Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phạm trù không tring triết học ấn độ cổ trung đại - tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.09 KB, 19 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Mác từng nói rằng, lịch sử phương Đông là lịch sử tôn giáo. Điều này
đặc biệt với trường hợp Ấn Độ. Ở Ấn Độ đã có nhiều hệ thống tôn giáo tồn tại
và các hệ thống triết học thường gắn liền với tơn giáo. Đã gắn bó với tơn giáo
thì khó tránh khỏi duy tâm và hữu thần, dẫu có lúc nhà triết học đã cố tách
khỏi hay qn mình là nhà tơn giáo. Nhưng phải chăng, do gắn với tôn giáo,
các nhà triết học Ấn Độ cổ có một hoạt động tâm linh sâu sắc và nhạy bén,
khiến họ có thể phân tích một cách tế vi và sâu sắc mọi ngõ ngách của tinh
thần, của các tâm, cái thức…Câu hỏi về tồn tại không-tồn tại luôn làm các nhà
triết học Ấn Độ khắc khoải. Nếu tốn học cổ Ấn Độ đã đóng góp cho nhân
loại con số không mà Bertrand Russel đã đánh giá rất cao, thì phạm trù khơng
cũng đã được triết học cổ Ấn Độ hết sức chú ý. Nếu niềm hạnh phúc và nỗi
bất hạnh của con người đã được triết học Ấn Độ quan tâm, thì bản thân nền
triết học này cũng đã có những bất hạnh và may mắn do xã hội Ấn Độ thời cổ
quy định. Và phải chăng là sự phát triển trì trệ của xã hội Ấn Độ thời cổ trung
đại đã dẫn đến tình trạng đó? Nền triết học Ấn Độ cổ là một nền triết học đã
phát triển liên tục nhưng chậm chạp trong một bối cảnh xã hội như Mác đã
nhận xét là tính chất “ phương thức sản xuất Châu Á”. Chính Mác đã xây
dựng khái niệm này trên các tài liệu về xã hội Ấn Độ. Vì vậy có thể coi xã hội
Ấn Độ trung đại là “ phương thức sản xuất Châu Á” điển hình.
Với tất cả các quy định đó, các đặc điểm đó, nhìn chung triết học Ấn
Độ cổ đã hiện ra trước mắt ta như một lâu đài đồ sộ, chứa đầy những kho báu
của tư duy nhân loại mà chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, trong
học phần lịch sử triết học em đã lựa chọn đề tài “ Triết học Ấn Độ cổ trung
đại”, làm đề tài nghiên cứu của mình. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu tìm hiểu
song khơng tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của
các thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.

1



B. NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học ẤN Độ cổ, trung đại
1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên
Ấn Độ là một bán đảo lớn- một tiểu lục địa, nằm ở miền Nam châu Á.
Hai miền Đông Nam và Tây Nam của Ấn Độ giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc án
ngữ là dãy Hymalaya hùng vĩ, với vịng cung dài 2600km ( có 4 ngọn núi cao
hơn 7km vì thế chúng trở thành sứ sở của tuyết). Cực Bắc Kasơmia có những
ngọn núi hũng vĩ dưới chân núi là vùng khí hậu ơn đới, có thung lũng
Kasơmia rộng lớn có tên gọi “ thiên đường nơi trần thế”. Có 5 con sơng lớn
trong đó nổi tiếng là sông Indu, sông Hằng, lưu vực của chúng tạo nên những
vùng đồng bằng phì nhiêu. Ấn Độ cũng có vùng là xa mạc khơ cằn. Yếu tố địa
lý như vậy ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành văn hóa, tơn giáo và tư tưởng
triết học của người Ấn Độ.
1.2 Vài nét về lịch sử xã hội
Ảnh hưởng lớn nhất tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ là nhân tố
xã hội. Xã hội cổ đại Ấn Độ ra đời sớm. Vào khoảng thế kỉ XXV trước công
nguyên ( tr. CN) đã xuất hiện nền văn minh sơng Ấn, sau đó bị tiêu vong chưa
rõ ngun nhân.
Từ thế kỉ XV trước CN các bộ lạc du mục Arya từ Trung á xâm nhập
vào Ấn Độ. Họ định cư rồi đồng hóa với người bản địa Dravida tạo thành cơ
sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai trên đất Ấn Độ.
Từ thế kỉ thứ VII trước CN, đất nước Ấn Độ phải trải qua hàng loạt
biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thơn tính lẫn nhau giữa các vương
triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài. Vào thế kỉ
XVIII, Ấn Độ bị đế quốc Anh đô hộ, từ đó Ấn Độ bước sang thời kì thống
nhất về chính trị, thúc đẩy sự kết hợp giữa văn hóa cổ truyền với văn hóa
phương Tây.
Đặc điểm nổi bật của điều kiện kinh tế xã hội của Ấn Độ cổ, trung đại
là sự tồn tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mơ hình “công xã
2



