Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp tại Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.8 KB, 15 trang )

Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọ đề tài:
Xu thế quốc tế hóa toàn cầu cùng với chính sách mở cửa của nhà nước ta là một
thuận lợi lớn trong công cuộc phát triển kinh tế.Chính nhờ vậy mà trong những năm trở
lại đây nền kinh tế nước ta phát triển khá mạnh.Quá trình này cũng đồng thời dẫn đến
tình trạng đô thị hóa và sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung ở các đô thị lớn sự
xuất hiện nhanh chóng của các khu công nghiệp đòi hỏi một lực lượng lớn lao động.
Nhu cầu tìm kiếm lao động tại các đô thị lớn diễn ra mạnh đến đâu thì quá trình lao
động đổ dồn lên thành thị mạnh tới đó. Phần lón là lao động từ các vùng quê nghèo di cư
lên nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm nuôi sống bản thân và gia đình.
Là một trong những đô thị lớn nhất Trà Vinh, khu công nghiệp Long Đức hội tụ rất
nhiều tiềm năng phát triển trong đó cơ hội tìm kiếm việc làm khá cao, thu hút một lực lớn
lao động từ khắp các huyện và các tỉnh khác di cư đến.
Quá trình di cư ban đầu chủ yếu là lao động nam, song vài năm trở lại đây tình hình
này đã chuyển sang một xu hướng khác với phần lớn là lao động nữ di cư đến cũng với
mong muốn có thể nuôi sống bản thân và nuôi sống gia đình.
Nam giới có thể đi làm xa nhà và giao phó công việc chăm sóc gia đình cho mẹ,
vợ.Vậy một câu hỏi dặt ra là khi người lao động nữ đi làm xa thì gia đình của họ sẽ như
thế nào? Vì sao lao động nữ lại phải bươn trải nơi đất khách quê người để nuôi sống bản
thân và gia đình? Cuộc sống của họ như thế nào khi “tay trắng” lên các vùng đô thị kiếm
việc? Những suy nghĩ trăn trở của họ khi xa gia đình?
Cũng trong hoàn cảnh này, nếu như là một đứa con của một nữ công nhân đang bươn
trải nơi đất khách quê người hơn ai hết tôi thấu hiểu nỗi thống khổ của mẹ tôi khi một lúc
bà vừa phải vật lộn với cuộc sống bon chen, ngạt thở, sự leo thang của giá cả nơi đô thị ,
vừa phải đối mặt với sự dằn vặt khi phải xa chồng con.
Tất cả những lý do trên, thúc đẩy bản thân để thực hiện đề tài với mong muốn tìm
hiểu sâu hơn nữa thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư tại khu công
nghiệp Long Đức - Trà Vinh, đồng thời chia sẻ sự hiểu biết của bản thân đến vấn đề này.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:


2.1.Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài xoay quanh đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư tại khu công nghiệp
Long Đức - Trà Vinh nên đối tượng nghiên cứu trong đề tài này tập trung đi sâu vào các
mặt của đời sống tinh thần như học tập, vui chơi, giải trí, thể thao, các mối quan hệ và các
mặt hoạt động xã hội khác của chị em công nhân nữ.
1
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
2.2..Khách thể nghiên cứu:
Để đáp ứng đúng nội dung của đề tài khách thể nghiên cứu là công nhân nữ nhập cư
đang làm việc tại các công ty trên địa bàn thành phố Trà Vinh, trong đó điển hình là công
nhân nữ ngành dệt may.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đây là đề tài nghiên cứu về trường hợp do vậy địa điểm chọn để nghiên cứu là khu
vực thành phố Trà Vinh.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
4.1..Mục tiêu chung:
Nhìn một cách tổng quát thì toàn bộ nội dung của đề tài nhằm mục đích tìm hiểu thực
trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ dưới tác động của hoàn cảnh xã hội, qua đó
đưa ra những kiến nghị nhằm giải quyết thực trạng..
4.2 Mục tiêu cụ thể:
1. Thực trạng đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư đang làm việc tại thành
phố Trà Vinh.
1.1 Các mối quan hệ của công nhân nữ nhập cư với lãnh đạo công ty, bạn bè, gia
đình…

1.2 Quá trình tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi, giải trí, thể dục thể thao.
Mức độ tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng như sách, báo, tivi, radio,
internet.
1.3Tình hình tham gia vào các hoạt động xã hội như đi bộ, ủng hộ đồng bào bão lũ…
2. các chính sách của nhà nước nhằm bảo vệ và đáp ứng nhu cầu lao động nữ nhập
cư.
5. Ý nghĩa đề tài:
5.1 Ý nghĩa về mặt lý luận:
Đề tài nghiên cứu được hoàn thành góp phần vào việc áp dụng các lý thuyết xã hội
học, kỹ năng phân tích giới. Đồng thời góp phần nhỏ trong lý luận nghiên cứu về đời
sống của cồng nhân nữ nhập cư.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn:
Trước hết quá trình nghiên cứu đã giúp người thực hiện đề tài bổ sung một lượng
kiến thức thiếu hụt về thực trạng đời sống công nhân nữ nhập cư tại nơi mình đang học
tập, đặc biệt là về mặt tinh thần..
2
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
Kết quả nghiên cứu là nguồn tư liệu tham khảo cho các bạn sinh viên và tất cả những
người quan tâm đến đời sống của công nhân nữ nói chung và công nhân nữ nhập cư nói
riêng.
Những kiến nghị trong đề tài sẽ là những điều tham khảo cho giới lãnh đạo công ty,
những cơ quan chức năng bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và các nhà hoạt động xã hội.
6. Nguồn dữ liệu và phương pháp phân tích thông tin:
6.1 Nguồn dữ liệu:

Trong nghiên cứu này có kế thừa nguồng dữ liệu thứ cấp từ các nghiên cứu trước
của các tác giả, ngoài ra người nghiên cứu cũng sử dụng dữ liệu mà bản thân thu thập
được qua các phương tiện truyền thông đại chúng như sách, báo, tivi, radio, internet và
quá trình quan sát trong suốt thời gian học tập sinh sống tại địa bàn thành phố Trà Vinh.
6.2.Phương pháp xử lý thông tin:
Do sử dụng tài liệu thứ cấp là chính nên phương pháp sử lý thông tin chủ yếu là khái
quát, tổng hợp, quan sat, định tính.

3
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thực trạng đời sống của nữ công nhân nhập cư tại thành phố Trà Vinh:
1.1 Thực trạng:
Đi khắp các ngả đường của tại Trà Vinh, ở đâu ta cũng bắt gặp hình ảnh của
những người lao động nữ đang phải lăn lộn ở những loại hình công việc khác nhau giữa
sự ồn ào, ngột ngạt của bầu không khí ở đô thị. Ở đó thấp thoáng bóng dáng của những
người lao động nữ nhập cư.
Người phụ nữ thường gắn bó với các công việc chăm lo gia đình, gắn bó với quê
hương và hầu như có mức lương ổn định.Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao họ phải rời
bỏ gia đình, làng quê để lên các thành phố để kiếm việc?
Qua những cuộc khảo sát,nghiên cứu cho thấy rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
tình trạng này song nguyên nhân chủ yếu vẫn là do cái nghèo, cái đói đang diễn ra ngay
trên quê hương của họ: “theo các tính toán hiện nay ngày công lao động nông thôn chỉ
đạt trên dưới 10.000 đồng/ngày và nếu chỉ thâm canh cây lúa thì với số diện tích, năng

xuất như hiện nay,các hộ gia đình nông dân chỉ có thể đạt được tổng thu nhập khoảng từ
15-20 kg thóc/người/tháng,tương đương khoảng 30-40đồng/người/tháng. Đấy là chưa kể
những năm mất mùa do thời tiết gây ra.
Bước vào cuộc sống mới với hai bàn tay trắng , họ muốn có được một công việc
để ổn định cuộc sống của bản thân và hi vọng sẽ có chút tiền dư giả để nuôi sống gia
đình. Nhưng thực tế nghiệt ngã không cho họ thực hiện được những ước mơ giản dị đó.
Đời sống bấp bênh, công việc thì không ổn định và nặng nhọc, vất vả với mức thu nhập
không đủ để trang trải chi tiêu cho cuộc sống của bản thân.Bởi thu nhập của họ thấp trong
khi giá cả thì leo thang khiến cho họ như đang đứng trên một biển lửa.
Chỗ ở là điều kiện tối thiểu khi bước vào cuộc sống xa nhà. Để có thể kiếm được
việc làm thì điều trước tiên là phải kiếm được một chỗ để trú ngụ. Đối với lao động nữ
nhập cư, chi tiêu của họ dung để thuê nhà trọ là rẻ nhằm phù hợp với đồng lương eo hẹp.
Nhưng đồng nghĩa với cái “rẻ” ấy là những phòng trọ lụp xụp, nóng bức, chật chội.
Tuy sống trong những căn nhà này nhưng một số chị em vẫn thấy vui vì mình còn có
chỗ để nghỉ ngơi sau một ngày làm việc căng thẳng. Bên cạnh đó có rất nhiều chị em phải
chịu cảnh màn trời chiếu đất, trong số họ, phần lớn là những người muốn ra thành phố
Trà Vinh tìm việc không có thu nhập “Họ là những người mới ra vùng đô thị hoặc chưa
có việc làm, hoặc chưa có người thuê; tiền mang theo thì hết, tiền thu nhập mới chưa có;
họ không quen biết ai, nên đành phải sống vật vã nơi đầu đường góc phố, chịu nắng,
mưa, sương, gió, đầy đọa tấm thân mình”.

4
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
Công việc với tính chất bấp bênh nên mức thu nhập mà họ nhận được cũng

