Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

tư tưởng biện chứng trong một số tác phẩm của nguyễn bỉnh khiêm luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.89 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng triết học là tinh hoa của tư tưởng nhân loại. Nghiên cứu tư
tưởng triết học cho ta cái nhìn sâu sắc về sự hình thành phát triển của thế
giới nói chung và của xã hội loài người nói riêng. Song ở mỗi giai đoạn, mỗi
thời đại và mỗi dân tộc có cách xây dựng và nhìn nhận khác nhau về triết
học.
Ở Việt Nam khi bàn luận về lịch sử tư tưởng triết học có nhiều ý kiến
khác nhau, theo hai khuynh hướng chủ yếu: Thứ nhất, nhiều người cho rằng
Việt Nam không có triết học, Việt Nam chỉ bắt chước, Khổng - Mạnh nói thế
nào thì ta nói lại thế, thậm chí nói không đầy đủ, chỉ một phần nào đó thôi.
Họ cho rằng giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam không có khả năng sáng
tạo một hệ tư tưởng xứng đáng với nhân dân vĩ đại. Tóm lại, khuynh hướng
này khẳng định: Không có sáng tạo chỉ vay mượn, chỉ có áp dụng, chỉ có
thích nghi, đó là tư tưởng Đại Việt. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là nhà
nghiên cứu Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quốc Vượng…
Khuynh hướng thứ hai, nhiều người khẳng định Việt Nam có triết
học, nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam thực chất là nghiên cứu lịch sử
triết học Việt Nam. Đại diện cho khuynh hướng quan niệm này là Giáo sư
Vũ Khiêu, Giáo sư Lê Hữu Tầng… Khuynh hướng này ngày càng cho
thấy tính thuyết phục của nó khi nghiên cứu kỹ càng, cặn kẽ những di sản
tinh thần của dân tộc.
Có thể thấy rằng, nếu như triết học phương Tây thường gắn liền với
những thành tựu của khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên, triết học Ấn
Độ gắn liền với tôn giáo, triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị, đạo
đức, thì triết học Việt Nam gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Khi phản ánh hiện thực đó, triết học Việt Nam hướng chủ yếu đến vấn

1



đề nhân sinh, đạo lý làm người mà tư tưởng trung tâm là yêu nước. Nếu như
triết học phương Tây có khuynh hướng trội là đi từ thế giới quan đến nhân
sinh quan (từ bản thể luận đến nhận thức luận, lô gíc học), thì triết học Việt
Nam lại có khuynh hướng trội là đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Ở
Việt Nam, vấn đề trung tâm, hàng đầu là vấn đề con người, đạo lý làm người
(nhân sinh quan), sau đó các nhà tư tưởng mới đi tìm cách lý giải , đặt cơ sở
cho những vấn đề trên (thế giới quan). Điều này bị qui định bởi phương thức
sản xuất châu Á ở Việt Nam. Tư tưởng triết học Việt Nam là sự thể hiện,
phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của cộng đồng dân tộc; nó phát triển
từ những ý niệm thô sơ, chất phác về nhân sinh, vũ trụ lên trình độ lý luận,
song do khuynh hướng trội nêu trên nên nó thiếu tính hệ thống chặt chẽ và
thường là cải biến nội dung các khái niệm trong các học thuyết được du
nhập từ bên ngoài nhằm mục đích xây dựng và bảo vệ đất nước. Cũng chính
vì khuynh hướng trội nêu trên mà vấn đề cơ bản của triết học, tức vấn đề
quan hệ giữa vật chất và ý thức, trong triết học Việt Nam khá mờ nhạt, cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không trải ra trên
khắp mọi vấn đề, nhưng nhìn chung, khuynh hướng duy tâm tôn giáo có vẻ
nổi trội hơn khuynh hướng duy vật vô thần.
Khi nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam, không thể không kể đến
những tên tuổi như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm, Lê
Quý Đôn... Họ giống như những ngôi sao sáng trên bầu trời triết học nước
nhà. Những tư tưởng của họ đã tạo nên tiền đề vững chắc cho nền triết học
Việt Nam. Trong số đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem như cây đại thụ tư
tưởng tỏa bóng mát cho triết học Việt Nam đâm chồi và phát triển. Ôn Đình
Hầu Vũ Khâm Lân đã nhận định “Trên trăm năm về trước, dưới trăm năm
về sau không ai hơn được tiên sinh... khắp thiên hạ từ quân vương đến bậc
hiền nhân kể cũng nhiều lắm. Nhưng đều vinh hiển lúc sống, chết đi là hết.
Duy tiên sinh truyền đến nay 7, 8 đời rồi, mà sĩ thứ các nơi càng chiêm
2



ngưỡng như núi Thái Sơn, sao Bắc đẩu, nghìn năm như một ngày vậy”.
Không chỉ 7, 8 đời mà cho đến nay đã gần năm thế kỷ trôi qua những tư
tưởng của ông vẫn còn chứa đựng nhiều giá trị cho các thế hệ mai sau.
Tuy nhiên, xưa nay khi nói về ông người ta thường bàn nhiều đến giá
trị văn học nghệ thuật và triết lý nhân sinh. Trong khi đằng sau những tư
tưởng ấy là cả một thế giới quan triết học và những tư tưởng biện chứng tiến
bộ. Đó là tư tưởng triết học duy vật về vũ trụ, về mối liên hệ lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng và sự vận động biến đổi của tự nhiên, xã hội và tư
duy được diễn đạt thông qua những cặp phạm trù biện chứng. Khác với triết
học Phương Tây chỉ chuyên sâu vào giải thích thế giới. Triết học Việt Nam
nói chung, triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng là sự đan xen những
tư tưởng triết học sâu sắc với những tư tưởng về nhân tình thế thái và được
thể hiện một cách độc đáo thông qua các tác phẩm văn thơ. Đây là nét đặc
sắc của nền triết học Việt Nam mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu và
phát triển nó.
Chính vì những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tư tưởng biện
chứng trong một số tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm” làm đề tài luận
văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tư tưởng lớn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn,
niềm tự hào của dân tộc ta. Tư tưởng của ông ảnh hưởng sâu sắc đến các thế
hệ con người Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp trí thức. Trong lịch sử đã từng
có những công trình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của ông một cách
công phu và sâu sắc. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu về
Nguyễn Bỉnh khiêm đều là sự tập hợp những tác phẩm thơ, văn hoặc sấm
mà ông đã viết và phân tích chúng dưới góc độ văn học nghệ thuật hoặc tư
tưởng nhân sinh. Còn những công trình nghiên cứu mang tính triết học thì ít
hơn. Cho đến nay có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về Nguyễn
Bỉnh Khiêm như sau:

3


Nhóm công trình nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp thơ văn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm:
- Cuốn sách Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký do Vũ
Khâm Lân biên soạn năm 1743. Cuốn sách được sưu tập với sự giúp đỡ của
người cháu trực hệ bảy đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nguyễn Thì Đương.
Tuy đây là cuốn sách sớm nhất nhưng cũng được ghi chép sau khi ông mất
190 năm.
- Đến thế kỷ XIX, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú
cũng ghi chép được một số tài liệu ít ỏi về Nguyễn Bỉnh Khiêm nhưng phần
lớn là dựa vào phả ký của Vũ Khâm Lân. Hai công trình này giống như chiếc
chìa khóa mở ra kho tàng tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, là nguồn tư liệu quý
giá cho các công trình nghiên cứu sau này.
- Năm 1943, cuốn Tuyết Giang phu tử của Chu Thiên Hoàng Minh
Giám ra đời, đây là một công trình khá đặc sắc và công phu quy tụ những nét
chính về thời đại và cuộc đời của danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cuốn sách
đã trở thành tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà khoa học sau này.
Từ sau Cách mạng Tháng 8 đến nay, những công trình nghiên cứu về
Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện nhiều hơn, tiêu biểu như các tác phẩm: Thơ
văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Như Sơn,
Nxb Văn học, năm 1983. Cuốn sách này tập trung 161 bài thơ Nôm và gần
100 bài thơ văn Việt Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tập sách có lời giới
thiệu chung của tác giả với những lời nhận xét thuyết phục về nội dung tư
tưởng của thơ văn Trạng Trình.
Sau hội thảo khoa học kỷ niệm 400 năm ngày mất Nguyễn Bỉnh
Khiêm tại Hải Phòng (1985) có thêm cuốn “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm, kỷ yếu hội thảo” với tập hợp nhiều bài viết sâu sắc về Nguyễn Bỉnh
Khiêm dưới nhiều góc độ khác nhau của các nhà khoa học.

Năm 1991, Bộ Văn hóa thông tin và truyền thông cùng viện khoa học
xã hội công bố cuốn sách “Nguyễn Bỉnh Khiêm - danh nhân văn hóa” do
4


Nguyễn Huệ Chi chủ biên. Đây cũng là công trình được đánh giá rất cao, là
nguồn tư liệu vô cùng quý giá cho các công trình nghiên cứu sau này. Tác
phẩm “Tâm sự Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân quốc ngữ thi tập”,
Nguyễn Khuê, nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh (1997); “Trạng trình sấm và
ký”, Nguyên Nghiệp, nhà xuất bản văn hóa thông tin (2004); “Tuyết giang
phu tử”, Trần Tuấn Tiến, nhà xuất bản sân khấu (2011).
Gần đây nhất là công trình nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia
và tác phẩm của Trần Thị Băng Thanh và Vũ Thanh Huyền tuyển chọn và giới
thiệu. Công trình tập trung những bài viết từ trước đến nay của nhiều nhà khoa
học lớn về Nguyễn Bỉnh Khiêm được tập hợp một cách hệ thống và khoa học,
gồm 67 bài viết tập trung nghiên cứu theo từng phương diện: Nguyễn Bỉnh
Khiêm giữa thế kỷ XVI đầy biến động; Triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm tư tưởng
và nhân cách; Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà thơ; Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm
thức thế nhân xưa và nay. Những bài viết này bao gồm những lời bình thú vị
và sâu sắc về con người, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nhóm công trình nghiên cứu về triết học có một số công trình nghiên
cứu như sau: Trước hết là cuốn sách Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lý của
Lê Trọng Khánh và Lê Anh Trà xuất bản năm 1957. Cuốn sách là cái nhìn
mới về tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác giả đã chỉ ra được một số
vấn đề mang tính triết học trong tư tưởng của Trạng Trình mà đến nay nó
vẫn mang nhiều giá trị. Năm 1992 trung tâm Hán Nôm TP. Hồ Chí Minh
xuất bản cuốn sách “Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử triết học Việt Nam”
do Phan Văn Các biên soạn cũng là một cách nhìn mang tính triết học về tư
tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Trong các cuốn sách về Lịch sử tư tưởng
Việt Nam tập 1 của Nguyễn Tài Thư xuất bản năm 1993 và Lịch sử tư tưởng

Việt Nam (văn tuyển) của Trần Nguyên Việt xuất bản năm 2004, đã đề cập
đến những tư tưởng triết học Việt Nam trong đó có tư tưởng của Nguyễn
Bỉnh Khiêm.

5


Ngoài ra còn nhiều bài viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm mang tính triết lý,
triết học của Trần Nguyên Việt như: Tư tưởng về triết học tự nhiên của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vấn đề con người trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm... và các bài viết của PGS TS. Nguyễn Tài Thư về yếu tố Kinh dịch,
lý học trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm… được đăng trên các tạp chí
triết học đáng để chúng ta đọc và suy ngẫm.
Những công trình nghiên cứu kể trên đã phần nhiều nói đến con người
chính trị, con người tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, góp phần phân tích lý
giải làm sâu sắc hơn tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm để những tư tưởng
của ông ngày càng gần chúng ta hơn. Tuy nhiên, tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng giống cuộc đời, con người ông vẫn là một ẩn số mà chúng ta
cần nghiên cứu tìm tòi nhiều hơn nữa để đạt đến giá trị đích thực. Vì vậy
việc nghiên cứu đề tài “Tư tưởng biện chứng trong một số tác phẩm của
Nguyễn Bỉnh Khiêm” sẽ góp phần nào đó trong việc nâng cao hiểu biết về
tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những tư tưởng biện chứng của Nguyễn Bỉnh Khiêm
thông qua một số tác phẩm của ông và đánh giá những giá trị và hạn chế chủ
yếu của những tư tưởng đó.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn trình bày điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thế kỷ
XVI, môi trường ra đời của tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

- Giới thiệu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt
giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu của ông.
-

Phân tích nội dung tư tưởng biện chứng trong các tác phẩm đó và
đánh giá những giá trị và hạn chế chủ yếu của nó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
6


Đề tài hướng vào việc nghiên cứu những tư tưởng biện chứng của
Nguyễn Bỉnh Khiêm thông qua một số tác phẩm của ông.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Những tác phẩm cũng như tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm khá đồ
sộ. Do những giới hạn nhất định mà luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi
những tư tưởng biện chứng của Nguyễn Bỉnh Khiêm thông qua một số sáng
tác chủ yếu nhất của ông (Bạch Vân am thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập,
Sấm Trạng Trình và một số bài văn bia).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1 Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử .
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu biện chứng
như logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, so sánh, khái
quát hóa, hệ thống... nhằm sắp xếp, hệ thống, luận giải, phân tích một cách