nơng thơn”, trong đó chế độ cơng hữu về ruộng đất là cơ sở để tìm hiểu tồn
bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Từ hai đặc điểm trên dẫn đến hệ quả là các bước
phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ không mạch lạc như lịch sử xã hội các
nước Châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ khơng có quan hệ phong kiến giống như ở
các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực lượng sản xuất chủ yếu,
họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu phong kiến…Mặt khác quan
hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã hội giai cấp thêm phức tạp.
Trong xã hội có 4 đẳng cấp:
1. Brahman ( tăng lữ) là đẳng cấp cao quý nhất
2. Ksatrya ( quý tộc)
3. Vaisya ( bình dân tự do)
4. Ksudra ( cùng đinh, nơ lệ)
Ngồi ra cịn có sự phân biệt chủng tộc, dịng dõi, nghề nghiệp, tơn giáo.
1.3 Điều kiện về văn hóa
Người Ấn Độ cổ đại tích lũy được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng
tạo ra lịch pháp, giải thích được hiên tượng nhật thực…Toán học xuất hiện rất
sớm: phát minh ra số thập phân, tính đươc trị số , biết về đại số lượng giác,
phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Trong lĩnh vực y học đã xuất hiện
những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, thuốc thảo mộc.Nét
nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ, trung đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín
ngưỡng, tơn giáo và tâm linh.
Văn hóa Ấn Độ cổ trung đại được chia làm 3 giai đoạn:
- Khoảng từ thế kỉ XXV – XV tr.CN gọi là nền văn minh sơng Ấn:
Hay cịn gọi là nền văn minh Harappa là một nền văn minh thành thị đã
xuất hiện tư khoảng 2500 tr. CN.
- Từ thế kỉ XV – VII trCN gọi là nền văn minh Veda
- Từ thế kỉ VI – I tr.CN là thời kì hình thành các trường phái triết học
tôn giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và khơng chính

thống.Đây là thời kì hình thành các quốc gia ở Ấn Độ.
3


Tóm lại: Trong xã hội chiếm hữu nơ lệ ở Ấn Độ, ngoài đặc trưng chủ yếu là
chế độ đẳng cấp nghiệt ngã và sự tồn tại dai dẳng của những cơng xã nơng
thơn, thì chế độ nơ lệ kiểu gia trưởng và Nhà nước quân chủ chuyên chế trung
ương tập quyền, trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở hữu
ruộng đất và thần dân, cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất khắc nghiệt
của tự nhiên và chế độ đẳng cấp, thể chế xã hội càng đè nặng lên đời sống
người dân Ấn Độ, làm cho cuộc sống của họ càng thêm khổ cực... Chính vì
phản ánh nhu cầu muốn thốt khỏi cuộc sống khổ đau… đó của người dân Ấn
Độ, mà mà các trường phái triết học Ấn Độ đều tập trung vào việc lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm cách giúp con người thoát khỏi những những nỗi khổ
não, lo âu trong đời sống ngàn năm của họ…
*Theo cách phân chia truyền thống, ở Ấn Độ cổ đại có 9 hệ thống triết học.
9 hệ thống này lại được chia làm 2 loại: Chính thống ( Astika) có 6 hệ thống ,
Tà giáo ( Nastika) có 3 hệ thống.
-Theo phái chính thống thì ba hệ thống tà giáo chống Veda là: Lokaỳata
( triết học duy vật ), Phật giáo , Jaina giáo.
-Sáu hệ thống được coi là chính thống Veda là: Mimànsà ,Vedànta ,
Sàmkhuya ,Yoga(chú trọng các vấn đề thực tiễn, không phải là lý luận triết
học ),Nyaya (hệ thống đầu tiên ngiên cứu phương pháp biện luận và các vấn
đề liên quan đến logic) , Vaisêska (nghiên cứu các phạm trù thực thể như vật
chất, chất lượng…)
Trong sáu thực thể đó, quyền uy của Veda chỉ có ý nghĩa quyết định đối
với Vedànta.
1.4 Những đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Triết học Ấn Độ cổ trung đại bị chi phối trực tiếp và sâu sắc bởi xu
hướng tín ngưỡng và tơn giáo truyền thống mạnh hơn nhiều so với các nền

triết học khác, ở nơi đây khó phân biệt tơn giáo và triết học. Tư tưởng triết
học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí.

