm chơi chung hút thuốc cũng đã từng hút thuốc, trong khi đó tỉ lệ này ở học
sinh nữ không có bạn thân (hoặc bạn trong nhóm chơi chung có hút thuốc) chỉ là
5,1%. Tỉ lệ học sinh nam đã từng hút thuốc có sự chênh lệch đáng kể giữa nhóm có
bạn thân (bạn trong nhóm chơi chung) đã từng và chưa từng hút thuốc (46,5% so với
12,3%).
Tương tự như vậy, tỉ lệ học sinh nam và nữ cho biết đã từng sử dụng chất gây
nghiện, ma tuý ở học sinh có bạn bè cũng có HVRR này cao gấp nhiều lần so với tỉ lệ
này ở học sinh không có bạn thân sử dụng chất gây nghiện: đối với học sinh nam, tỉ
lệ là 36,2% so với 8,1%; đối với học sinh nữ tỉ lệ là 23,3% so với 2,3%. Sự khác biệt
cũng thể hiện rõ ở hành vi uống hết một cốc bia/chén rượu ở học sinh có bạn thân,
bạn trong nhóm chơi chung có/không sử dụng bia/rượu: 60,3% và 80,8% đối với học
sinh nữ và đối với học sinh nam là 72,6% và 91% đối với nam không có và có bạn
thân, bạn trong nhóm chơi chung có uống bia/rượu. Tương tự, học sinh có bạn thân,
bạn trong nhóm chơi chung đã từng có hành vi gây bạo lực cũng có nguy cơ đã từng
liên quan đến các loại hành vi gây bạo lực trong cả 3 hành vi được nghiên cứu cao
hơn đáng kể so với học sinh có bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung có hành vi gây
bạo lực. Tương tự, đối với hành vi giao thông không an toàn, nhóm học sinh có bạn
bè đã từng có hành vi giao thông không an toàn có trung bình số hành vi giao thông
không an toàn là 3,35 hành vi (trên tổng số 7 hành vi), trong khi đó, số hành vi giao
thông không an toàn trung bình của nhóm học sinh cho biết không có bạn bè đã từng
có hành vi giao thông không an toàn thấp hơn rất nhiều, chỉ là 1,8 hành vi trong tổng
số 7 hành vi giao thông không an toàn được nghiên cứu.
4.3. Mối quan hệ giữa gắn kết với các hoạt động xã hội, mạng xã hội và
hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông Hà Nội.
4.3.1. Thực trạng có tham gia vào các hoạt động xã hội và hành vi rủi ro của
học sinh trung học phổ thông tại Hà Nội.
Các phân tích đơn biến cho thấy trong 3 hoạt động xã hội được nghiên cứu, bao
gồm việc có tham gia hoạt động làm thêm ở học sinh THPT là yếu tố có mối quan hệ
rõ ràng nhất với các HVRR, làm tăng nguy cơ có các HVRR ở học sinh THPT: tỉ lệ
học sinh có đi làm thêm đã từng sử dụng ma tuý là 16%, trong khi tỉ lệ này ở học sinh

không đi làm thêm là 5,8%, sự khác biệt ở hành vi hút thuốc lá là 34,7% so với
19,7%, hành vi hút shisha: 46% so với 19,2%, sử dụng chất gây ảo giác là 9,3% so
với 5,5%. Đối với hành vi gây bạo lực, sự khác biệt thể hiện đối với từng loại hành vi
được thể hiện cụ thể ở biểu đồ dưới đây, kết quả cho thấy học sinh có đi làm thêm có
xu hướng có cả 3 loại hành vi gây bạo lực cao hơn so với học sinh không đi làm