không ổn định.Và mức thu nhập mà họ nhận được còn tùy thuộc vào từng loại công việc.
“thu nhập bình quân tháng của người di cư (957.000đ) thấp hơn so với người không di cư
(1.212.000đ) khoảng 21%. Người di cư là nam (thu nhập bình quân tháng 1.105.000đ)
kiếm được nhiều hơn nữ (839.000đ). Sự chênh lệch giữa thu nhập của người nhập cư và
người không di cư cũng không hề nhỏ,điều này cho thấy rằng lao động nhập cư gặp nhiều
khó khăn hơn lao động không nhập cư về thu nhập ,trong khi đó họ phai trang trải những
khoản chi phí mà lao động không nhập cư không phải lo nghĩ đến. Sự chênh lệch giữa thu
nhập bình quân của lao động nam và nữ nhập cư cũng khá cao nó phần nào nói lên sự bất
bình đẳng trong công việc, thu nhập, lợi ích… giữa nam và nữ công nhân,đó là sự bất
công mà lao động nữ nhập cư phải gánh chịu.
Với thu nhập thấp như vậy thì cuộc sống của họ hết sức khó khăn huống chi còn
phải mang trong mình nỗi lo kinh tế của gia đình. Đồng lương eo hẹp như vậy muốn đảm
bảo được cuộc sống phải hết sức tiết kiệm. Chính vì tiết kiệm này đã dẫn đến tình trang
thiếu thốn về nhiều mặt của đời sống vật chất. Bữa ăn là cần thiết nhất phải chi tiêu hang
ngày, song với điều kiện giá cả tăng vọt như hiện nay thì việc đảm bảo đủ chất cho chị
em là rất khó khăn. Thường thì công nhân nữ nhập cư chỉ chi từ 7.000đ-10.000đ cho bữa
ăn của một ngày, và phần lớn họ phải nhịn ăn sáng. Với kiểu ăn uống như thế thì họ
không thể bù đắp nổi lượng sức lao động bỏ ra làm việc trong điều kiện nặng nhọc, vất
vả.
Với gánh nặng công việc và nỗi lo gia đình như vậy ,các nữ công nhân luôn phải ở
trong tình trạng stress nặng.
Thêm vào đó trong điều kiện làm việc không mấy dễ chịu như vậy các chị luôn cảm
thấy mệt mỏi, ngán ngẩm, đau khắp người… Môi trường làm việc quá nóng bức, ồn ào,
nhiều bụi, nồng độ chất độc cao tuy không gây nguy hiểm tính mạng ngay tại thời điểm
làm việc nhưng có thể làm giảm tuổi thọ về sau.
Phần lớn nữ công nhân thường phàn nàn sau những ca làm việc “người rã
rời, đau lưng, mỏi mắt, có người mắt đã kém dần” một số lo lắng “không biết còn
đủ sức làm đến 50 tuổi hay không”
1.2 Đời sống tinh thần của công nhân nữ nhập cư nghành dệt may
1.2.1 các mối quan hệ của công nhân nữ

♣ Mối quan hệ với lãnh đạo công ty:
Đa số công nhân khi vào làm việc tại các công ty đều nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định của công ty về thời gian lao động. Cả hai bên đều có ý thức trong việc tôn trọng
hợp đồng lao động kí kết trước khi lao động vào làm việc tại công ty, tuy nhiên gần đây
tại Trà Vinh và nhiều tỉnh thành khác luôn xảy ra mâu thuẫn giữa lãnh đạo công ty và
5
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
công nhân dẫn tới hành động công nhân đình công với số lượng lớn gây sức ép trong dư
luận xã hội, làm mất lòng tin của công nhân vào giới lãnh đạo công ty, công việc sản xuất
bị ngưng trệ ảnh hưởng tới tiến độ phát triển kinh tế chung của toàn xã hội. Như vào ngày
25/4/2008 hơn 3000 công nhân công ty giày Gia Định đình công đòi tăng lương và các
khoản chế độ: “Bức xúc lớn nhất của tập thể công nhân là công ty bố rtis cho công nhân
nghỉ phép năm 2008 vào những ngày không có hàng nhưng không báo trước,khiến họ bị
thiệt thòi”( Lê Việt, vietnamnet,26/4/2008).Đó là những minh chứng cho sự khôn ghiểu
nhau giữa lãnh đạo công ty và công nhân khiến họ bức xúc đến mức phải lên tiếng bằng
biện pháp đình công. Sự không hiểu nhau này gây ảnh hưởng bất lợi tới nhịp độ phát
triển kinh tế chung của công ty cũng như toàn xã hội.
♣ Mối quan hệ với nam công nhân
Thời gian lao động quá nhiều cùng với sự mệt mỏi của công việc khiến cho chị em
công nhân không có điều kiện để giao lưu với các bạn khác giới. Một số chị em mặc cảm
vì mình là dân nhập cư nên sống co mình lại không giao lưu với ai chỉ lo làm được nhiều
công việc để tăng thu nhập.
Hạn chế nữa là hầu hết công nhân nghành may mặc là nữ, số lượng nam rất ít
nên số chị em không có cơ hội để tìm bạn đời cho mình, nhất là các chị đã qua tuổi xuân

thì nguy cơ “ế chồng” là rất cao.
Là phụ nữ ai cũng mong muốn tìm được người bạn đời để chia sẻ những buồn
vui trong cuộc sống, nhưng thực tế “nghiệt ngã”đã không thể đem lại hạnh phúc cho các
chị. Nhận thức được hoàn cảnh của mình, có nhiều chị chấp nhận an phận, nhưng một số
khác không chịu nổi cảnh cô đơn, nhất là khi về già nên chọ cách nuôi con đơn thân:
“công nhân nữ tuổi ngoài 30 vẫn chưa lập gia đình chiếm số đông. Sợ tuổi già hiu
quạnh, một số chị em tìm cách có được một đứa con bằng mọi giá”(nguồn Tintuconline
“Nỗi khát khao làm mẹ”,thứ 7 ngày 10/3/2007)
Đây là vết thương in hằn lâu nhất trong trái tim người phụ nữ và chính nó đã
khiến các chị mất hết niềm vui và tin yêu vào cuộc sống, xa lánh xã hội. Đau lòng hơn
nữa khi một bộ phận chị em bị rơi vào bẫy của các tệ nạn xã hội: mại dâm, trộm cắp:
“Ngoài những vấn đề tiền công, nhiều chủ thuê nhân công còn có hành vi lợi dụng sắc
đẹp và thể xác của lao động nữ để làm tăng thu nhập và thỏa mãn dục vọng của mình.
các cửa hàng ăn uống, karaoke thương thu hút các cô gái trẻ để đưa ra làm tiếp viên.
Nhiều chủ cửa hàng yêu cầu và khuyến khích các em ăn mặc và có biểu hiện lả lơi để thu
hút khách,thậm chí tiến hành cả hoạt động mại dâm”(Hà Thị Phương Tiên-Hà Quang
Ngọc “Lao động nữ di cư tự do thành thị-nông thôn”
Tình trạng sống thử cũng diễn ra hết sức gay gắt trong đời sống công nhân nữ nhập
cư. Tình trạng trên là sự báo động chon guy cơ gia tăng nạo phá thai ở công nhân nữ và
nó dẫn đến sự tổn thương về tinh thần cho người nữ công nhân .
6
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
♣Mối quan hệ với đồng nghiệp nữ
Chị em công nhân khi bước chân vào làm việc ai cung luôn có một ý niệm là kiếm