4


- Hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn
đề nhân bản. Trong nhân sinh quan của triết học thường xoay quanh vấn đề “
giải thoát”, “ siêu thoát”.
- Bước phát triển của triết học Ấn Độ có những đặc điểm khác Châu
Âu, các nhà tư tưởng thay thế nhau, thường phát triển triết học với quan điểm
hoàn toàn mới, phê phán và gạt bỏ quan điểm của người đi trước. Còn ở Ấn
Độ, một loạt các quan điểm triết học hay hệ thống triết học đã được đặt cơ sở
từ thời cổ. Sự phát triển sau đó chỉ là phát triển các quan điểm ban đầu. Các
nhà triết học tiếp nhau, nói chung, khơng đặt mục đích tạo ra thứ triết học
mới. Mỗi người ủng hộ một hệ thống đã có, bảo vệ và hồn thiện nó, thường
là tăng cường các chứng cứ cho người đi trước hơn là tìm các sai lầm. Các đại
biểu ln ln giới hạn mình trong việc làm sáng tỏ các học thuyết cũ và
không bao giờ mâu thuẫn với chúng”. Do vậy, phần lớn các tác phẩm triết học
Ấn Độ khơng có niên đại rõ ràng.
- Dù phong phú và đa dạng, có nhiều tư tưởng sâu sắc về bí ẩn thế giới
và đời sống con người, nhưng vận động chậm chạp.
- Khi bàn về vấn đề bản thể luận, có một số trường phái xoay quanh
vấn đề “ tính khơng”, đêm đối lập “ khơng” và “ có”, quy cái có về cái
“khơng”. Điều đó thể hiện tư duy trừu tượng cao.
2. Những tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái chính
thống.
2.1 Sàmkhya
Sàmkhya là số đếm. Ý nghĩa của thuật ngữ này không rõ và nguồn gốc
của triết học này cũng bí ẩn. Tư tưởng Sàmkhya có nguồn gốc rất cổ và ảnh

hưởng của nó rất lớn.
Những người Sàmkhya gạt bỏ Bràhman, tinh thần vũ trụ và phủ nhận
sự tồn tại của thần. Họ đưa ra học thuyết Satkarya – vàda tức học thuyết tồn
tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết
Parinàma- vàda tức học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân
5


trong kết quả. Trong nguyên nhân đã chứa cái gì nằm trong kết quả; trồng
Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi. Như vậy từ tính chất của kết quả tìm
được chìa khóa để đi vào tính chất của ngun nhân.
Nếu thế giới là vật chất thì ngun nhân của nó cũng phải là vật chất.
Theo những người Sàmkhya, Pràkriti hay Pradhana là vật chất đầu tiên, nó
khơng phải là vật chất ở dạng thơ hay rõ ràng có thể nhận thức bằng cảm giác
được, mà là vật chất ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không thể cảm giác được trực
tiếp nhưng khơng biểu hiện, khơng hình, khơng thu biệt, khơng giới hạn.
Bất kì vật thể nào của thế giới vật chất cũng là thể thống nhất không ổn
định gồm 3 yếu tố: Sattva (nhẹ, sáng, vui tươi ) , Rajas( Động, kích thích )
,Tamas(nặng, khó khăn).
Ở vật chất đầu tiên, Sattva là trí tuệ, trí năng tiềm ẩn, Rajas là năng
lượng, Tamas là khối lượng quán tính. Nếu Pràkriti ở trạng thái Avyakta thì nó
cân bằng ổn định. Sự phá hoại thăng bằng là điểm xuất phát của tiến hóa thế
giới từ Avyakta. Vật chất này là vĩnh hằng nhưng không đứng yên, biến đi
không ngừng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy là từ rất sớm, đã hình
thành rõ ràng tư tưởng vật chất vận động không ngừng. Sàmkàra nhà triết học
Vedànta đã gọi học thuyết của Sàmkhya là acetanakàrana – Vàda ( học thuyết
vật chất phi ý thức, là nguyên nhân đầu tiên).
2.2 Mimànsà
Mimànsà là một trong những trường phái chính thống của triết học Ấn
Độ cổ đại, do Jaimini sáng lập vào khoảng thế kỉ II tr.CN. Xuất phát điểm của

Mimànsà chủ yếu dựa vào Véda và Upanishad. Về sau tạo ra kinh điển riêng,
kinh điển đầu tiên là Mimànsà – sutra. Mục đính cơ bản của Mimànsà là diễn
giải, chú giải ( Mimànsà nghĩa là thẩm vấn, khảo cứu) các phương pháp cúng
bái, lễ nghi, tế lễ và thực hiện các quy tắc xã hội theo bổn phận mỗi người
một cách chặt chẽ.
Về mặt triết học, Mimànsà chỉ thừa nhận sự tồn tại của những bản
nguyên tinh thần trong thế giới, trong đó “ tinh thần thế giới vơ ngã” là thực
thể duy nhất, có trước, sáng tạo và chi phối thế giới hiện thực vật chất.
6


