Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đức và tài TRONG NHÂN CÁCH NGƯỜI cán bộ, ý NGHĨA của vấn đề TRONG bồi DƯỠNG PHẨM CHẤT NĂNG lực CHO đội NGŨ cán bộ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.18 KB, 11 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỨC VÀ TÀI TRONG NHÂN CÁCH
NGƯỜI CÁN BỘ. Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ TRONG BỒI DƯỠNG PHẨM
CHẤT – NĂNG LỰC CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HIỆN NAY
Hồ Chí Minh là người khổng lồ về nhiều lĩnh vực, người anh hùng dân tộc,
nhà tư tưởng, nhà giáo dục, nhà văn hóa, nhà thơ và là nhà lãnh tụ thiên tài của
dân tộc Việt Nam. Di sản văn hóa của người để lại chính là kho tàng tri thức trên
nhiều lĩnh vực, giá trị của nó luôn hiện hữu trong chính cuộc sống, hoạt động
thường ngày của mỗi con người.
Trong tư tưởng Hồ Chí minh, nhân cách là một vấn đề trung tâm trong hệ giá
trị về con người. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một tấm gương sáng, biểu
tượng sáng ngời về phẩm chất và năng lực của người anh hùng dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân cách có ý nghĩa to lớn cả lý luận
và thực tiễn, là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm của
Người về nhân cách là kết hợp hài hòa truyền thống của dân tộc Việt Nam với tiếp
thu những tinh hoa của nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo của C.Mác,
F.Ăng-ghen và V.I.Lê-nin. Những luận giải về nhân cách của Người đến nay đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và nhận định: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân
cách là hệ thống, khoa học, nhân văn và toàn diện nhất. Đó là cách tiếp cận đi từ
nhận thức về nhân cách, cấu trúc nhân cách, con đường hoàn thiện nhân cách, đặc
biệt là đối với nhân cách của người cán bộ cách mạng.
Tâm lý học nghiên cứu nhân cách không chỉ nghiên cứu những tư tưởng nhân
cách Hồ Chí Minh đã để lại mà còn nghiên cứu một nhân cách hoàn hảo Hồ Chí
Minh. Trong phạm vi bài thu hoạch này xin được trình bày: Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đức và tài trong nhân cách người cán bộ và ý nghĩa của vấn đề trong bồi
dưỡng phẩm chất – năng lực cho đội ngũ cán bộ hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài trong nhân cách người cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, “đức”, và “tài” là hai mặt cần thiết tạo nên nhân cách
hoàn chỉnh của người cán bộ, và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
1



người nói: “có tài phải có đức, có tài mà không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho
nước. Có đức mà không có tài, như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì
được ai”.
Do vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải có đủ đức và tài. Tuy
nhiên, trong hai mặt đó Người nhấn mạnh đến đức nhiều hơn và cho rằng đức
phải có trước tài. Quan niệm như vậy hoàn toàn phù hợp với truyền thống của
người phương Đông nói chung, của người Việt Nam nói riêng (trọng phẩm hơn
trọng lượng).
Trước hết nói về đức, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, “đức” của người cán
bộ không phải là đạo đức chung chung, mà là đạo đức cách mạng – đạo đức của
người cộng sản, đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa. Người coi đạo đức
cách mạng là nền tảng, là cái “gốc” của nhân cách người cán bộ.
Người viết: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Có
cái gốc đó sẽ giúp cho người cán bộ vượt qua được mọi khó khăn, gian khổ, hy
sinh để hàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho. Có cái gốc đó
người cán bộ mới thực sự trở thành tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
Đạo đức Hồ Chí Minh khác với đạo đức cũ. Nó không phải là đạo đức thủ
cựu, mà là đạo đức mới được lành thành và phát triển cùng với sự nghiệp cách
mạng và phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Nó khác với đạo đức cũ bởi tính cách
mạng của nó. Tính chất của đạo đức mới là mình vì mọi người và mang tính truyền
thống dân tộc. Đạo đức mới không phải là danh vọng cá nhân, mà là lợi ích chung
của Đảng. của dân tộc, của loài người. Đạo đức mới được hình thành và phát triển
cùng với sự nghiệp cách mạng và phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Đạo đức mới thể hiện nguyên tắc “mình vì mọi người” và được kế thừa những tinh
hoa truyền thống đạo đức của dân tộc: “Thương người như thể thương thân”, “Đói
2