thật nhiều tiền để phụ giúp gia đinh, bởi vậy họ luôn có tư tưởng làm sao để mình có
được nhiều việc làm, có công việc là lao vào làm dẫn đến tình trạng xâm lấn vào công
việc của nhau. Tranh chấp giữa các chị em là không thể tránh khỏi.
Trong suốt quá trình làm việc và sinh sống tất nhiên không tránh khỏi va chạm,
nhưng chủ yếu là va chạm nhỏ có thể tự giải quyết với nhau.
Nhìn chung ngoài những mâu thuẫn nhỏ trong công việc thì chị em luôn có ý thức
giúp đỡ nhau trong cuộc sống nhất là lúc ốm đau, bệnh tật. Đây cũng là việc chị em cần
phải thích nghi trong suốt quá trình sinh sống và làm việc xa nhà.
♣ Mối quan hệ nơi cư trú:
Đối với mỗi người tạo được thiện cảm với mọi người xung quanh là rất quan trọng.
Công nhân cũng vậy, ngoài giờ làm việc ở công ty họ trở về nhà để nghỉ ngơi. Trong quá
trình sống họ giao tiếp với mọi người xung quanh và dần dần tạo được mối quan hệ mật
thiết với những người xung quanh nơi cư trú.
Nhìn chung tại các xóm trọ, công nhân nhập cư có mối quan hệ tốt với mọi người
xung quanh kể cả dân địa phương cũng đối sử rất tôt với họ.
Phần lớn công nhân có xu hướng tiếp xúc với người đồng hương. Nguyên nhân là do
xuất phát từ một địa phương nên họ hiểu nhau về đặc điểm văn hóa dẫn đến dễ tiếp xúc
và dễ hiểu nhau hơn.
Việc bó hẹp phạm vi giao tiếp sẽ hạn chế mối quan hệ giữa những người đến từ nhiều
vùng miền khác nhau. Do vậy mà hạn chế khả năng nhận thức về các nền văn hóa của các
vùng miền khác nhau, quá trình giao lưu các nền văn hóa với nhau không được rộng rãi.
Điều này cũng làm ảnh hưởng tới khả năng kết bạn của công nhân, nhất là việc
tìm cho mình một người tâm đầu ý hợp để chia sẻ những lúc buồn vui trong cuộc sống.
♣ Mối quan hệ với gia đình:
Đa số công nhân nữ nhập cư đến từ các vùng miền xa, cho nên việc về thăm gia đình
là hết sức khó khăn. Mỗi năm may ra được về thăm nhà một lần còn không có điều kiện
thì hai, thậm chí ba năm mới về thăm nhà được.
Với những nữ công nhân nhập cư xa nhà ngoài việc chịu nhiều áp lực của công việc
kiếm tiền họ vừa bị tổn thương bởi nỗi lo cho chồng và những đứa con nheo nhóc, thiếu
tình yêu thương của người mẹ. Nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong sâu thẳm đáy lòng

người công nhân xa sứ.
7
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
Tuy phải chịu nhiều khó khăn như vậy nhưng điều mà ta phải trân trọng ở họ đó là sự
cố gắng không mệt mỏi để vượt qua khó khăn ,kiếm những đồng tiền lương thiện để nuôi
gia đình.
1.2.2. Qúa trình tham gia các hoạt động vui chơi giải trí ,thể dục thể thao và mức độ
tiếp cận các phương tiện truyền thông đại chúng ti vi,sách báo,internet…
Với cường độ làm việc căng thẳng ở công ty cùng với gánh nặng công việc gia đình
khiến cho quỹ thời gian lao động tăng mà thời gian rảnh thì hầu như không có.
Phần lớn công nhân khi có thời gian rảnh thì họ dùng vào việc nghỉ ngơi là chủ yếu .
Sau những giờ làm việc quá căng thẳng về đến nhà tâm lý chị em ai cũng chỉ muốn lăn ra
ngủ cho đỡ mệt để lấy sức đi làm tiếp, có rất ít người xem sách báo hay ti vi .
Với mặt bằng lương chỉ đủ chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu hằng ngày và gửi về
phụ gia đình nên rất ít công nhân có điều kiện để mua sắm các loại phương tiện giải trí
như radio, tivi , sách báo…Đôi khi sang phòng khác có thể xem nhờ nhưng như vậy rất
ngại nên chị em chọn giải pháp “đi ngủ” cho là tốt nhất .
Thực đơn giải trí cho chị em công nhân sau những giờ làm việc hết sức nghèo nàn,
ngày nào cũng quanh quẩn với chiếc máy cassetle, thỉnh thoảng thứ bảy, chủ nhật được
nghỉ thì đi siêu thị hoặc vào các tiệm net để chat. Nhưng số lượng công nhân biết chat là
rất ít , phần lớn họ ra mạng chỉ để tán gẫu với bạn bè chứ không có nhu cầu truy cập
nhiều thông tin về vấn đề kinh tế, chính trị , xã hội ...
Với việc hạn chế về các phương tiện giải trí nên công nhân chỉ biết đến nhà máy
rồi về phòng trọ, áp lực công việc đang là tâm trạng chung của nhiều công nhân hiện nay.