Mimànsà thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Thế giới này tồn tại
vĩnh viễn, do những nguyên tử tạo nên. Những nguyên tử này bị các quy luật
Karma điều khiển. Đến đây Mimànsà lại nghiên sang chủ nghĩa duy tâm, biểu
hiện rõ tinh thần nhị nguyên luận. Mimànsà không thừa nhận sự tồn tại của
thần. Trường phái này lập luận đơn giản là khơng có bằng chứng đầy đủ về sự
tồn tại của thần, vì cảm giác không nhận ra thần, nguồn gốc của tri thức suy
cùng là dựa trên cảm giác.
Những người Mimànsà chống chủ nghĩa duy tâm vì nếu tin rằng tất cả
đều khơng tồn tại thì nghi lễ và hiệu quả của nó trở nên vơ nghĩa. Những
người Mimànsà hậu kì đã chuyển sang thừa nhận có thần.
2.3 Vêdànta
Theo nghĩa đen, Vêdànta tức là sự hoàn thiện kinh Véda. Kinh điển đầu
tiên là Vedànta – sutra, được coi do Badarayna viết, nhằm hệ thống, thống
nhất hóa các quan điểm triết học của Upanisad. Vì vậy, Vêdànta cịn có nghĩa
là “ kết thúc Vêda”. Cả Mimànsà và Védanta đều chú giải cho Upanisad, song
Mimànsà thiên về giải thích, hệ thống hóa và phát triển phần nghi lễ của
Véda, còn Vêdanta chú trọng chứng minh cho sự tồn tại của “tinh thần thế
giới” Brahman trong Upanisad.
Vêdànta thể hiện thế giới quan duy tâm tôn giáo. Trường phái này chỉ

thừa nhận có linh hồn con người ( Atman) và linh hồn vũ trụ, hay tồn tại tuyệt
đối ( Brahman) là tồn tại có thật. Cịn thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh ( Maya),
sinh ra do vơ minh ( Avidya).
2.4 Yoga
Yoga theo tiếng phạn có nghĩa là “ sự liên kết” hay hợp nhất tâm thể về
một khối”. Nó là một hệ thống lý luận về phương pháp tu luyện mà người tu
hành thực hiện nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự ảnh hưởng của các giác quan
và mọi sự ràng buộc với các cơ thể xác thịt, với thế giới vật chất là nguồn gốc
của vô minh và đau khổ.

7


Trong Yoga có sự kết hợp tư tưởng triết học của Sàmkhya. Nhưng lại
coi Purusa là thượng đế. Thượng đế ở đây khơng có ý nghĩa về mặt triết học,
mà chỉ được hiểu là sự vượt qua thế giới vật chất hữu hình để nhập vào đại
giác- đến với Brahman.
Phái này đề cao khả năng của con người mà họ cho rằng vô hạn. Muốn
phát huy khả năng vô hạn đó, phải tập trung tư tưởng và rèn luyện, kích thích
các huyệt đạo để có thể khai mở khả năng tiềm ẩn của con người.
2.5 Trường phái Nyàya- Vai’sêsika
Hai hệ thống Nyàya- Vai’sêsika tuy khác nhau nhưng có nhiều quan
điểm triết học tương đồng nhất là vào giai đoạn hậu kì đã gắn liền với nhau,
nên có thể gọi chung là Nyàya- Vai’sêsika.
Lý thuyết nguyên tử
Cả hai trường phái Nyàya- Vai’sêsika đều thừa nhận sự tồn tại của thế
giới vật chất, thế giới ấy rất phong phú đa dạng.Phương pháp luận của họ là
quy toàn bộ sự đa dạng của tồn tại vào bốn yếu tố vật chất: Đất, nước, lửa và
khơng khí. Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất, bất biến,
vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dáng, tồn tại

trong môi trường đặc biệt, trong không gian, thời gian được gọi là Anu
( nguyên tử). Để điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử với nhau và giữa
các nguyên tử với linh hồn, hoặc giải thoát các linh hồn khỏi nguyên tử, hai
phái này tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên đó là thần Isvara.
Lý thuyết nhận thức và Logic học
Các trường phái Nyàya- Vai’sêsika thừa nhận sự tồn tại khách quan của
đối tượng nhận thức. Nhận thức có thể tin cậy, cũng có thể khơng tin cậy. Vì
vậy, phải kiểm tra đúng sai của nhận thức một cách thực tế.
Việc kiểm tra đúng sai của nhận thức dựa vào lý thuyết “ngũ đoạn
luận”, gồm năm vấn đề: Luận đề( đồi có lửa cháy ),Ngun nhân ( vì đồi bốc
khói), Minh họa (tất cả cái bốc khói đều có lửa cháy ), Suy đốn (Đồi bốc
khói thì khơng thể khơng có lửa ), Kết luận( do đó đồi có lửa cháy).
8