cho sạch, rách cho thơm”, “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “Chết trong còn hơn
sống đục”. Thuyết “Tư thân” của Khổng Tử thực tế khuyên con người trốn tránh
thực tế ngang trái, bất công, không hành động để cải tạo hiện thực và chui vào cái
vỏ ốc của đạo đức. Nội dung đạo đức Hồ Chí Minh nêu ra hoàn toàn khác xa với
đạo đức cũ. Nó được hình thành và thử thách trong cuộc sống đấu tranh cách mạng,
trong việc hoàn thành những nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. “đức” mà Hồ Chí
Minh nêu ra là sự kết hợp nhuần nhuyễn cái tinh hoa của truyền thống đạo đức dân
tộc và đạo đức cách mạng là hiện thân của phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công
nhân của dân tộc Việt Nam.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng là có một trong những điều kiên cơ bản
nhất để tạo nên uy tín lớn cho bản thân mình. Vì vậy, đạo đức cách mạng cũng là
một trong những cơ sở để người cán bộ có thể giáo dục, thuyết phục và lãnh đạo
được quần chúng nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng không phải
cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu mến
những người có tư cách đạo đức.
Hồ Chí Minh chỉ ra nội dung của đạo đức cách mạng là: Yêu nước, yêu nhân
dân, yêu lao động, yêu chủ nghĩa xã hội. Quyết tâm thực hiện nhũng nhiệm vụ có
ích cho cách mạng, cho xã hội.
Người nói: "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành,
khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào đánh thắng".
Vì sự nghiệp đất nước, vì lợi ích chung, lợi ích mọi người mà thực hiện
nhiệm vụ. Muốn vậy phải gạt bỏ lợi ích cá nhân, ích kỷ, phục vụ cho lợi ích chung.
Đạo đức không tách rời tài năng. Người nói con người có đức mà không có
tài khác nào như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích được ai. Có tài mà không
có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì
chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa.

3



Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng cũng không có
lợi gì cho loài người.
Từ nội dung này Người khái quát “đức” của người cán bộ thể hiện là: Ở bất
cứ cương vị nào, làm bất cứ công việc gì, cũng không sợ khó, sợ khổ, cũng một
lòng một đạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân. Cũng nhằm mục
đích xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trên cơ sở nội dung khái quát đó, Hồ Chí Minh
chỉ ra những phẩm chất cụ thể của người cán bộ. Tiếp cận từ góc độ tâm lý học thì
những phẩm chất đó có thể chia thành hai nhóm: Nhóm động cơ – mục đích và
nhóm thái độ hành vi. Theo Hồ Chí Minh, những động cơ, mục đích xuyên suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của người cán bộ là tinh thần vì Đảng, vì dân, vì lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Người đã chỉ ra phẩm chất quan trọng
hàng đầu của người cán bộ là lòng trung thành với Đảng với cách mạng và nhân
dân. Người viết: “ đạo đức cách mạng là lòng trung thành với cách mạng, một lòng
một dạ phục vụ nhân dân và vô luận việc gì, vô luận lúc nào cũng phải đặt lợi ích
của cách mạng ra trước, lợi ích của cá nhân ra sau.
Đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở những đức tính tốt của người cán
bộ. Đó chính là hệ thống thái độ hành vi của người cán bộ trong các mối quan hệ xã
hội (với Đảng, với dân, với kẻ địch, với cộng sự và cấp dưới, với công việc và với
chính bản thân mình).
Đối với Đảng, người cán bộ phải quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng, đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân.
Đối với dân, người cán bộ phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì nhân
dân mà đấu tranh quên mình, thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Đối với kẻ địch, người cán bộ phải có tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi kẻ thù. Người xác định có ba loại kẻ thù mà người
cán bộ phải kiên quyết đấu tranh chống lại đó là: chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc;
4