Sức lao động thì đang dần cạn kiệt theo thời gian làm tăng ca. Tất cả những yếu tố này
cũng tác động một lúc dẫn đến tình trạng trầm uất , stress đối với công nhân nữ nhập cư.
Đã đến lúc tất cả chúng ta cần quan tâm đến sức khỏe, tinh thần của người lao
động .Các nhà lãnh đạo công ty phải phối hợp với các nhà hoạt động xã hội xây dựng
nhiều mô hình hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí cho công nhân để đảm bảo tái sản
xuất sức lao động và sức khỏe cho người lao động .
1.2.3. Mức độ tham gia các hoạt động công tác xã hội
Quỹ thời gian làm việc căng thẳng với cường độ ba ca một ngày, giờ giấc lại không
ổn định nên mỗi khi được nghỉ chị em có thể đi chợ, nghỉ ngơi, ít có điều kiện chăm sóc
cho bản thân và tham gia vào các hoạt động vui chơi giải trí . Ngày nay có nhiều nhà văn
hóa, các câu lạc bộ, các lớp học nữ công gia chánh, các buổi hội thao nhưng chị em
không thể tham gia một phần vì không có thời gian và phương tiện đi lại, phần vì mặc
cảm là công nhân ăn nói không được khéo léo cùng với công việc không được chu đáo
trong ăn mặc nên các chị sẽ khép mình hơn.
8
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
Một số chị sau quá trình tham gia các hoạt động xã hội bị các bạn đồng nghiệp nam
chêu chọc nên đành thôi : “Xuất phát từ quan điểm con gái lớn lên phải lấy chồng các
chị em nghành dệt may mặc cảm “ế” cộng cái nhìn thương hại hay chế nhạo do vô tình
khiến chị em ngày càng co cụm lại”.
Đôi khi do mặc cảm mà những lời nói bỡn cợt vô tình làm tổn thương tới tâm hồn
mềm yếu của các ch , nó chính là bức tường rào ngăn cách các chị tham gia vào các hoạt
động vui chơi , giải trí…, hòa nhập vào cộng đồng xã hội .
Nhìn chung đời sống tinh thần của chị em công nhân nữ nhập cư hết sức nghèo

nàn, thêm vào đó là sự mặc cảm về thân phận khiến cho chị em sống rụt rè hơn và có ý
niệm lẩn tránh xã hội.
2. Những chính sách của nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu và bảo vệ quyền lợi
của người lao động nữ.
Bảo vệ quyền lợi cho lao động nữ là một trong những mục tiêu nhằm tiến tới sự
bình đẳng xã hội giữa nam và nữ, và cũng là xu hướng phát triển chung của xã hội nước
ta hiện nay. Đồng thời với những quy định này thì lao động nữ được bảo vệ về quyền và
lợi ích trong suốt quá trình lao động.
Tại điều 109 luật lao động Việt Nam gồm hai điều nhằm hướng tới mục đích bình
đẳng về lao động giữa nam và nữ, quy định này nhằm hạn chế tình trạng phân biệt đối sử
của người sử dụng lao động đối với lao động nam và lao động nữ:
- Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới,
có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ
có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt,
làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc làm tại nhà.
Giữa nam và nữ công nhân đều bình dẳng trong công việc, lợi ích…Ngoài ra chính
sách này cũng góp phần tạo cho lao động nữ có được công việc ổn định và có nhiều thời
gian nghỉ ngơi, làm việc tại nhà để có điều kiện chăm sóc gia đình, làm tốt hai nhiệm vụ
“giỏi việc nước,đảm việc nhà”.
Trong thực tế điều kiện làm việc của đa số công nhân hết sức khó khăn, điều kiện
làm việc không đảm bảo an toàn lao động, một số lao động nữ phải làm việc trong các
môi trường độc hại như các công ty hóa chất…trong những điều kiện làm việc như vậy
sức khỏe của nữ công nhân bị giảm sút nghiêm trọng nhất là sức khoẻ sinh sản, để khắc
phục tình trạng này nhà nước ta cũng có những biện pháp khắc phục.
- Nhà nước có chính sách và biện pháp từng bước mở mang việc làm, cải thiện điều
kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về
vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng
lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
- Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi
cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm người lao động nữ còn có thêm nghề dự phòng