17



thêm, sự khác biệt rõ nhất thể hiện ở hành vi đánh nhau, gây rối: có 34,4% học sinh
có đi làm thêm đã từng đánh nhau, gây rối, trong khi đó tỉ lệ học sinh không đi làm
thêm đã từng đánh nhau, gây rối chỉ là 22,7%.
4.3.2. Mối quan hệ giữa mức độ gắn kết với mạng xã hội và hành vi rủi ro của
học sinh trung học phổ thông tại Hà Nội.
Kết quả phân tích đơn biến cho thấy mức độ gắn kết với mạng xã hội, thể hiện ở
thời gian trung bình sử dụng mạng xã hội mỗi ngày và số lượng bạn bè trên mạng xã
hội có mối quan hệ chặt chẽ đối với các HVRR và là yếu tố làm tăng nguy cơ có các
HVRR. Đối với HVRR ở nhóm 1, nhóm học sinh sử dụng mạng xã hội trên 3 tiếng 1
ngày và có trên 1000 bạn trên mạng xã hội có tỉ lệ có cả 5 HVRR cao hơn so với học
sinh dành ít hơn 3 tiếng/ngày và có ít hơn 1000 bạn trên mạng xã hội. Nhóm học sinh
có trên 1000 bạn bè trên mạng xã hội có tỉ lệ hút thuốc lá, hút shisha, sử dụng ma tuý,
sử dụng thuốc/chất gây ảo giác gấp khoảng 2 lần so với học sinh có dưới 1000 bạn bè
trên mạng xã hội. Bên cạnh đó, gắn kết ở mức lạm dụng đối với mạng xã hội cũng có
mối quan hệ chặt chẽ đối với hành vi gây bạo lực, trong đó đáng chú ý là tỉ lệ học
sinh trong nhóm sử dụng mạng xã hội trung bình trên 3 tiếng/ngày có hành vi gây bạo
lực gấp 2 lần hoặc gần gấp 2 lần ở 3 loại hành vi gây bạo lực: uy hiếp, bôi nhọ qua
mạng xã hội: 19,3% so với 9,5%; bắt nạt, doạ nạt bạn bè: 29,8% so với 14,7%; đánh

nhau: 33,8% so với 19,7%. Tỉ lệ học sinh có ít hơn 1000 bạn trên mạng xã hội đã
từng tham gia gây rối, đánh nhau là 21,6%, trong khi đó tỉ lệ này ở nhóm học sinh có
trên 1000 bạn bè trên mạng xã hội là 29%. Ngoài ra, các phân tích tương quan cũng
cho thấy có tồn tại mối quan hệ giữa tình trạng sử dụng mạng xã hội trên 3 tiếng/
ngày đối với hành vi tự gây thương tích, có ý định tự tử và cố gắng tự tử ở học sinh
THPT. Đối với hành vi giao thông không an toàn, học sinh lạm dụng mạng xã hội và
các mối quan hệ trên mạng xã hội đều là nhóm có nguy cơ cao có nhiều hành vi giao
thông nguy cơ cao hơn so với học sinh khác.
4.4. Phân tích tổng hợp mối quan hệ gắn kết xã hội và hành vi rủi ro của
học sinh trung học phổ thông Hà Nội.
Trong phần này, nghiên cứu sẽ hướng tới đánh giá tổng hợp và đồng thời mối
quan hệ giữa các biến số gắn kết xã hội và thực trạng từng HVRR cũng như thực
trạng có nhiều HVRR của học sinh thông qua phân tích hồi quy đa biến các yếu tố có
khả năng dự đoán thực trạng có nhiều HVRR. Ngoài ra, bên cạnh các các yếu tố dự
đoán là 3 nhóm biến số gắn kết xã hội như đề cập, mô hình hồi quy đã biến sẽ được