Như vậy, nhũ đoạn luận gần giống tam đoạn luận của Arítxtốt nhưng
thêm vào đó 2 phần: đó là kết luận được đưa ra trước và nhắc lại sau cùng.
3. Những tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái khơng
chính thống
3.1 Đạo Jaina
Jaina là một trường phái triết học tôn giáo được xác lập cùng thời với
Phật giáo.
Về triết học, phái này theo học thuyết tương đối, dung hòa hai phái cực
đoan. Một mặt tiếp nhận ở Upanisad tư tưởng tồn tại đầu tiên là bất biến, vô
thủy, vô chung. Mặt khác tiếp nhận ở Phật giáo quan điểm biến chuyển là
khơng ngừng. Vì vậy, theo thuyết này, tồn tại vừa bất biến vừa chuyển hóa.
Thực thể đầu tiên tạo nên thế giới theo trướng pháp Jaina là Giva và
Atgiva. Vật chất chỉ là một trong những biến thể của Atgiva, có những đặc
tính như sờ mó được, có âm thanh, mùi vị và màu sắc. Các vật thể mà con
người cảm giác được cấu thành từ các ngun tử. Ngun tử cực kì nhỏ bé,

khơng thể phân chia, không do ai sáng tạo ra.
Những người Jaina cho rằng có thể chia thực thể tồn tại ra làm 2 loại
sống và khơng sống. Thực thể sống có lý trí, linh hồn. Cịn thực thể khơng
sống gồm khơng gian, thời gian, vận động, nghỉ ngơi…Các yếu tố sống và
không sống liên kết với nhau.
Jaina tin vào thuyết luân hồi và nghiệp. Để giải thốt khỏi ln hồi cần
hồn thiện đạo đức, bằng hình thức tu khổ hạnh, khơng có của riêng, ăn chay,
bất sát, bất bạo, không mưu hại các sinh linh.
3.2 Phái Lokàyata
Lokàyata là trường phái duy vật triệt để nhất trong số các trường phái
triết học duy vật Ấn Độ cổ, trung đại. Tên Lokàyata hay Carvaka thường
được hiểu là thứ triết học phổ biến trong dân chúng, hay là triết học lấy vật
chất làm cơ sở.

9


Khi luận giải về nguồn gốc thế giới, trường phái Lokàyata bác bỏ sự
tồn tại của Brahman ( linh hồn thế giới) và Atman ( linh hồn của mỗi cá nhân
con người). Phái này cho rằng thế giới được tạo thành từ bốn yếu tố: đất,
nước, lửa, khơng khí tạo thành và ý thức cũng được tạo ra từ các yếu tố đó.
Về lý luận nhận thức, phái bày có khuynh hướng duy vật theo lập
trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của
nhận thức, đồng thời phủ nhận tính xác thực của tri thức gián tiếp.
Về logic học, Lokàyata không phủ nhận giá trị của biện chứng, chứng
minh và kết luận logic mà chỉ phủ nhận phương thức suy luận, chứng minh và
mở ra kết luận sai lầm của kinh Veda.
Về đạo đức, các đại biểu Lokàyata chê lý thuyết chấm dứt đau khổ
bằng sự kiềm chế ham muốn dục vọng, hạnh phúc ở thiên đường. Họ cho rằng
chỉ có thế giới con người đang sống mới là có thực. Vì vậy hãy để cho mọi

người sống và hưởng lạc tất cả những cái gì họ mong muốn.
Những tư tưởng trên đây cho thấy, Lokàyata là phái duy vật triệt để
nhất trong các trường phải triết học Ấn Độ cổ đại, nó xa lạ với tinh thần tôn
giáo truyền thống của Ấn Độ và đây có thể là một trong những nguyên nhân
khiến nó sớm mất đi.
3.3 Đạo Phật ( Phật giáo)
Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI tr.CN, là một trào lưu tơn giáo
triết học. Nó nhanh chóng phổ biến, trở thành quốc giáo ở Ấn Độ rồi ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc cả phương
Đơng lẫ phương Tây.
Đạo Phật có 3 mơn phái khác nhau giáo lý, tổ chức, giáo đồn:
1. Phật giáo nguyên thủy ( Tiểu thừa = Hina – yana = Cỗ xe nhỏ). Chủ
trương tu cho bản thân giác ngộ thành La Hán (Arhat) , không thờ cúng thần
linh hoặc chỉ thờ Thích ca mâu ni thơi.Đạo Phật tiểu thừa nay thịnh hành ở
các nước Đông Nam Á như Srilanka, Thái Lan, Lào, Camphuchia và một vài
tỉnh miền Nam Việt Nam
10