đúng đắn và khoa học các tư tưởng biện chứng trong một số tác phẩm của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn không hướng vào nghiên cứu những giá trị mang tính nghệ
thuật, tính hiện thực hoặc hơn nữa là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc trong
tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm mà hướng vào nghiên cứu tư tưởng biện
chứng trong một số tác phẩm của ông, từ đó góp thêm cách nhìn sâu sắc về
nền triết học Việt Nam.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người yêu
mến Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam nói
7


chung và các sinh viên ngành khoa học xã hội, đặc biệt là sinh viên ngành
triết học.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

8


NỘI DUNG
Chương 1
ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI TƯ TƯỞNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM
1.1. Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tinh thần Việt Nam thế kỷ
XVI
1.1.1. Điều kiện chính trị
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) được ví như cây đại thụ của thế kỷ
XVI, là một trong những nhà trí thức có uy tín nhất thế kỷ. Ông sống gần

trọn cuộc đời với những thăng trầm biến đổi của thế kỷ này. Vì vậy tư
tưởng, thái độ của ông đều mang dấu ấn sâu đậm của thời cuộc. Do đó muốn
hiểu một cách sâu sắc những tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm chúng ta
không thể không tìm hiểu đôi nét về tình hình kinh tế, chính trị - xã hội Việt
Nam đương thời.
Nếu như thời Lê Thánh Tông là thời kì hoàng kim của nhà Lê thì cuối
thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, nhà Lê bắt đầu bước vào thời kì suy thoái, kéo
theo sự rối ren của tình hình kinh tế, chính trị xã hội với sự tranh chấp quyền
lực của các thế lực phong kiến khác nhau. Trong vòng 24 năm (1503 - 1527)
nhà Lê thay đổi đến sáu ông vua, có người (Quang Trị) ở ngôi đúng được 3
ngày. Trong nội bộ giai cấp phong kiến thống trị, mâu thuẫn ngày càng trầm
trọng, các cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực và địa vị diễn ra liên miên.
Bản thân những người đứng đầu vương triều - các hoàng đế nhà Lê lại đều
là những kẻ bất tài vô hạnh. Xã hội Việt Nam đương thời vô cùng rối ren và
phức tạp “Lê mạt, Trịnh - Nguyễn phân tranh”. Chính điều này đã có sự tác
động sâu sắc đến quá trình nhận thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đặc biệt,
giai đoạn ông bắt đầu trưởng thành và miệt mài kinh sử Nho giáo với những
đạo lí vua tôi tốt đẹp và mong ước:
“Hà phần phụ cập cộng tòng si (sư)
Khí nghiệp tương tương viễn đại kỳ”
9


(Ký hữu nhân)
Dịch:
“Cắp cặp sách cùng theo học ở đất Hà Phần
Hẹn ước con đường công danh sự nghiệp xa rộng”
(Gửi bạn)
Song đây lại chính là thời kì trị vì của hai ông vua thối nát nhất trong
lịch sử phong kiến nước ta mà các sử gia sau này gọi là nỗi kinh hoàng của

lịch sử Việt Nam, đó là Lê Uy Mục và Lê Tương Dực. Và cũng chính sự vô
dụng của hai ông vua này dẫn đến hàng loạt những rối ren binh biến sau đó
của đất nước.
Lê Uy Mục được Thái Hậu Nguyễn Thị và hoạn quan Nguyễn Như
đưa lên làm vua sau khi Lê Thuần (Túc tôn) qua đời không có con nối ngôi.
Thời gian này, triều chính hoàn toàn lọt vào tay bọn ngoại thích, đồng bọn
của Thái Hậu Nguyễn Thị và Hoàng Hậu Trần Thị kết cấu với bọn hoạn
quan. Chúng chuyên quyền, lũng đoạn, tìm mọi cách hãm hại những người
không về phe chúng. Ngay cả bà nội, chú ruột và các anh em của Lê Uy
Mục cũng bị sát hại. Mặt khác sau khi lên ngôi, Lê Uy Mục ăn chơi sa đọa,
chỉ chú trọng đến rượi chè, đàn hát, mặc việc triều chính, không đúng ý là
sẵn sàng chém giết. Trước tình hình đó Kinh Vương Kiến là con út của vua
Thánh Tông sợ hãi phải trốn biệt tích. Giản tu công Lê Oanh là anh em thúc
bá với Lê Uy Mục cũng bị chúng nhốt lại. Chúng còn sai Lê Uy Mục đuổi
tất cả tôn thất và công thần vào Thanh Hóa cho chúng tiện bề thao túng triều
chính.
Trước sự bê bối của triều chính và sự ngu dốt, độc ác của Lê Uy Mục,
cuối năm 1509 Nguyễn Văn Lang cùng những quý tộc bị trục xuất khỏi triều
đình nổi quân ở Thanh Hóa và rước Lê Oanh mới trốn ngục lên làm minh
chủ. Sau đó tiến ra Đông đô bắt giết Lê Uy Mục lập Lê Oanh lên làm vua
tức Tương Dực Đế (1509 - 1516). Tuy nhiên, Lê Tương Dực cũng không
hơn gì Uy Mục, giết hại anh em, hoang dâm vô độ. Thậm chí trong thời Lê
10


Tương Dực, còn có những việc xa xỉ chưa từng có: “Lê Tương Dực bắt Vũ
Như Tô đốc thúc nhân dân phải xây một ngôi điện một trăm nóc và xây một
ngôi đài gọi là Cửu Trùng Đài. Để xây dựng được công trình này nhân dân
phục dịch hàng mấy năm không xong. Theo sử sách cũ: việc xây dựng điện
trăm nóc và Cửu Trùng Đài đã làm chết rất nhiều dân. Không những thế