18



bổ sung thêm các yếu tố thuộc đặc điểm nhân khẩu học của học sinh, đặc điểm kinh
tế - xã hội gia đình và đặc điểm nhà trường.
4.4.1. Phân tích tổng hợp mối quan hệ giữa gắn kết xã hội với từng hành vi
rủi ro của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
Nghiên cứu sử dụng 11 mô hình hồi quy đa biến logistic đánh giá các yếu tố có
mối quan hệ với từng HVRR cụ thể, riêng 7 hành vi giao thông không an toàn,
nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa biến tuyến tính phân tích các yếu tố có mối

quan hệ với nguy cơ có nhiều hành vi giao thông không an toàn ở học sinh THPT.
Kết quả tổng hợp các yếu tố có mối quan hệ với khả năng có từng HVRR cụ thể và
khả năng có nhiều HVRR được tổng hợp như sau:
- Mối quan hệ giữa đặc điểm gắn kết gia đình, gắn kết nhà trường, gắn kết với
hoạt động xã hội & mạng xã hội và HVRR của học sinh THPT Hà Nội
Gắn kết gia đình: Kết quả phân tích đa biến cho thấy, ngoại trừ việc có nhiều
hành vi giao thông không an toàn thì việc bố mẹ ly hôn hay sống chung không có mối
liên hệ đối với tất cả những HVRR còn lại trong phân tích đa biến. Đây là điểm rất
đáng chú ý, các phân tích tương quan đơn biến về tình trạng hôn nhân của bố mẹ đều
cho thấy nó có mối quan hệ chặt chẽ đối với toàn bộ 18 HVRR của học sinh (phần
4.1.1). Tuy nhiên khi đưa vào mô hình phân tích đa biến, tình trạng hôn nhân của bố
& mẹ đã không còn ý nghĩa giải thích cho hầu hết toàn bộ các HVRR được nghiên
cứu, trừ số loại hành vi giao thông không an toàn mà học sinh có liên quan. Như vậy
có thể thấy trong trường hợp quan hệ giữa bố và mẹ đổ vỡ, nếu họ vẫn duy trì sự
quan tâm, kết nối tốt với con cái, thực hiện các chức năng gia đình cơ bản và các
thành viên trong gia đình vẫn thực sự là tấm gương và không liên quan đến HVRR thì
việc bố mẹ có không sống chung cũng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều đến nguy cơ có
các HVRR ở học sinh.
Về mức độ gắn kết gia đình: phân tích hồi quy đa biến cho thấy vai trò quan
trọng của gắn kết gia đình trong việc bảo vệ HVRR ở học sinh. Có 3 trong số 5 chỉ số
thành phần thuộc chỉ số tổng hợp mức độ gắn kết gia đình có khả năng giải thích một
số các HVRR, trong đó chỉ số thành phần "gia đình là tổ ấm và học sinh có mối quan
hệ tốt với gia đình" là yếu tố nổi bật, có khả năng đóng góp vào làm giảm nguy cơ
của nhiều HVRR như: hành vi sử dụng ma tuý, cả 3 loại hành vi gây bạo lực, có ý
định tự tử và cố gắng tự tử.
Yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ và có khả năng dự đoán nhiều HVRR ở học sinh
THPT chính là thực trạng sống trong gia đình có người thân có nhiều HVRR, và đây
chính là yếu tố nguy cơ cao, có khả năng giải thích rõ ràng cho việc có từng HVRR