thói quen và truyền thống lạc hậu; chủ nghĩa cá nhân và tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn
nấp trong mình mỗi cán bộ, đảng viên. Tinh thần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh
chống lại kẻ thù là một trong những đức tính tốt đẹp mà Hồ Chí Minh rất quan tâm.
Vì vậy, Người đã nhấn mạnh: “đạo đức cánh mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào,
cũng phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ thù, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng
chiến đấu, không chịu cúi đầu.
Đối với nhiệm vụ và công việc, người cán bộ phải tận tụy, chí công vô tư,
phải dũng cảm, không sợ khó khăn, gian khổ, hy sinh, quyết tâm hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.
Đối với cộng sự và cấp dưới, người cán bộ phải đoàn kết, thân ái, giúp đỡ, có
tinh thần đấu tranh phê bình thẳng thắn để cùng nhau tiến bộ ; cư xử trong các mối
quan hệ phải có thái độ tôn trọng và rộng lượng. Riêng trong quân đội, Hồ Chí
Minh đòi hỏi người cán bộ phải đồng cam cọng khổ với binh sĩ, phải thường xuyên
quan tâm tới đời sống của họ. Nếu là người cán bộ chính trị thì phải “thân thiết như
người chị, công bình như người anh, hiểu biết như một người bạn”
Đối với bản thân (đối với tự mình), người cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, khiêm tốn, có tinh thần đấu tranh tự phê bình để tẩy sạch những
khuyết điểm, có tinh thần tích cực tự học tập, rèn luyện để trau dồi đạo đức cách
mạng và nâng cao năng lực công tác.
Phải có tri thức, luôn luôn phải xem xét, nghiên cứu, học hỏi, có tình cảm
cách mạng, có ý chí cách mạng, cả quyết nhẫn nại, phải có nhu cầu phù hợp, ít lòng
ham muốn vật chất, phải có lập trường, giữ chủ nghĩa cho vững, phải có lý tưởng.
Phải có nét tính cách tốt: cẩn thận, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không
hiếu danh, không kiêu ngạo.
Theo Hồ Chí Minh: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm là những phẩm chất cốt lõi
trong nhân cách người cán bộ. Những phẩm chất này biểu hiện cụ thể là:

5



Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đùm chí đồng bào... sẵn lòng
chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham
giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền. Nhưng người đã không ham,
không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được.
Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì
phải giấu đoàn thể, Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo toan.
Trí là không có việc gì tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch
sáng suốt; dễ hiểu lý; dễ tìm phương hướng; biết xem người, biết xét việc. Vì vậy
mà biết làm việc có lợi tránh việc có hại cho đoàn thể.
Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết điểm
phải có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những
sự vinh hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mệnh
cho đoàn thể: cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát.
Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng,
không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà quang minh chính đại, không bao giờ
hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham làm và ham tiến bộ.
Có thể so sánh quan niệm của Hồ Chí Minh và Khổng Tử về đạo đức. Khi
nói đến đạo đức của con người Khổng Tử cũng nêu lên 5 đức tính: Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín.
Mặc dù quan niệm của Khổng Tử về năm đức tính đó là tiến bộ trong thời
đại của ông. Nhưng thực chất cũng chỉ nhằm phục vụ cho giai cấp thống trị. Ông đề
cao đại nhân. Còn tiểu nhân vẫn bị ông coi thường. Điều khác nội dung đạo đức
của Khổng Tử là lễ và tín, so với Hồ Chí Minh là dũng, liêm. Điều này thể hiện
tính chất cách mạng trong quan niệm đạo đức của Hồ Chí Minh. Con người có
phẩm chất dũng cảm, có ý chí mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng và xã hội
giao cho. Người cán bộ tiêu chuẩn quan trọng phải là liêm khiết không tham ô,
tham nhũng mới có thể gọi là con người có đạo đức.
6



Mặt khác, nội dung nhân nghĩa từ tư tưởng của Hồ Chí Minh mang tính nhân
dân và thực tiễn sâu sắc so với Khổng Tử.
Về tài (năng lực), Hồ Chí Minh cho rằng, làm bất cứ công việc gì cũng phải có
năng lực về việc đó. Không có năng lực thì “làm việc gì cũng khó” thậm chí không
thể thực hiện được. Người cán bộ cách mạng có nhiệm vụ rất trọng đại là giáo dục
quản lý và lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ của Đảng, của cách mạng, do đó
càng đòi hỏi phải có năng lực.
Yếu tố đặc trưng nhất trong năng lực người cán bộ, theo quan niệm của Người
là “trí”. Trí bao hàm hai nội dung sau:
Thứ nhất, Trí là trí tuệ sâu sắc, tư duy linh hoạt mưu trí sáng tạo, biết nhìn cho
rộng, biết suy cho kỹ.
Thứ hai, trí là trí thức sâu rộng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh yêu cầu người
cán bộ phải có tri thức về mọi mặt: văn hóa, chính trị, lý luận, kỹ thuật, chuyên
môn, đồng thời Người cũng đòi hỏi, những tri thức đó phải thiết thực nhằm “giải
quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra”, chứ không phải để phô trương với
mọi người.
Năng lực của người cán bộ còn được thể hiện ở trình độ thành thạo trong thực
hiện nhiệm vụ của họ. Người nói: “không phải ai cũng huấn luyện được. Muốn
huấn luyện thợi rèn, thợ nguội thì phải thạo nghề rèn, nghề muội”. Trình độ thành
thạo ở đây được hiểu là các kỹ năng hành động. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình đòi hỏi người cán bộ phải có một hệ thống kỹ năng kết hợp giữa lý luận với
thực tiễn. Lý luận liên hệ với thực tiễn là khi dạy hoặc học về lý luận phải nhằm
vận dụng vào thực tế; khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng
những kết luận mới rút ra từ thực tiễn.
Năng lực của người cán bộ còn được thể hiện ở kỹ năng quản lý sử dụng con
người sao cho phù hợp với khả năng và sở trường của họ. Hồ Chí Minh nói:
“Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp
7