nhân dân còn phải đóng rất nhiều thuyền đẹp cho vua để nhà vua bắt những
mỹ nữ chèo thuyền cho hắn đi dong chơi trên Hồ Tây” [15, 11]. Ngoài ra
chúng còn cho xây dựng nhiều công trình khác như chùa, điện và bao quanh
bởi hàng ngàn trượng tường... càng làm cho nhân dân khốn khổ mọi bề .
Một số lớn của cải và nhân công chỉ để phục dịch cho sự xa xỉ của vua chúa
phong kiến… Tất cả những điều này làm cho triều chính nhiễu nhương,
nhân dân căm hận, đất nước suy yếu về mọi mặt. Sự xa xỉ vô lối này đã
được Nguyễn Bỉnh Khiêm phác họa:
“Thói tà ích hoang dâm lưu lê
Sang thì quen thói kiêu căng,
Giầu thì xa xỉ há rằng một ai.
Sửa sang những tường dài nhà rộng,
Nào kẻ hoa trạm bóng vẽ vời.
Đường đem chát chõa đồ xôi
Sáp đem làm củi đủ mùi xa hoa.
Ăn uống phí tiêu pha lại quá,
Nào khinh cừu, phi mã rủi rong”.
(Bài văn bia quán Trung Tân)
Có lẽ chính do lối trị vì thối nát của những ông “vua quỷ”, “vua lợn”
của triều Lê mà Nguyễn Bỉnh Khiêm mặc dù đã mang trong mình “một bồ
kinh sách” và tấm lòng “ưu đời ái quốc” sâu sắc, nhưng ông không ra thi thố
và làm quan mà chấp nhận ở quê nhà dạy học, trong những áng thơ của ông
thể hiện nỗi niềm mơ ước về một thời đại “Ước một tôi hiền chúa thánh
minh” nhưng điều đó thật khó trước bối cảnh thời đại bấy giờ.
11


Cho đến năm 1558, trải qua nhiều lần bạo loạn, lật đổ, truất ngôi, giết
chóc…, đất nước Việt Nam rơi vào cuộc nội chiến giữa Nam triều tức Lê Trịnh và Bắc triều tức nhà Mạc kéo dài hơn năm thập kỷ. Trước cảnh triều
chính đất nước suy tàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau xót:

“Thái hòa vũ trụ bất Ngu, Chu
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tùy xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thùy khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn tu phòng nhập thất khu.
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Túy ngôn trạch bạn nhậm nhàn du”
(Ngụ ý)
Dịch nghĩa:
“Non sông nào phải buổi bình thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười.
Cá vực chim rừng ai khiến đuổi,
Núi xương sông máu thảm đầy nơi.
Ngựa phi chắc có lần quay cổ,
Thú dữ nên phòng lúc cắn người
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa,
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi”
Chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên, đâu đâu
cũng cảnh “núi xương sông máu thảm đầy nơi”, đất nước chia lìa, tan tác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm càng đau đời bao nhiêu chứng tỏ ông càng yêu đời bấy
nhiêu, thực tại đau thương của đất nước chính là chất xúc tác cho những tư
tưởng nhân nghĩa mang tính biện chứng của ông.

12


Bọn quan lại phong kiến tìm mọi cách bóc lột nhân dân, chiếm đoạt
ruộng đất của nông dân, làm cho đời sống nhân dân ngày càng khốn đốn:
“Cư ốc triết vi tân

Canh ngưu đồ nhi thực.
Nhượng đoạt phi kỉ hóa,
Hiếp dụ phi kỉ sắc”
(Thương loạn)
Dịch:
“Nhà ở đem bẻ làm củi
Trâu cày đem mổ thịt ăn.
Cướp đoạt tài sản không phải là của mình
Hiếp dỗ người không phải là vợ mình”
Chính vì vậy phong trào đấu tranh của các tầng lớp nông dân diễn ra
khắp nơi. Thợ thủ công và nhà buôn nhỏ cũng bị ảnh hưởng nhiều vì chính
sách chiếm đoạt đó. Những người thợ thủ công bị bắt làm công tượng,
không còn được làm công việc của mình mà phải phục dịch cho bọn quan
lại. Còn lại những người thợ thủ công không bị bắt đi làm công tượng thì
quay ra làm ruộng nhưng “đồng ruộng chỉ còn mạ khô”, mà thuế khóa lại
nặng nề. Những người buôn bán không thể kinh doanh vì nhân dân nghèo
đói, không đủ tiền để trao đổi mua bán. Đồng thời việc buôn bán lớn tập
trung chủ yếu vào tay bọn quan lại có quyền lực. Triều chính bê tha, giai
cấp thống trị đua nhau tranh giành quyền lực, xung đột diễn ra liên miên,
mâu thuẫn giữa nhân dân với chế độ phong kiến ngày càng trở nên gay gắt.
Dưới ách thống trị thối nát ấy và sự bóc lột cùng kiệt của bọn vua quan
phong kiến, phong trào nông dân nhanh chóng lan ra khắp nơi. Chiến tranh
giữa các tập đoàn phong kiến, đấu tranh của nhân dân chống phong kiến
thống trị, những tranh đoạt, chiếm đoạt, xung đột thường xuyên làm xã hội
rối loạn. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn mà chua chát:
“Chiến tranh hỗ tương tầm
13


Họa loạn chí thử cực”

(thương loạn)
Dịch nghĩa:
“Chiến tranh cuộc này kéo đến cuộc khác
Hỏa hoạn đến thế này là cùng cực”.
Trên mọi miền của đất nước đâu đâu cũng có chiến tranh, triều đình
tìm mọi cách bắt bớ nhân dân đi lính, đi phu. Những người dân vô tội chịu
cảnh tan đàn sẻ nghé, con thơ nheo nhóc, vợ hiền tủi cực:
“Giáo và mộc tua tủa bay ra trào nước mắt
Nhân dân trốn chạy muốn tìm nơi an toàn
Khốn đốn dắt dìu nhau, thở than không có đất”
(Cảm hứng, bài 4)
Trước cảnh tình đất nước Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn đau đớn, xót xa.
Ông nhìn thấy hai mâu thuẫn nổi cộm trong xã hội đương thời là mâu thuẫn
giữa bọn thống trị phong kiến với nhau và mâu thuẫn giữa chúng với nhân
dân đang bị bóc lột, ông cũng thấy rõ rằng những mâu thuẫn đó không dễ
dàng giải quyết được. Vì vậy, xuyên suốt những áng thơ văn của ông chất
chứa nỗi niềm đau đáu với nước với dân và sự khinh rẻ lũ vua quan ngốc
nghếch, hung tàn, sự chán ghét chiến tranh đến cùng cực và sự thương cảm
sâu sắc trước nhân dân vô tội. Dường như bất mãn trước thời cuộc tương
tàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhất quyết không ra làm quan mà chọn cuộc sống
“bên đầm say hát nhởn nhơ chơi”. Nhưng thực ra cái nhởn nhơ đó chỉ là cái
vỏ bọc bên ngoài bởi trong sâu thẳm ông vẫn chất chứa một nỗi niềm ưu dân
ái quốc. Khi chưa thể lao ra mà giúp đời, giúp người, ông đứng sau để quan
sát, để cảm thông, chiêm nghiệm rồi khái quát lên thành những tư tưởng,
quy luật của cuộc sống. Chính việc tận mắt chứng kiến sự xoay vần của xã
hội, sự thay đổi thoán đoạt nhanh chóng của các triều đại, nỗi khổ đau bi đát
của nhân dân trước nạn binh đao đã tác động không nhỏ tạo nên những tư