19



cụ thể ở học sinh, và mối quan hệ này luôn đạt mức mức ý nghĩa thống kê cao nhất.
Tuy nhiên số loại HVRR của người thân trong gia đình không có mối quan hệ và
không có khả năng giải thích cho hành vi: tự gây thương tích, có ý định tự tử và cố
gắng tự tử.
Gắn kết nhà trường, thầy cô, bạn bè: Gắn kết bền chặt với trường học có mối
quan hệ chặt chẽ đối với các hành vi học sinh gây bạo lực với chính mình: chủ động
tự gây thương tích cho bản thân, có ý định tự tử và cố gắng tự tử. Đây là những hành
vi xảy ra khi học sinh đã trải qua những áp lực và diễn biến tâm lý khá phức tạp, việc
học sinh tạo dựng được kết nối chặt chẽ với bạn bè góp phần làm giảm nguy cơ có
các hành vi nói trên. Tương tự như gắn kết gia đình, trong môi trường trường học,
yếu tố nổi bật có khả năng giải thích cho hầu hết HVRR của học sinh trong khuôn
khổ nghiên cứu chính là số lượng HVRR mà bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung
có. Phân tích hồi quy đa biến đối với từng HVRR cũng cho thấy mối quan hệ rất rõ
ràng giữa số lượng HVRR mà bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung có và nguy cơ có
từng HVRR cụ thể ở học sinh (trừ nhóm hành vi tự gây thương tích, có ý định tự tử
và cố gắng tự tử).
Học sinh gắn kết với các hoạt động xã hội, trong đó bao gồm các hoạt động tình
nguyện/từ thiện, làm thêm, các câu lạc bộ ngoại khoá): kết quả phân tích cho thấy
việc có tham gia vào các câu lạc bộ hay đi làm thêm có mối quan hệ và góp phần làm
tăng nguy cơ một số HVRR như: uống bia/ rượu, hút shisha, thậm chí là hành vi sử
dụng ma tuý, thuốc/chất gây ảo giác. Mặc dù đây là vấn đề mới mẻ, cần nghiên cứu
bổ sung thêm các bằng chứng nhưng nó cũng bước đầu cho thấy việc có thêm một
mối quan hệ bên ngoài gia đình và nhà trường ở học sinh THPT, nếu không có sự
kiểm soát từ chính bản thân học sinh và gia đình sẽ góp phần làm tăng thêm nguy cơ
của một số hành vi có tính rủi ro cao. Một kết quả đáng chú ý khác từ nghiên cứu, đó

là học sinh gắn kết với mạng xã hội ở mức lạm dụng, thể hiện ở việc dành quá nhiều
thời gian (trung bình trên 3 tiếng/ngày) cho mạng xã hội và có quá nhiều bạn bè trên
mạng xã hội (trên 1000 bạn trở lên) có mối quan hệ chặt chẽ với nguy cơ có hành vi
có tính rủi ro cao (sử dụng ma tuý, chất/thuốc gây ảo giác) và hành vi bạo lực (bao
gồm cả thể chất và tinh thần) đối với bạn bè cũng như gây bạo lực với bản thân (chủ
động tự gây thương tích cho bản thân).
Đối với các đặc điểm nhân khẩu học của học sinh: phân tích cũng cho thấy học
sinh nam, học sinh khối lớn (11 & 12), học sinh có học lực kém là những học sinh có



20



nguy cơ cao đối với nhiều HVRR, trong đó đáng chú ý như hành vi bạo lực, sử dụng
bia rượu, hút thuốc lá. Đối với đặc điểm kinh tế, xã hội gia đình và đặc điểm trường
học, phân tích hồi quy đa biến cho thấy đây không phải là những yếu tố có mối liên
hệ rõ ràng và đáng chú ý đối với các HVRR ở học sinh, ngoại trừ học sinh trường
ngoài công lập có nguy cơ đối với nhiều hành vi rủi ro phổ biến hơn học sinh trường
công lập, cụ thể như hành vi gây bạo lực, hút thuốc lá, hút shisha.
4.4.2. Phân tích tổng hợp các mối quan hệ giữa gắn kết xã hội với thực trạng
có nhiều hành vi rủi ro của học sinh trung học phổ thông Hà Nội.
Nhằm đánh giá tổng thể các yếu tố có liên quan và có khả năng giải thích cho
việc có nhiều HVRR của học sinh, nghiên cứu đã sử dụng mô hình phân tích hồi quy
đa biến tuyến tính, với biến phụ thuộc là chỉ số tổng hợp của 18 HVRR của học sinh.
Chỉ số tổng hợp các HVRR của học sinh là biến số liên tục chạy từ 0 đến 18, trong đó
giá trị của biến số chính là số HVRR mà học sinh đã từng có. Biến độc lập hay biến
số dự đoán gồm:
- Đặc điểm nhân khẩu học cá nhân, gia đình, nhà trường