2. Phái Đại thừa ( Mahay – Yana = cỗ xe lớn) chủ trương tự giác và
giác ngộ cả chúng sinh. Đại thừa phát triển mạnh ở các xứ bắc như: Trung
Quốc, Nhật, Triều tiên, Việt Nam.
3. Phái Tamtra – yana (phái Mật tong, có tính chất bí truyền, kết hợp
phù trú, bùa linh để tu giải thoát. Phổ biến ở Tây Tạng, Mông cổ, Xibia.
* Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo có những yếu tố duy vật và vô thần, chứa đựng
nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc. Tính duy vật và vơ thần thể hiện rõ trong
quan niệm về tính tự thân sinh thành và biến đổi của vạn vật, không do một
lực lượng tinh thần hay thượng đế tối cao nào. Tính biện chứng sâu sắc thể
hiện trong luận giải về tính chất “vơ ngã”, “ vô thường”, luật nhân quả “

duyên” của đạo này.
Cốt lõi trong triết lý bản thể luận ( thế giới quan thể hiên ở các phạm
trù: vô ngã, vô thường, duyên.
- Vô ngã
Theo kinh Bát Nhã ( một bộ kinh đầu tiên truyền bá tư tưởng Đại Thừa)
thì tạo hóa sinh ra con người gồm hai phần thể xác và linh hồn, cả thảy phân
thành ngũ uẩn ( năm nhóm):
1/Sắc uẩn được tạo nên từ 4 thể chất (tứ đại): đất, nước, lửa, khơng khí.
2/Thụ uẩn (cảm giác): các đồ vật thuốc tứ đại như là cơm ăn, nước
uống…được đưa vào cơ thể con người thì chúng trở thành tự thể ( cơ thể)
của chúng ta. Có người đến vuốt ve, nịnh hót thì tự thể có cảm giác vui. Có
người đến đánh đạp chửi rủa thì tự thể có cảm giác buồn. Thụ là tồn bộ các
cảm giác.
3/ Tưởng uẩn (ấn tượng): sự sắp đặt và phân biệt giúp nhận ra các sự
vật khác nhau nhờ các tri giác khác nhau như âm thanh, màu sắc, mùi vị…
4/ Hành uẩn ( suy lý): sự quyết định làm, quyết định hành động. Đây là
bước tiến tiếp theo sau tưởng uẩn. Tưởng uẩn mới chỉ là ý nghĩ mờ nhạt, hành
đã là ý chí, sự cả quyết mặc dù nó vẫn chưa sâu sắc.
11


5/ Thức ( ý thức): bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ với sáu giác quan :
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc váo sáu căn ( sáu giác quan nói
trên) tiếp xúc với sáu trần để tạo nên sáu thức.
-Sáu trần gồm có:
Sắc trần: màu săc, hình tướng ( hình dáng), biểu sắc ( động tác biểu
hiện ra bên ngoài)
Thanh trần: tiếng động âm thanh
Hương trần: mùi
Vị trần: cảm giác phát sinh do vị: ngọt nhạt, chua cay, mặn, đắng chat.

Xúc trần ( cứng, mềm, ướt, khơ, nóng lạnh)
Pháp trần ( những gì mà ý thức hình dung)
Quan điểm “ vơ ngã” cho rằng vạn vật trong cũ trụ chỉ là sự giả hợp do
hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” ( tồn tại). “ Vơ ngã” là khơng có cái gì
mà là ta…, tất cả chỉ là giả trưởng khơng có thật. Như vậy là khơng có cái gọi
là “tơi” ( vơ ngã)
-Vơ thường:
Phật giáo cho rằng khơng có người sáng tạo đầu tiên ( vơ tạo giả) và
cũng khơng có gì là vĩnh hằng tuyệt đối. Bản chất sự tồn tại của thế giới là
một dịng chuyển biến liên tục (vơ thường). Như vậy là Phật giáo bác bỏ
Brahman và Atman vì thế nó bị xếp vào một trong những phái khơng chính
thống.
- Dun
Mn lồi sinh thành biến hóa và sự biến hóa này diễn ra rất nhanh
( tuân theo chu trình: sinh, trụ, dị diệt ), diễn ra theo quy luật nhân quả. Qủa
lại do duyên mà thành quả khác. Nhân khác lại có duyên mà thành quả mới.
Cứ như vậy nối tiếp nhau vô cùng, vạn vật biến hiện mãi mãi.
* Nhân sinh quan Phật giáo
Nhân sinh quan là phần trọng tâm của triết học Phật giáo. Phật giáo bác
bỏ Brahman và Atman, nhưng lại thừa nhận có Kalpa ( kiếp), Karma ( nghiệp)
trong Upanisad.
12