14



tưởng triết học biện chứng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi thực tiễn là cơ sở,
động lực, là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Chính thực tiễn xã hội
đương thời đã tác động đến những tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm và
những tư tưởng đó được ông thể hiện qua những áng văn thơ sâu sắc.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cùng với sự bất ổn của tình hình chính trị, đời sống kinh tế của người
dân vô cùng khốn đốn, nền sản suất nông nghiệp bị giảm sút nhiều. Tầng lớp
vua quan phong kiến không chăm lo đến sự phát triển nông nghiệp như thời
vua Thái Tổ, Thái Tông. Đê điều không được quan tâm, tu sửa, đất đai hoặc
bọn quan lại chiếm đoạt phục vụ cho mục đích riêng hoặc bị bỏ hoang. Người
nông dân không có đất cày cấy “khốn đốn dìu dắt nhau, thở than không có
đất” [31, 89], còn nếu canh tác được chút ít thì thuế má các loại quá nặng nề.
Nạn đói kém, thất bát, mất mùa triền miên, nền nông nghiệp nhìn chung là
suy kém, cảnh chết đói bần cùng xảy ra khắp nơi:
“Đồng ruộng chỉ còn mạ khô,
Kho đụn không hạt thóc thừa
Vất vả nghèo khổ, người nông phu than vãn
Đói và gầy trên ruộng đồng kêu khóc”.
(Tăng thử)
Hình ảnh “đói và gầy trên ruộng đồng kêu khóc” là hình ảnh có sức tố
cáo mãnh liệt hậu quả của những cuộc chém giết lẫn nhau, của sự bóc lột
dân chúng đến tận cùng trong giai đoạn này đồng thời cũng là điều ám ảnh
lớn với bản thân Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đã tái hiện một cách sâu sắc tình
cảnh đất nước thế kỷ XVI vào trong thơ, văn của mình, qua đó thể hiện rõ
thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả.
Về tình hình công thương có một số điểm đặc biệt làm cho tình hình
công thương không đến nỗi suy yếu như nông nghiệp do sự ảnh hưởng của
việc buôn bán với người Phương Tây và nhu cầu của xã hội.


15


Triều Lê đã phát triển nghề khai mỏ để đúc đồng, đúc tiền, một phần
phục vụ cho cuộc sống xa xỉ của vua chúa, mặt khác để lưu thông buôn
bán.Việc buôn bán với nước ngoài trong thời gian này đã đem đến một số
khởi sắc cho nền thương nghiệp. Tiền tệ lưu thông được dễ dàng, những đô
thị cũng mọc lên và hình thành một số phú thương mới. Tuy nhiên những
mối lợi lớn về ngoại thương là do nhà nước nắm giữ, mặt khác những mại
bản Trung Quốc và Nhật Bản đóng vai trò chủ đạo trong buoon bán với bên
ngoài, còn thương nhân Việt Nam chỉ đóng vai trò là trung gian bậc dưới, để
mua hàng của nhân dân sản xuất ra mà thôi. Tầng lớp phú thương này chưa
có một tác dụng gì đáng kể trong việc thúc đẩy xã hội tiến lên. Nó không trở
thành một lực lượng mới có tính chất cách mạng như ở các nước tư bản thời
bấy giờ, tuy thế họ cũng đóng vai trò nhất định trong quá trình lưu thông,
buôn bán. Mặc dù có những thay đổi nhất định, nhưng sự phát triển cũng
không đáng là bao bởi còn chịu sự chèn ép của các thế lực phong kiến với
thuế má nặng nề đã làm mất hứng thú của sự sản xuất, chế độ thuế thổ sản
lại càng phá hoại lực lượng sản suất. Đời sống nhân dân khổ cực trăm bề.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết rằng: “thuế thổ
sản trung thu hà lạm khiến người ta cùng kiệt không nộp nổi, khốn đốn đến
phải bỏ nghề. Có người vì thuế sơn mà phải chặt cây sơn, có người vì thuế
lụa mà phải hủy khung cửi, thúc thuế gỗ mà người ta bỏ rìu búa, thu thuế cá
mà người ta bỏ lưới chài, thu thuế mật thì bỏ mía, thu thuế bông chè thì
vườn tược bỏ hoang”[15, 14]. Trong giai đoạn này, chính sự trao đổi buôn
bán đã tạo nên một diện mạo mới cho xã hội, đồng tiền đã mang một sức
mạnh vô hình, nó làm đảo lộn mọi trật tự xã hội. Sự ảnh hưởng của đồng
tiền đã làm thay đổi nhận thức, đạo đức của con người, những tôn ti trật tự,
cương thường đạo lí dần mai một, thay vào đó là lối sống vụ lợi chạy theo
đồng tiền:

“Giàu sang người trọng khó ai nhìn
Mấy dạ yêu vì kẻ lỡ hèn
16


Thuở khó dẫu chào, chào cũng lặng
Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen.
Quen hiềm dan díu điều bè bạn,
Lặng kẻo lân la nỗi bạ men
Đạo nọ, nghĩa này trăm tiếng bướm
Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”.
(Thơ Nôm, bài 5)
Hay:
“Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười
Có của thời hơn hết mọi nhời
Trước đến tay không nào thốt hỏi
Sau vào nặng gánh lại vui cười”
(Thơ Nôm, bài 80)
“Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm hết gạo, hết ông tôi”.
(Thơ Nôm, bài 77)
Trước tình cảnh chiến tranh loạn lạc liên miên, đời sống vất vả cực
nhọc, sống chết lúc nào không hay dường như con người ta trở nên ích kỉ
hơn, vụ lợi hơn. Đây cũng chính là kết quả của một xã hội mà triều chính
đảo điên, chiến tranh xâu xé, tranh giành quyền lực lẫn nhau. Nền kinh tế xã
hội đương thời đã tác động và chi phối sâu sắc cục diện chính trị của đất
nước. C. Mác và Ph. Ănghen từng khẳng định trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội (cơ
cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế sinh ra) là hai yếu tố cấu thành cơ sở
lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy” [28, 11]. Chính nền kinh

tế trì trệ đương thời là cơ sở hình thành những tư tưởng triết học. Những tư
tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm không nằm ngoài quy luật đó, nó chịu ảnh
hưởng sâu sắc của tình hình kinh tế xã hội của thế kỷ XVI đầy biến động.