- Các mối quan hệ gắn kết xã hội: gắn kết với gia đình, gắn kết trong trường học,
gắn kết với hoạt động xã hội và gắn kết với mạng xã hội.
Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy, với mô hình chỉ bao gồm các yếu tố
thuộc đặc điểm nhân khẩu học cá nhân, đặc điểm kinh tế - xã hội gia đình và đặc
điểm trường học thì các nhóm biến số này có khả năng giải thích được 11,3% sự thay
đổi của biến phụ thuộc (tức là có liên quan đến khả năng tăng hoặc giảm số lượng
HVRR mà học sinh có). Tuy nhiên khi đưa thêm các nhóm biến số thuộc đặc điểm
gắn kết xã hội của học sinh, bao gồm gắn kết gia đình, gắn kêt với với nhà trường,
thầy cô, bạn bè, gắn kết với mạng xã hội và các hoạt động xã hội - vấn đề trọng tâm
của nghiên cứu, khi đó mô hình đã được cải thiện và có khả năng giải thích được
38% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Như vậy gắn kết xã hội mà cụ thể là gắn kết học
sinh với gia đình, gắn kết với trường học, thầy cô, bạn bè, gắn kết với các hoạt động
xã hội và mạng xã hội có đóng góp đáng kể vào khả năng giải thích nguy cơ có nhiều
HVRR ở học sinh. Trong số các biến số có mối quan hệ và có khả năng giải thích cho
nguy cơ có thêm nhiều HVRR ở học sinh. Bên cạnh đó học sinh sống trong gia đình
có người thân có nhiều HVRR, có bạn thân, bạn trong nhóm chơi chung có nhiều
HVRR là yếu tố làm tăng nguy cơ có nhiều HVRR ở học sinh, ngoài ra việc lạm
dụng sử dụng mạng xã hội: sử dụng trung bình trên 3 tiếng/ngày, có trên 1000 bạn bè



21



trên mạng xã hội cũng là yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ có thêm các HVRR ở học
sinh THPT.
4.4.3. Bàn luận: từ lý thuyết đến số liệu thực nghiệm
Trong phần này, luận án bàn luận về những phát hiện chính của nghiên cứu từ
góc độ lý thuyết đến số liệu thực tiễn. Thứ nhất, trong 3 mối quan hệ gắn kết được đề

cập: gắn kết trong gia đình, gắn kết trong nhà trường, gắn kết với các hoạt động xã
hội thì gắn kết gia đình có vai trò quan trọng, là yếu tố bảo vệ đối với rất nhiều
HVRR ở mức nguy cơ cao, đồng thời cũng là yếu tố bảo vệ đối với nguy cơ có nhiều
HVRR ở học sinh THPT và đây chính là vấn đề được Browlby (1969) đề cập trọng
tâm trong lý thuyết của mình hay là vấn đề Berkman và cộng sự đã khái quát hoá như
gắn kết tạo ra cơ hội hỗ trợ về vật chất, tinh thần bên cạnh việc tạo dựng được mối
quan hệ tốt đẹp. Bên cạnh việc tạo ảnh hưởng tốt thì gắn kết xã hội cũng có thể tạo
dựng những ảnh hưởng không tích cực, đây cũng là vấn đề được Berkman đề cập
trong lý thuyết gắn kết xã hội hay đã được đề cập rất lâu trước đó trong lý thuyết học
hỏi xã hội trước đó. Không phải mọi gắn kết xã hội đều đem lại hiệu quả tích cực.
Phát hiện từ nghiên cứu cũng cho thấy rất rõ HVRR của học sinh THPT: nguy cơ có
từng hành vi cụ thể cũng như nguy cơ có nhiều HVRR có mối quan hệ chặt chẽ và
chịu ảnh hưởng bởi HVRR của người thân trong gia đình, bạn thân, bạn trong nhóm
chơi chung. Một phát hiện mới từ nghiên cứu đó là không phải gắn kết xã hội nào bền
chặt cũng tạo ra hiệu ứng tích cực đối với hành vi con người, trong đó cụ thể là gắn
kết ở mức lạm dụng mạng xã hội: dành quá nhiều thời gian sử dụng mạng xã hội và
có có nhiều mối quan hệ bạn bè trên mạng xã hội (hay còn có thể coi là các mối quan
hệ ảo) là yếu tố nguy cơ đối với nhiều HVRR cụ thể cũng như nguy cơ có đồng thời
nhiều HVRR.
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy thực tế học sinh mặc dù trong độ tuổi trưởng thành
nhưng vẫn coi trọng và duy trì tương đối tốt mối quan hệ gắn kết gia đình và nhà
trường. Tuy nhiên họ đang thực sự đối mặt với nguy cơ cao có các HVRR cụ thể
cũng như thực trạng có nhiều HVRR: Trung bình một học sinh từng có 4,88 hành vi
trong tổng số 18 hành vi được nghiên cứu và gần 95% học sinh trong mẫu nghiên cứu
có ít nhất 1 HVRR, trong đó phổ biến nhất là hành vi sử dụng bia/rượu, hành vi gây
bạo lực thể chất, tinh thần và các hành vi giao thông không an toàn.