Luân hồi ( Samsara) = bánh xe quay tròn. Khi mọi người chết đi lại đầu
thai vào một thể xác khác, có thể là người, cũng có thể là lồi vật khác như
chó ngựa, cây cỏ…chỉ những người tu hành đắc đạo, được vào cõi Phật mới
thoát khỏi sự luân hồi đó. Niềm tin này có cả ở phương Đơng lẫn phương Tây
( cổ Ai Cập, phái Pytago).
Nghiệp ( Karma) là cái do hành động của ta gây ra. Mỗi người hiện tại

phải gánh chịu hậu quả của hành vi kiếp trước. Sự gánh chịu này gọi là
nghiệp báo. Nếu tu nhân tích đức tốt ở kiếp này thì có nghiệp báo tốt báo ứng
ở kiếp sau. Ngược lại, nếu đời này làm nhiều điều xấu, điều ác thì đời sau
phải chịu nhiều tai ương.
Khơng tin có một linh hồn vĩnh viễn. Nghiệp báo là do luật nhân duyên
tác động. Những yếu tố sinh lý ( thân) và tinh thần ( tâm) liên tục kết hợp và
ly tán, điều này dẫn đến chuyện có bản ngã từ đời này sang đời khác. Khi nào
tu giác ngộ mới thốt khỏi vịng ln hồi đó. Mục đích cuối cùng của Phật
giáo là tìm đường giải thốt ( Moksa) chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi, quả
bào nhằm đạt trạng thái tồn tại Niết bàn ( Nirvara). Qua đó cũng có thể nói
rằng thực chất của Đạo Phật là học thuyết về nỗi khổ và sự giải thốt.
Phật giáo có tính quần chúng cao. Tơn giáo này đưa ra tinh thần “ bình
đẳng giác ngộ”, ai cũng có thể giải thốt được, kể cả các “chúng sinh”..Phật
giáo thể hiện khát vọng “ tự do cho tất cả mọi người”. Sự giải thốt khơng là
độc quyền của một đẳng cấp nào, dù đó là đẳng cấp tăng lữ hay quý tộc, bình
dân hay tiện nơ. Song đây chỉ là bình đẳng trong mưu cầu cứu cánh giác ngộ,
khơng phải là bình đẳng về chính trị.
Để giải thoát Phật nêu thuyết “ tứ diệu đế” đó là 4 chân lý mà con
người muốn giải thốt bể khổ cần nhận thức và thực hiện.
+ Khổ đế ( Dukkha = Du ( khó)+ Kha ( chịu) như vậy nghĩa gốc của
Dukkha là khó chịu, bứt rứt, dày vò đau đớn, khổ cực, buồn phiền.
+ Tập đế ( hay nhân đế - Samudayya – satya ): nguyên nhân của những
nỗi khổ trên có 12 loại ( thập nhị nhân duyên). Nói vắn tắt , nguyên nhân của
13


mọi nỗi khổ đau có thể gộp lại thành : tham ,sân,si .Tham là tham lam, hướng
ra ngoài cầu cho được cái mình muốn như danh , lợi , ái tình.Sân là giận dữ , đó
là tâm trạng đau khổ , bất an, ghét bỏ những cái trái ý , khơng ưa , khơng thích.
Si là ngu si lầm tưởng mọi cái, không sáng suốt, thiếu “ giác ngộ chân lý”.

+ Diệt đế ( Nirodha – Satya): là diệt trừ tất cả các nguyên nhân sinh ra
luân hồi.
+ Đạo đế ( Màrga – Satya): con đường giải thoát( diệt khổ) thực chất là
tiêu diệt vơ minh, đó chính là con đường tu hành để giải thốt ( bát chính đạo
là con đường tu hành chính của đạo Phật). Thực chất của con đường này là
hoàn thiện đạo đức cá nhân, chứ không mang ý nghĩa của các phong trào cách
mạng hay cải cách xã hội. Nội dung chủ yếu gồm 8 nguyên tắc ( bát chính
đạo):
+ Chính kiến: hiểu biết đúng đắn về đạo pháp, đúng sự thật nhân sinh
( 4 chân lý thánh).
+ Chính tư ( tư duy): suy nghĩ đúng đắn về đạo pháp để tăng thêm tin
tưởng, có trí tự luyện.
+ Chính ngữ: nói đúng đắn, chân thực, dịu dàng khơng vọng ngơn,
khơng ác khẩu.
+ Chính nghiệp: giữ nghề nghiệp chân chính, chống tà nghiệp ( trộm
cắp, tà dâm, giết hại chúng sinh).
+ Chính mệnh : gắn bó với chính nghiệp để tiết chế dục vọng, ham
muốn, sống thanh tịnh. Khiến cho tâm hồn được thư thái, nhẹ nhàng.
+ Chính tinh tấn ( tiến): sống theo đạo pháp ( hăng hái, tích cực, tìm
kiếm và truyền bá chân lý của đạo Phật), siêng làm điều thiện, diệt trừ điều ác.
+ Chính định : phải tĩnh lặng, tập trung tư tưởng, thiền định để đạt tới
nội dung trong sáng, thuần định.
Tám ngun tắc hay “bát chính đạo” có thể thâu tóm vào ba điều học tập và
rèn luyện lớn đó là giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thơng trí tuệ.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ,
14