17


Trên cơ sở tình hình chính trị - xã hội rối ren và phức tạp của thế kỷ
XVI, ý thức hệ, tư tưởng của thời đại cũng có sự biến chuyển mạnh mẽ.
Quyền lợi, địa vị; sức mạnh của đồng tiền; chiến tranh tương hỗ tương tàn,
chém giết, tàn khốc, vô nhân đạo… tất cả những cái đó đã phá vỡ cương
thường đạo lí Nho giáo mà thế kỷ XV - thế kỷ toàn thịnh của phong kiến tập
trung đã cố gắng xây dựng. Những người còn giữ được kỉ cương phép tắc,
đạo vua tôi còn rất ít. Nhìn chung, đại bộ phận đã xu thời, a phụ những kẻ có
thế lực nhất để thời mưu quyền lợi, đục khoét nhân dân. Cùng với thời thế
đảo điên, thế lực đồng tiền cũng góp phần làm giảm giá trị thiêng liêng của
đạo đức, lễ nghĩa và trật tự xã hội. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khái quát:
“Gió mưa gặp lúc u ám tối tăm
Cương thường ngày một suy sụp lỏng lẻo
Lễ nghĩa than ôi ngang trái,
Mũ lọng theo đó đảo ngược
Thờ vua tôi chẳng ra tôi,
Thờ cha con chẳng ra con”
.......................................
Cảnh trị bình ngày một sa xuống chốn nhuốc nhơ,
Con người ta tự không biết liêm sỉ.
(Cảm hứng)
Trước tình trạng ấy những người yêu nước thương dân tự thấy mình
bất lực. Hoặc là họ chấp nhận ẩn mình, lánh đời hoặc mong mỏi, ước mơ về
một sự đổi mới, một vương triều mới đem lại cảnh thái bình cho nhân dân.

Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã “mũ ni che tai”, thế nhưng với tấm lòng ưu
thời mẫn thế, ông vẫn mong được góp sức mình cho đời, cho người, mong
đem cái “vốn” sẵn có trong mình để có thể thành “tôi hiền” cho “chúa thánh
minh”, giúp đất nước qua khỏi cơn loạn lạc và sớm xây dựng được một xã
hội như thời Nghiêu Thuấn.

18


Trong bối cảnh suy đồi, suy thoái đến mức cùng cực của nhà Lê, khắp
nơi dân tình ai oán, sự ra đời của nhà Mạc trên cơ sở thoán đoạt nhà Lê, dù
không danh chính ngôn thuận nhưng với cái nhìn khách quan, so với sự suy
tàn, thối nát của những “vua lợn”, “vua quỷ” đương thời và lũ lâu la nịnh
thần, triều Mạc là một vương triều mới, có nhiều mặt tiến bộ, nhất là trong
giai đoạn trị vì của Mạc Đăng Doanh và Mạc Đăng Dung. Hơn nữa sự ra đời
của nhà Mạc cũng xuất phát từ chính cái nền tảng đổ nát của nhà Lê, đúng
như quy luật thịnh suy mà Nguyễn Bỉnh Khiêm thường nhắc đến trong
nhiều tác phẩm của mình. Sau những biến động, hỗn loạn của triều Lê, vào
những năm 30 của thế kỷ XVI, triều Mạc đã tạo ra được một thời kì ổn định
và phát triển của xã hội. Ngay sử chính thống của triều Lê trên lập trường
đối địch với triều Mạc cũng phải ghi nhận những thành quả mà vương triều
Mạc tạo ra từ năm 1532: “Từ đấy, người buôn bán và người đi đường đều đi
tay không, ban đêm không có trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem
về, chỉ mỗi tháng kiểm soát một lần, hoặc có sinh đẻ cũng không thể biết là
vật của mình. Trong khoảng vài năm đường xá không nhặt của rơi, cổng
ngoài không đóng, thường được mùa to, trong cõi tạm yên” [20, 126]. Trong
bối cảnh xã hội đương thời, thậm chí ngay cả trong xã hội hiện đại, nhà Mạc
có thể làm được một điều đáng ghi nhận và trân trọng. Bởi với mỗi vương
triều, cái cốt yếu là tạo ra và đảm bảo cho nhân dân có cuộc sống ấm no,
thanh bình.

Trong các chính sách đối nội, nhà Mạc có nhiều thay đổi có ý nghĩa
tiến bộ. Năm 1553, nhà Mạc ban hành chính sách mới quy đinh: ruộng quan
và ruộng chùa của các làng xã, ngoài phần cấp cho binh sĩ, “còn bao nhiêu
ruộng sẽ theo số người trong xã mà chia đồng đều” [10, 280]. Đây là chính
sách rất tiến bộ đặc biệt là so với chế độ quân điền của nhà Lê, nó tôn trọng
truyền thống cộng đồng làng xã hơn và có lợi cho dân chúng hơn. Các hoạt
động công thương nghiệp cũng có phần khởi sắc, nhiều chính sách thông
thoáng, thương nhân được đi lại buôn bán thuận lợi, tiền đúc nhiều, chợ mở
19


nhiều nhất là các thị trấn ở miền giáp ranh. Nhiều ngành nghề truyền thống
được khôi phục, nhất là nghề gốm sứ phát triển, lò gồm được mở nhiều đáp
ứng nhu cầu trong nước và còn phục vụ cho việc giao lưu buôn bán với
nước ngoài.
Triều Mạc cũng đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực văn hóa. Tuy trong
hoàn cảnh đất nước khó khăn, chiến tranh liên miên, nhưng triều đình vẫn
mở đều các kì thi hội. Trong hơn 60 năm cầm quyền (1527 - 1592), triều
Mạc, theo Đại Việt lục triều đăng khoa lục, đã mở 22 kỳ thi hội, lấy đỗ 483
tiến sĩ. (100 năm trị vì của triều Lê (1428 - 1527) mở được 31 kỳ thi hội, lấy
được 647 tiến sĩ). Điều đó chứng tỏ sự quan tâm và chủ trương tiến bộ cho
sự phát triển của đất nước. Có thể nói sau một thời gian ổn định lại tình hình
nhà Mạc đã có những thành tựu đáng kể góp phần làm cho quốc thái dân an.
Những chính sách tiến bộ của nhà Mạc đã có tác động sâu sắc đến nhận thức
của các Nho sĩ bấy giờ trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm. Vì vậy, năm 1535,
khi đã 44 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm quyết định đi thi, ông đỗ đầu các kì thi
và trở thành Trạng nguyên ở tuổi ngoài 40. Sau khi đỗ Trạng nguyên, ông
hăng hái ra làm quan với nhà Mạc với mong muốn đem hết khả năng trí tuệ
của mình để góp phần xây dựng một đất nước đẹp giàu, thỏa ước nguyện
xây dựng một xã hội “thái bình thiên tử thái bình dân”.