22



Trong các mối quan hệ gắn kết xã hội cơ bản, gắn kết bền chặt với gia đình, việc
học sinh kết nối tốt được với các thành viên, gia đình là chỗ dựa tinh thần là yếu tố có
mối quan hệ chặt chẽ và góp phần bảo vệ nguy cơ có rất nhiều HVRR cụ thể cũng
như nguy cơ có đồng thời nhiều HVRR ở học sinh. Ngoài ra, gắn kết với trường học,
không có cảm giác cô đơn tại trường học cũng là yếu tố bảo vệ đối với một số HVRR
cụ thể như: gây bạo lực với bạn bè cũng như hành vi cố gắng tự tử hoặc có ý định tự
tử ở học sinh. Ngược lại, gắn kết trong gia đình có người thân có nhiều HVRR, có
bạn bè thân, bạn trong nhóm chơi chung có nhiều HVRR là yếu tố có mối quan hệ
chặt chẽ và góp phần làm tăng nguy cơ từng HVRR cụ thể cũng như nguy cơ có đồng
thời nhiều HVRR ở học sinh.
Đáng chú ý, gần 98% học sinh có tham gia vào mạng xã hội (MXH). Những học
sinh gắn kết quá mức với MXH: sử dụng trung bình từ 3 tiếng/ngày trở lên và có từ
1000 bạn bè trên MXH cũng là yếu tố liên quan đến nguy cơ có nhiều HVRR ở học
sinh THPT, trong đó đáng chú ý là hành vi gây bạo lực, sử dụng các chất gây nghiện,
ảo giác và một số hành vi giao thông nguy hiểm.
Nghiên cứu góp phần bổ sung và phát triển các lý thuyết, cơ sở lý luận về mối
quan hệ giữa gắn kết xã hội và HVRR ở học sinh, đồng thời đưa ra những cơ sở khoa
học, các bằng chứng lý luận và thực tiễn góp phần đề xuất giải pháp giám sát và
phòng ngừa HVRR ở VTN nói chung và học sinh THPT nói riêng một cách hiệu quả
và toàn diện.
Khuyến nghị
Trên cơ sở các phát hiện từ nghiên cứu, luận án đưa ra đề xuất các hướng giải pháp
góp phần kiểm soát từng HVRR cụ thể cũng như nguy cơ có nhiều HVRR ở học sinh
THPT. Nghiên cứu đưa ra những cơ sở giải pháp chung cũng như những nhóm giải
pháp cụ thể đối với gia đình, nhà trường, xã hội. Một số gợi ý về giải pháp chung như