9
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và
chức năng làm mẹ của phụ nữ.
Nhằm tạo điều kiện cho lao động nữ được tự do lựa chọn công việc phù hợp với điều
kiện sức khỏe và sinh lý của mình nhà nước ta đã có chính sách mở mang nhiều loại hình
đào tạo nghề nghiệp khác nhau để phụ nữ có thể lựa chọn và tham gia học tập. Đồng thời
tạo cơ hội cho lao động nữ có thể làm nhiều nghành nghề khác nhau để tăng thu nhập cho
gia đình và có điều kiện vừa làm việc vừa chăm lo cho con cái.
Tạo cơ hội cho lao động nữ có quyền thăng tiến và có quyền tham gia vào tất cả các
hoạt động tuyển dụng lao động:
- Nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc
phạm danh dự và nhân phẩm phụ nữ.
Người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng,
sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động.
- Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ
tiêu chuẩn tuyển chọn làm công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang
cần.
Với những quy định này lao động nữ được bình đẳng như nam giới trong quá trình kí
kết hợp đồng lao động cũng như tham gia tuyển dụng lao động, người sử dụng lao động
bắt buộc phải tuân theo nguyên tắc này để bảm bảo lợi ích cho cả hai bên giữa người sử
dung lao động và lao động nữ. Quy định này cũng bảo vệ lao động nữ khi vi phạm hợp
đồng để tránh tình trạng người sử dụng lao động có những hình phạt quá khắt khe xúc

phạm tới nhân phẩm của người phụ nữ hoặc đánh đập lao động nư.
Chức năng làm mẹ là chức năng được “thiên phú” của người phụ nữ vì vậy trong
suốt quá trình lao động ít nhất người lao động nữ cũng có một lần làm mẹ, đó là điều hiển
nhiên, người sử dụng lao động không được lấy những lý do như kết hôn, mang thai, sinh
con …để chấm dứt hợp đồng lao động:
- Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động đối với người lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới
12 tháng tuổi, trừ trường hợp doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Trong suốt quá trình mang thai khi cảm thấy sức khỏe không đảm bảo cho sự phát
triển bình thường của thai nhi thì lao động nữ có quyền chấm dứt hợp đồng lao động để
có điều kiện chăm sóc thai nhi.tuy nhiên trước khi nghỉ lao động nữ cần phải báo trước
cho người sử dụng lao động để họ sắp xếp lại công việc,và quan trọng hơn lao động nữ
phải co giấy chứng nhận của bác sĩ về tình trạng sức khỏe của mình:
Người lao động nữ có thai có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà
không phải bồi thường theo quy định tại Điều 41 của Bộ luật này, nếu có giấy của thầy
thuốc chứng nhận tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Trong trường hợp này,
thời hạn mà người lao động nữ phải báo trước cho người sử dụng lao động tuỳ thuộc vào
thời hạn do thầy thuốc chỉ định.
Bảo vệ sức khỏe sinh sản cho lao động nữ là rất cần thiết.một người phụ nữ vì một lý
do nào đó mà mất đi chức năng sinh sản thì điều đó cũng có nghĩa họ đã đánh mất đi nửa
cuộc đời mình.Vì vậy trong quá trình sử dụng lao động người sử dụng lao động cũng phải
10
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
nhận biết được tầm quan trọng đó và không vi phạm vào quy định của nhà nước trong

việc bảo vệ sức khỏe sinh sản của lao động nữ trong công ty,xí nghiệp của mình(điều 113
bộ luật lao động Việt Nam quy định).mọi cơ quan ,doanh nghiệp đều phải tuân thủ theo
điều lệ này,nếu phát hiện người sử dụng lao động vi pham,lao động có quyền tố cáo với
các cơ quan công an.
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm những công
việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới chức
năng sinh đẻ và nuôi con, theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ
Y tế ban hành.
Doanh nghiệp nào đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói trên phải có kế
hoạch đào tạo nghề, chuyển dần người lao động nữ sang công việc khác phù hợp, tăng
cường các biện pháp bảo vệ sức khoẻ, cải thiện điều kiện lao động hoặc giảm bớt thời giờ
làm việc.
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ bất kỳ độ tuổi nào
làm việc thường xuyên dưới hầm mỏ hoặc ngâm mình dưới nước.
Sau quá trình mang thai đến giai đoạn chuẩn bị sinh và sau khi sinh phụ nữ rất cần
thời gian để nghỉ ngơi để lấy lại sức lực và chăm sóc con cái.về chế độ nghỉ sinh luật lao
động Việt Nam cũng có những quy định tạo điều kiện cho chị em phụ nữ có điều kiện hồi
phục sức khỏe và chăm sóc con cái:
- Người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con, cộng lại từ bốn đến sáu
tháng do Chính phủ quy định, tuỳ theo điều kiện lao động, tính chất công việc nặng nhọc,
độc hại và nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi
con, người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày.
- Hết thời gian nghỉ thai sản quy định nếu có nhu cầu, người lao động nữ có thể nghỉ
thêm một thời gian không hưởng lương theo thoả thuận với người sử dụng lao động.
Người lao động nữ có thể đi làm việc trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, nếu đã nghỉ ít
nhất được hai tháng sau khi sinh và có giấy của thầy thuốc chứng nhận việc trở lại làm
việc sớm không có hại cho sức khoẻ và phải báo cho người sử dụng lao động biết trước.
Trong trường hợp này, người lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản, ngoài
tiền lương của những ngày làm việc.
Với quy định này lao động nữ có thể tự quyết định trong việc nghỉ ngơi sau khi sinh

con mà không bị ép buộc của ng ười sử dụng lao động trong quá trình nghỉ sản.
Bảo vệ lao động đang mang thai cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ thai nhi, thế hệ
tương lai của đất nước.trong suốt quá trình mang thai người mẹ phải hết sức cẩn trọng
trong mọi hành động:
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ có thai từ tháng
thứ bảy hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi làm thêm giờ, làm việc ban đêm và đi
công tác xa.
- Người lao động nữ làm công việc nặng nhọc, khi có thai đến tháng thứ bảy, được
chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt một giờ làm việc hàng ngày mà vẫn
hưởng đủ lương.