Do yêu cầu tất yếu của lịch sử cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, tình
hình thế giới có những bước chuyển biến có ý nghĩa bản lề trong mối quan
hệ giữa phương Đông và phương Tây có ảnh hưởng to lớn đến xu thế phát
triển của các nước phương Đông. Ở phương Tây, cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ
XV, mầm mống tư bản chủ nghĩa đã phát triển ở một số nước. Sau quá trình
tích lũy nguyên thủy, đầu thế kỷ XVI chủ nghĩa tư bản đã ra đời ở những
nước tiên tiến của Châu Âu, tiếp đó sang thế kỷ XVI, XVII, XVIII chủ
nghĩa tư bản lần lượt thắng lợi ở nhiều nước tạo nên một cục diện mới trên
phạm vi thế giới.

20


Sau những phát kiến địa lí cuối thế kỷ XV, từ đầu đầu thế kỷ XVI, chủ
nghĩa tư bản phương Tây đã tràn sang phương Đông. Từ thế kỷ XVI, nước ta
bắt đầu tiếp xúc với các thuyền buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan...
ngoài sự tiếp xúc về kinh tế, nhiều tư tưởng văn hóa cũng bắt đầu du nhập vào
Việt Nam.
Trong khi đó như ta đã biết từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt
Nam với cơ cấu kinh tế - xã hội, thiết chế chính trị xã hội và hệ tư tưởng
Nho giáo của nó đã bộc lộ sự trì trệ và bất cập so với xu thế chung của thời
đại. Xã hội Việt Nam ở trạng thái cái mới chưa xuất hiện, cái cũ thì chưa
mất đi, mọi thứ trở nên xáo trộn, không còn cái tôn ti trật tự vốn có của
Khổng Giáo, cương thường đạo lí sụp đổ, nền kinh tế hàng hóa bắt đầu
manh nha, đồng tiền trở thành nguồn sức mạnh to lớn có thể điểu khiển
được cả xã hội. Những bậc nho sĩ bấy giờ như Nguyễn Bỉnh Khiêm bất lực
trước thời cuộc đảo điên.
Mặc dù có nhiều cố gắng, có nhiều tiến bộ trong buổi đầu khởi
nghiệp, tuy nhiên nhà Mạc cũng không tìm ra một mô hình mới cho chế độ
phong kiến Việt Nam. Những mâu thuẫn nội tại của chế độ quân chủ theo

mô hình Nho giáo tiếp tục phát triển dẫn đến nạn chia cắt đất nước và nội
chiến phong kiến kéo dài làm cho quốc gia thống nhất bị phá vỡ và đời sống
nhân dân cực khổ. Thiết chế truyền thống dựa trên quan hệ cộng đồng nhà làng - nước bị suy yếu, còn một thiết chế mới xây dựng trên cơ sở phát triển
mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa, gắn liền độc lập dân tộc và thống nhất quốc
gia lại chưa có điều kiện được hình thành.
Chính những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội trên ảnh hưởng rất
sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh ra và lớn lên
trong thời thế này, ông đã chứng kiến cái hiện thực rối ren của xã hội. Trong
cuộc đời dài ngót một thế kỷ, ông đã trải qua bao nhiêu thay đổi, hưng vong
của các triều đại, của xã hội. Cũng như nhiều người chân chính thời đó, ông
không thể dùng tài năng của mình xây dựng lại kỷ cương, thời thế. Con
21


đường xuất thế của ông là con đường tất yếu của những bậc sĩ phu ưu thời
mẫn thế trong thời buổi nổi loạn bấy giờ. Sau 8 năm làm quan, trở về với
cuộc đời thanh bạch chốn ruộng vườn, tuy nhiên đằng sau sự ẩn dật tưởng
chừng như lánh đời đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn dõi theo thời cuộc, vẫn đi
cùng cuộc đời, thấu được những nhân tình thế thái để rồi chiêm nghiệm, đúc
kết và đưa lên trình độ triết học, đặc biệt ông đã khái quát thành những tư
tưởng triết học biện chứng rất tiến bộ. Những tư tưởng đó được thể hiện qua
thơ văn của ông, là sự trải lòng của một trí sĩ nhưng chứa đựng một kho tàng
tri thức, gồm những quan niệm vũ trụ, nhân sinh đúng đắn, sự vận động biến
đổi của đất trời, thời thế. Ôn Đình Hầu Vũ Khâm Lân trong bài Phả kí có
viết: “Còn như tiên sinh: sẵn có tư chất thông tuệ, thêm vào đạo học thánh
hiền, ví thử đắc thời để mà thi thố sở học chắc sẽ tạo ra được cảnh trị bình,
thay đổi phong tục phù bạc thành ra lễ nghĩa văn minh. Thế mà trái lại: một
người có đức đủ phò tá nghiệp vương lại sinh ra giữa thời bá giả, thành ra sở
học trở nên vô dụng, thực đáng tiếc thay” [44, 634].
Nguyễn Bỉnh Khiêm không có cơ hội để cống hiến hết tài năng cho sự

nghiệp phò vua giúp nước, nhưng bằng tài năng và trí tuệ uyên thâm ông đã
để lại cho đời những áng văn thơ bất hủ, những cấu sấm kí nổi tiếng và hơn
nữa là hệ tư tưởng triết học biện chứng có giá trị sâu sắc. Cho đến nay nhiều
tư tưởng của ông vẫn còn nguyên giá trị và đóng góp một phần to lớn vào
dòng chảy lịch sử tư tưởng nước nhà.
1.1.3. Điều kiện tinh thần xã hội
Trong bài Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhà Mạc, Trần
Khuê có đưa ra lời bình sắc sảo về sự có mặt của cả ba hệ tư tưởng
Nho, Phật, Đạo trong thơ của Nguyễn BỉnhKhiêm: “Điều thú vị là
Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân từ cửa Khổng, ông đi ngang qua sân
nhà Lão Tử, rồi dừng lại trước cửa Thiền, suy ngẫm về giáo lý và đạo
lý; cuối cùng ông đã trở về với ruộng đồng và lũy tre xanh của làng