thì những nỗi lo âu, sợi hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh
thản, đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng

lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí khơng bị chi
phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nóng bởi các ngọn lửa
phiền muộn, lo lắng, sợ hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả
năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và
bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lịng tham, vơ minh đến mức độ
nào thì đời sống sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
Như vậy, Phật giáo ngun thủy có tư tưởng vơ thần, phủ định đấng
sáng tạo, có tư tưởng biện chứng (vơ thần, duyên khởi). Song triết học Phật
giáo lại có mầu sắc duy tâm chủ quan, cho sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều là ảo giác, ảo ảnh, khơng có thực, do vô minh của con người tạo ra.
* Một số nhận định về triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều
vấn đề của triết học.
+ Các nhà triết học Ấn Độ cổ đã có một tư duy phân loại đạt đến trình
độ cao và sự phân tích sâu sắc đến đáng kinh ngạc. Họ khơng dừng lại ở các
vấn đề nhân sinh quan mà đặc biệt quan tâm đến các vấn đề bản thể luận. Nếu
so với triết học Trung Quốc cổ, chúng ta thấy ở Ấn Độ các vấn đề bản thể
luận được chú ý nhiều hơn, logic cũng được phát triển hơn ở Trung Quốc.
Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận
và nhân sinh quan, triết học Ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái
quát khá sâu sắc, đã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vao kho tàng di sản triết
học của nhân loại.
+ Quan tâm giải quyết những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm
linh, tơn giáo với xu hướng “ hướng nội”, đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu
ngã của một thực thể cá nhân.

15



+ Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học
thuyết triết học Ấn Độ cổ, trung đại ( trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết
các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vơ thần đến hữu
thần, từ ít nhiều uy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Những điều đó phản ánh trạng thái trì trệ của “ phương thức sản xuất
Châu á” ở Ấn Độ vào tư duy triết học; đến lượt mình, triết học lại trở thành
một trong những ngun nhân của trạng thái trì trệ đó.

16


C. KẾT LUẬN
Lịch sử phát sinh và phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ chứng
tỏ đó là một nền triết học có một truyền thống lâu đời. Hình thành từ cuối
thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.CN, từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo,
người Ấn Độ đã sáng tạo nên triết học, dựa trên tư duy trừu tượng, lý giải căn
nguyên của vũ trụ, nhân sinh và cố gắng vạch ra bản chất đời sống tâm linh
con người, với các tác phẩm triết học, các trường phái tư tưởng nổi tiếng như:
Vêda, Upanisad, Jaina, Yoga, Samkhya, Vaisesika, Vedanta…Nền triết học ấy
ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đấu tranh không kém phần gay gắt giữa thế giới
quan duy tâm, tôn giáo với tư tưởng duy vật, vô thần, giữa tinh thần lạc quan
với thái độ bi quan, giữa những quan điểm mang tính đa ngun với những
quan điểm có tính nhất ngun. Các trường phái triết học, tơn giáo đó vừa “
cạnh tranh” với nhau, lại vừa kế thừa tư tưởng của nhau, tạo nên những khái
niệm, phạm trù triết học tôn giáo có tính truyền thống, cơ bản nhưng cũng hết
sức phong phú, chịu sự chi phối mạnh mẽ của kinh Veda và các tôn giáo lớn
của Ấn Độ.
Tư tưởng triết học và nền văn hóa Ấn Độ là một thế giới kỳ diệu, đầy
sức quyến rũ, chưa hề tan lụi trong lịch sử. Tư tưởng ấy nảy sinh từ đời sống
và đi ngay vào đời sống, là hơi thở thậm chí là cứu cánh của nhân dân Ấn Độ.

Vì vậy, chúng ta thấy rằng những tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ đã có từ
hơn ba ngàn năm nay nhưng vẫn được truyền tụng sâu rộng trong đời sống
nhân dân Ấn Độ và nhân dân các dân tộc trên thế giới. Vì vậy, việc nghiên
cứu lịch sử triết học Ấn Độ nói riêng, văn minh Ấn Độ nói chung là hết sức
cần thiết.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản

2.

Thuận Hóa.
Khái lược Lịch sử triết học – Bùi Thị Thanh Hương – Nguyễn Văn Đại – Nhà

3.

xuất bản chính trị- hành chính ,2013
Giáo trình Lịch sử Triết học - Học viện Báo chí và tuyên truyền - NXB Chính

4.

trị - hành chính, 2009.
Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản

5.


Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006.
Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình Quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004.

18


MỤC LỤC

19



×