11
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
- Người lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong
thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm
việc, mà vẫn hưởng đủ lương.
Trong quá trình sử dụng lao động người sử dụng lao động cần phải tôn trọng những
điều khoản mà pháp luật quy định cho lao động nữ và các cơ quan doanh nghiệp có trách
nhiệm thi hành nghiêm chỉnh.
Muốn lao động yên tâm làm việc nhà nước và các cơ quan các doanh nghiệp cần chú
ý thêm về vấn đề sinh hoạt cá nhân của lao động nữ, đảm bảo các điều kiện sinh hoạt
hàng ngày cho lao động nữ :
- Nơi có sử dụng lao động nữ, phải có chỗ thay quần áo, buồng tắm và buồng vệ sinh
nữ.

- Ở những nơi sử dụng nhiều lao động nữ, người sử dụng lao động có trách nhiệm
giúp đỡ tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc hỗ trợ một phần chi phí cho lao động nữ có
con ở lứa tuổi gửi trẻ, mẫu giáo.
Quy định này hướng tới việc khuyến khích các cơ quan,người sử dụng lao động cần
quan tâ hơn nữa tới cuộc sống hàng ngày của lao động nữ,giúp họ có những điều kiện tốt
để ổn định cuộc sống gia đình nhất là trong việc đảm bảo điều kiện làm việc của trẻ em,
là con lao động nữ để chúng có điều kiện sống và học tập tốt.

KẾT LUẬN
1.Một vài nhận định từ kết quả nghiên cứu:
Quá trình thực hiện đề tài đã đem lại nhiều hiểu biết cho người nghiên cứu về thực
trạng cuộc sống của công nhân, nhất là công nhân nhập cư đang làm việc và sinh sống tại
thành phố Trà Vinh.
12
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
Vấn đề nổi cộm lên đầu tiên khi tìm hiểu đó là nạn di dân vẫn đang diển ra hết sức
phức tạp trên phạm vi cả nước. Quá trình di dân đã ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đến sự
phát triển của kinh tế-xã hội, gây sức ép nặng nề lên các mặt như việc làm, môi trường,
nhà ở, phúc lợi xã hội…Đây thực sự là bài toán khó cho những cơ quan ban ngành, các tổ
chức xã hội và cả bản thân người lao động.
Lượng dân nhập cư vào thành phố Trà Vinh ngày càng đông, diễn biến hết sức phức
tạp, số lượng người dân không được đăng kí hộ khẩu khá đông, đời sống của người nhập
cư vô cùng vất vả, khó khăn về nhà ở, điện, nước sinh hoạt…Trong đó có cả một bộ phận
lớn lao động nhập cư đang phải sống trong cảnh “màn trời, chiếu đất”.

Điều kiện sống đã vô cùng cơ cực ,những người lao động nhập cư này lại phải chịu
những điều kiện làm việc không được đảm bảo. Khi tìm hiểu sâu hơn về quá trình làm
việc của lao động nữ ngành dệt may cho thấy: những nữ công nhân ngành may mặc luôn
phải làm việc trong tình trạng không gian chật hẹp, thiếu ánh sáng, không khí, bụi công
nghiệp cộng thêm sự nóng bức ngột ngạt do lượng nhiệt tỏa ra từ máy móc trong khi hoạt
động, và tiếng kêu inh ỏi suốt cả một ngày khiến cho công nhân bị áp lực hết sức nặng
nề.
Từ thực tế về cuộc sống và điều kiện làm việc như vậy dẫn tới những sức ép vô cùng
lớn tới tâm sinh lý của người lao động. Điều tra về sức khỏe của công nhân nữ ngành dệt
may theo định kì cho thấy rằng :đa số các nữ công nhân bị suy giảm sức lao động, luôn ở
trong tình trạng mệt mỏi, strees nặng, nhất là công nhân nữ nhập cư khi họ vưa chịu áp
lực công việc vừa chịu áp lực kiếm tiền nuôi gia đình. Đa số công nhân nữ ngành may
mặc đều mắc các bênh như đau khắp người, giảm thị lực và nguy cơ điếc là rất lớn., tuổi
thọ hầu như bị suy giảm nặng nề.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress nặng của công nhân nữ nhập cư ngoài áp
lực công việc gia đình còn do một nguyên nhân nữa là do họ không thường xuyên tham
gia vào các hoạt động giao lưu, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao và không được tiếp
xúc thường xuyên với các phương tiện truyền thông đại chúng…
Sự “nghèo”về đời sống tinh thần xuất phát từ quỹ thời gian lao động quá căng
thẳng, cùng với đồng lương hạn chế nên chị em công nhân nữ không có điều kiện để
tham gia vào các hoạt động này. Đây là một vấn đề nhức nhối cần được sự quan tâm hơn
nữa của các cơ quan các tổ chức xã hội.
Điều khiến cho chị em công nhân nữ phải suy nghĩ đó là vấn đề về tình yêu, hôn
nhân gia đình. Phần lớn chị em nữ công nhân đang ở trong tình trạng “quá lứa lỡ thì”,
một số khác thì chấp nhận nuôi con một mình. Nồi đau về tinh thần là những vết thương
không thể lành lặn trong sâu thẳm đáy lòng người nữ công nhân nhập cư.