22


quê Việt Nam, hay nói khác đi, ông đã trở về với dân tộc. Suốt đời
ông, ông đã sống như mình cần sống và đã hành động như mình cần
hành động”. Xét cho cùng, đối với các nhà nho Việt Nam từ Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du cho đến Nguyễn Đình Chiểu
đều chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho, Phật, Lão. Có điều là mức độ ảnh
hưởng ít hay nhiều, đậm hay nhạt có khác nhau tùy theo quan niệm
của từng cá nhân và thời đại.
Ngay từ thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành, Nguyễn Bỉnh
Khiêm nhận được sự giáo huấn trong một gia đình và môi trường Nho
học. Tinh thần Khổng giáo thấm nhuần trong ông khi ông được tiếp
nhận những bài học từ danh nho Lương Đắc Bằng. Và kết quả của
bao năm khổ luyện từ “cửa Khổng sân Trình” là nho sĩ đã chiếm bảng
vàng trong ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình. Giải nguyên, Hội
nguyên, Trạng nguyên không chỉ là sự thỏa chí công danh nơi ông mà

còn minh chứng rằng ông đã thành đạt từ một nền giáodục của Nho
giáo.
Nho giáo từ lúc thâm nhập vào Việt Nam cho đến nay đã trở
thành một phần truyền thống văn hoá Việt. Những tư tưởng quý báu
của Nho giáo đi vào tâm hồn, tình cảm người Việt và trở thành tư
tưởng chính thống của các nhà Nho. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng
bước vào cửa Nho nên việc tiếp nhận có sáng tạo học thuyết Nho giáo
là một điều tự nhiên.
Xét về bản thể luận, tư tưởng của Khổng Tử là triết lý định
mệnh, Khổng Tử đã từng nói : “Người quân tử có ba điều sợ: sợ mệnh
trời, sợ vương công đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân”. Cái sợ đầu
tiên của con người khi sống trên cõi đời là “mệnh trời”. Bản thân
Khổng Tử cũng từng khẳng định: “Học thuyết của ta có thực hiện
được hay không là do số mệnh, học thuyết của ta không thể thực hiện
được cũng là do số mệnh…”. Mọi việc đều do ý trời. Họa hay phúc,
23


may hay rủi, vui hay buồn, giàu hay nghèo… tất cả đều do thiên mệnh
tiền định. Ảnh hưởng tư tưởng đó của Khổng Tử, Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng cho rằng “ông trời” là chúa tể của muôn loài. Muôn loài
sinh sinh hóa hóa đều do trời. Trời điều hòa sự vận hành của vũ trụ.
Vũ trụ lạnh lẽo hay ấm áp, hạn hán hay lũ lụt đều do bàn tay của ông
trời sắp đặt, san sẻ, bù đắp:
“Công nhờ trời đất ơn còn rộng,
Che chở điều hòa kẻo chiếu chăn.”
(Thơ Nôm, bài 20)
Ngoài ra, quan niệm về thiên mệnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm
còn được đặt căn bản trên triết lý Kinh Dịch. Dịch là triết lý “động”.
Theo Dịch thì mọi vật đều biến đổi không ngừng, vận hành liên tục

theo qui luật tự nhiên như hoa nở rồi hoa tàn, ngày đi đêm lại, xuân
sinh hạ trưởng, thu liễm đông tàn….Qui luật tự nhiên điều khiển chặt
chẽ vũ trụ, xã hội, con người cho nên con người phải hiểu lẽ biến
động đó mà thuận theo tự nhiên, tùy thời mà hành xử, tránh đôi co,
tránh “ chen lấn làm chi cho nhọc nhằn?”(Thơ Nôm, bài 87), tránh bi
quan chán nản:
“Chẵn lẻ đầy vơi ấy sự thường,
Thừa trừ tiêu trưởng khí âm dương…”
(Cảm tưởng khi đọc Chu dịch - Nguyễn Khuê dịch)
Xét về chính trị-xã hội, triết lý của Khổng Tử với tam cương ngũ
thường đã buộc chặt con người vào gia đình và xã hội. Đạo Khổng
xem gia đình là một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con
người: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Đạo quân thần, phụ tử,
phu phụ, huynh đệ, bằng hữu là gốc của đạo đức Nho gia. Cũng như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến và nhiều nhà nho khác, Nguyễn Bỉnh
Khiêm luôn mang nặng trong lòng hai chữ “trung quân”, lúc nào cũng
canh cánh một điều: “Lộc nặng ơn nhờ đức thánh minh”(Thơ Nôm,
24


bài 125), lúc nào cũng khăng khăng một niềm: “Lui tới thìn cho phải
đạo trung”(Thơ Nôm, bài 119), và vì trung quân nên lúc nào cũng
muốn thực hiện lý tưởng “trị quốc, bình thiên hạ”:
“Xã tắc nguy ngập nghiêng đổ, ra sức phù trì,
Tuổi già chẳng ngại, gắng gỏi ruổi rong…”
(Thơ cảm hứng-bài 5)
Các sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều đề cập tới thuyết tam
cương, ngũ thường. Ông đã từng khẳng định: “Tôi lúc nhỏ chịu sự
dạy dỗ của gia đình….”(Bài tựa tập thơ am Bạch Vân) cho nên khi
viết về những tình cảm gia đình, ông viết bằng một tình

cảm chân thật, giản dị và trong sáng. Đạo làm con, đạo vợ chồng, tình
anh em, nghĩa bằng hữu chẳng những là đạo đức Nho gia mà còn là
truyền thống văn hoá tốt đẹp của con người Việt Nam, là bài học giáo
dục cho con người ở mọi thời đại.
Bên cạnh học thuyết của Khổng Tử, học thuyết tính thiện của
Mạnh Tử cũng thấm sâu trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Theo Mạnh Tử, đã là con người thì ai cũng có tính thiện, tính thiện
nằm sẵn trong con người. Lòng thương xót đó là tiền đề của tính
thiện. Cái tâm là biểu hiện của tính thiện.
“Ở có đức lành hơn ở dữ,
Yêu nhau chăng đã một luân thường”
(Thơ Nôm, bài 77)
Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm nhuần tư tưởng Nho giáo. Do đó, dù
sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông vẫn tin tưởng “Người ta tính
vốn thiện” ; dù chứng kiến bao cảnh đau lòng đang diễn ra trước mắt,
người thầy đạo cao đức trọng vẫn khám phá ra một điều “May là
trong lòng người điều thiện chưa hề mất hết”(Bài bia ký quán Trung
Tân). Chỉ khi nào tính thiện bị vật dục che lấp thì tính thiện mới

25


×