sau:
- Thực trạng HVRR ở học sinh THPT là vấn đề có nhiều diễn biến khá phức tạp
đối với học sinh THPT tại Hà Nội, do vậy đây là vấn đề cần được đưa vào ưu tiên
nghiên cứu, giám sát định kỳ giống như cách làm của một số quốc gia trên thế giới
hiện nay.
- HVRR ở học sinh THPT là vấn đề mang tính chất xã hội, có mối quan hệ với môi
trường xã hội, đặc điểm và mức độ gắn kết xã hội của học sinh, do vậy nhằm đạt hiệu
quả cao, các giải pháp can thiệp cần tính đến sự của các yếu tố thuộc về môi trường
xã hội có ảnh hưởng đến các HVRR, ví dụ như có sự tham gia của gia đình, người



23



thân vào các chương trình can thiệp đối với các hành vi nguy cơ cao ở các nhóm tuổi
đặc thù.
- Các chương trình can thiệp, phòng ngừa các HVRR nên được bắt đầu từ sớm, có
thể cần được bắt đầu từ những cuối năm học cấp 1 và duy trì thường xuyên ở các cấp
học THCS và THPT như một chương trình giáo dục kỹ năng sống thường xuyên, ở cả
hình thức chính quy và ngoại khoá. Các chương trình nên tính đến kết hợp giữa trang
bị kiến thức và kỹ năng sống, thực hành các tình huống thực tiễn. Ngoài ra, chương
trình cũng nên tính đến một chương trình toàn diện giám sát đồng thời nhiều HVRR
phổ biến, không nên tách rời, làm không thường xuyên hay chạy theo phong trào,
giám sát đơn lẻ một vài hành vi như cách làm đã, đang thực hiện.
- Cần tính đến ưu tiên những nhóm học sinh có nguy cơ cao đối với nhiều HVRR:
học sinh trong các gia đình có vấn đề, thiếu sự quan tâm, giám sát có trách nhiệm của
gia đình, học sinh sống ở những địa bàn sinh sống phức tạp, có nguy cơ ảnh hưởng
xấu từ môi trường những người sống xung quanh, từ bạn bè, nhóm học sinh nghiện

mạng xã hội và phụ thuộc vào mạng xã hội. Trong một số trường hợp có thể cần có
các nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp phụ trách, trợ giúp những nhóm học
sinh với những hoàn cảnh và điều kiện sống đặc thù, đối mặt với nguy cơ cao có
nhiều HVRR.
- Các chương trình giám sát, can thiệp, giáo dục, truyền thông cần tính đến yếu tố
sự khác biệt về giới tính, nam học sinh có nguy cơ liên quan đến nhiều và đồng thời
các HVRR phổ biến hơn so với học sinh nữ, đặc biệt là những hành vi có nguy cơ rủi
ro ở mức cao như: đánh nhau, sử dụng các chất gây nghiện, chất/thuốc gây ảo giác,
hút thuốc lá, hành vi đua xe. Để đạt hiệu quả cao hơn nữa, các chương trình giáo dục
truyền thông cần hướng tới thay đổi những những giá trị sai lệch và tiến tới tạo dựng
những giá trị mới tích cực về hình tượng học sinh nam giới trưởng thành, nam tính,
độc lập, mạnh mẽ không gắn kèm, liên quan và không phụ thuộc vào bia/rượu, thuốc
lá, các chất gây nghiện, bạo lực và đua xe
Nghiên cứu cũng đưa ra đề xuất giải pháp đối với từng nhóm khách thể liên quan:
- Đối với gia đình: Giải pháp tăng cường gắn kết, trách nhiệm gia đình, trong đó
tập trung vào nâng cao vai trò, trách nhiệm của gia đình, cụ thể là bố mẹ trong việc
tạo dựng gắn kết bền chặt, làm chỗ dựa vững chắc cho con cái, có sự chia sẻ, hỗ trợ,
giám sát con cái kịp thời và dành thời gian và thường xuyên đồng hành cùng con,
giúp còn không vướng phải nguy cơ có các HVRR.



×