13
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa


SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
Một vấn đề nữa cũng hết sức quan trọng đó là tình trạng chị em công nhân nữ bị
lôi kéo vào các tệ nạn xã hội như trộm cắp, mại dâm, hoặc bị lợi dụng vào các mục đích
xấu của bọn tội phạm…Đây là vấn đề nhức nhối và không thể làm ngỏ đối với toàn xã
hội.
Tình trạng sống thử trong giới công nhân cũng đang diễn biến phức tạp, những diễn
biến này gây hậu quả nghiêm trọng đến tinh thần của công nhân nữ và nó ảnh hưởng cả
về cuộc sống sau này của họ.
Nói tóm lại cuộc sống của dân nhập cư nói chung và công nhân nữ nhập cư nói riêng
đang hết sức khó khăn và phức tạp không kém, nó đang là gánh nặng cho toàn xã hội và
đặc biệt là nền kinh tế của tỉnh.Vấn đề mang lại cho những lao động nữ nhập cư một
niềm vui, sự tin yêu vào cuộc sống đang là sự thách đố cho những nhà hoạt động xã hội .
2 .Những biện pháp khắc phục:
Để giải quyết sức ép của nạn di dân lên nền kinh tế- xã hội nhà nước ta cần phải có
những chính sách nhằm thúc đẩy nền kinh tế ở các địa phương,nhất là ở các vùng nông
thôn, đầu tư vào kinh tế nông nghiệp,tăng cường cho nông dân vay vốn đẻ phát triển kinh
tế gia đình.
Trong tình hình giá cả thị trường biến động hết sức phức tạp, với sự tăng vọt giá cả
các mặt hàng khiến cho đời sống của công nhân nữ nhập cư lâm vào tình trạng lao đao
bởi đồng lương nhận được hàng tháng không đủ để chi trả cho chi phí sinh hoạt hàng
ngày. Vấn đề tăng lương và giảm giờ làm cho công nhân luôn là vấn đề thường trực và
cho đến nay chưa được giải quyết. Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội, các cơ
quan ban nghành cần phải tìm ra những hướng khắc phục tốt nhất để đảm bảo cuộc sống
ổn định cho công nhân. Đồng thời có chính sách kiềm chế lạm phát nhất là trong giai
đoạn hiện nay.
Để đảm bảo chỗ nghỉ ngơi,cư trú cho công nhân,các công ty cân phải có chính sách

xây các khu kí túc xá cho công nhân để họ yên tâm hơn trong vấn đề nhà ở, đồng thời
đảm bảo an ninh trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của công nhân. Đảm bảo cho công
nhân những vấn đề về phương diện sinh hoạt hàng ngày như: phòng tắm, phòng thay đồ,
nhà vệ sinh…điện nước sinh hoạt hàng ngày.
Các xí nghiệp, cơ quan, những người lãnh đạo công ty cần quan tâm hơn nữa tới đời
sống tinh thần của công nhân bằng cách tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ cuối tuần,
hoặc tổ chức các hội thao để lôi kéo công nhân vào hoạt động vui chơi giải trí, quên đi
những mệt nhọc sau một tuần làm việc căng thẳng và tăng mối quan hệ giữa những người
công nhân với nhau nói chung và giữa nam và nữ công nhân nói riêng .
Khó khăn về vật chất, thiếu thốn về tinh thần đã khiến nhiều chị em công nhân bị lợi
dụng và lôi kéo vào con đường tội lỗi nhất là mại dâm. Lãnh đạo công ty cần phối hợp
14
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ


Đề tài: Đời sống tinh thần của nữ công nhân nhập cư ở khu công nghiệp
tại Trà Vinh
với các tổ chức công tác xã hội để lên kế hoạch kịp thời truyền thông cho chị em công
nhân nhận thức được mức độ nguy hiểm của những “cạm bẫy” ấy để chị em đề phòng,
đồng thời có những buổi tư vấn tâm lý để động viên chị em và giúp chị em giải quyết
những thắc mắc trong cuộc sống nhất là về mặt tinh thần.
Các tổ chức hoạt động xã hội cần có những kế hoạch cụ thể để ổn định được tâm lý
cho công nhân, đặc biệt là công nhân nữ nhập cư, thường xuyên tham hỏi và an ủi chị
em, giúp chị em có được một cuộc sống vui vẻ hơn, thoải mái hơn, giảm tình trạng stress
nặng ở các chị, giúp các chị tạm thời quên đi nỗi nhớ gia đình .
Đối với một số chị em do bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội nên có thái độ mặc cảm với
mọi người xung quanh nên sống thu mình ,hạn chế tiếp xúc với mọi người xung quanh,
với những người này các tổ chức xã hội, nhất là các cán sự xã hội cần phải có biện pháp

để hạn chế sự kì thị của mọi người xung quanh với chị em và đưa chị em hòa nhập vào
cộng đồng xã hội để họ lấy lại được niềm tin vào cuộc sống.
Các tổ chức bảo vệ quyền lợi phụ nữ và trẻ em cần phải quan tâm sâu sắc tới những
khó khăn của công nhân nữ nhập cư từ đó phối hợp với các cơ quan lãnh đạo công ty và
các tổ chức xã hội khác có những nguồn quỹ cho vay để hỗ trợ chị em trong những lúc
khó khăn, ốm đau, bệnh tật.
Các cán sự xã hội trong tương lai cần có những nhận thức rõ về sự cần thiết của việc
đưa công nhân nữ nhập cư hòa nhập vào cuộc sống là điều hết sức quan trọng và cấp
bách, từ đó xây dựng cho mình nhưng hướng đi để làm sao đó phối hợp với các tổ chức
xã họi lên kế hoạch và đi vào quấ trình công tác xã hội trong đời sống tinh thần công
nhân nữ nhập cư.

15
GVHD:Ths. Trần Thị Lụa

SVTH: Thạch Trường Thọ



×