người sửa chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to,
nhỏ, thẳng, cong, đều tùy chỗ mà dùng được”. Cách dùng người như vậy vừa thể
hiện thái độ khoa học và nhân đạo và khoa học của người cán bộ đối với quần
chúng, vừa đem lại hiệu quả cao trong công việc. Đây chính là nghệ thuật dùng
người của Hồ Chí Minh.
Một trong những kỹ năng trong thành phần năng lực của người cán bộ là kỹ
năng sư phạm (kỹ năng giáo dục cảm hóa và kỹ năng huấn luyện quần chúng). Đây
là một trong những kỹ năng quan trọng mà người cán bộ phải có. Bở vì, theo Hồ
Chí Minh: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước”. Vì vậy, Người đòi hỏi: “người huấn luyện phải làm kiểu mẫu về mọi mặt”
và người chỉ huy trong quân đội “phải biết cách dạy bộ đội đánh giặc”.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, nhân cách của người cán bộ là một thể hoàn
chỉnh bao gồm cả đạo đức cách mạng và năng lực tiến hành công việc. Giữa năng
lực (tài) và phẩm chất (đức) luôn gắn liền với nhau và có sự tác động qua lại lẫn
nhau. Năng lực phải dựa trên cái gốc, cái nền tảng là đạo đức cách mạng, phỉa
hướng vào thực hiện tốt mực tiêu lý tưởng “phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân”. Còn đạo đức cách mạng phải được thể hiện trong năng lực và hiệu quả tiến
hành công việc.
2. Vấn đề rút ra trong bồi dưỡng phẩm chất – năng lực cho đội ngũ cán bộ
hiện nay
Chúng ta đều biết rằng, Hồ Chí Minh không trực tiếp đề cập tới khái niệm
nhân cách. Song những bài viết và bài nói của Người đều toát lên tinh thần và nội
dung của khái niệm này. Qua nghiên cứu những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh,
chúng ta nhận thấy rằng, những tư tưởng của Người về đức và tài trong nhân cách
người cán bộ thật sâu sắc và đúng đắn. Những tư tưởng này không phải là những
lời nói suông, mà nó được đúc rút ra từ chính cuộc đời và sự nghiệp của Người.
Trong khi Hồ Chí Minh đòi hỏi trong nhân cách người cán bộ phải có đủ đức và tài,
thì chính Người là một tấm gương lớn để mọi người noi theo. Chính vì vậy, Tuy
8



rằng không chuyên sâu, nghiên cứu về nhân cách nhưng những quan điểm tư tưởng
về nhân cách của Người có sức thuyết phục rất lớn. mỗi người cán bộ chúng ta cần
lấy đó làm mục đích, làm mô hình nhân cách để phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình quốc tế và trong nước đang diễn ra vô
cùng phức tạp. Đảng ta đã nhận định: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu
hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có những
mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt”.
Rõ ràng, trong điều kiện hiện nay, chăm lo, củng cố tiềm lực quốc phòng của đất
nước, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, xây dựng quân đội nói
riêng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong đó nhân tố con người giữ một vị trí
nổi bật. Để đáp ứng yêu cầu khách quan trên, đòi hỏi người cán bộ, sĩ quan, quân
đội nói riêng và người cán bộ đảng viên nói chung phải có đầy đủ phẩm chất, năng
lực đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, hiện nay việc phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và học tập tư tưởng và
tấm gương của Người ở một bộ phận cán bộ đảng viên còn nhiều hạn chế và bất
cập. Sự hội tụ của hai yếu tố “đức” và “tài” trong nhân cách một số cán bộ đảng
viên chưa thực sự cân đối, hài hòa hay không muốn nói là sự thiếu lệch một trong
hai yếu tố.
Nhiều người, mặc dù rất ngưỡng mộ và tôn trọng cuộc đời, sự nghiệp và tư
tưởng Hồ Chí Minh, song lại chưa thường xuyên phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện
theo. Nguyên nhân có thể do họ ngại phải đối mặt với khó khăn gian khổ, ngại phải
đối mặt với thử thách về thể lực và ý chí hay có thể vì cái chủ nghĩa cá nhân vẫn
còn quá lớn trong tư tưởng của họ; hoặc cũng có thể họ sống trong một tập thể mà
không có sự đòi hỏi cao lẫn nhau; một tập thể bình quân chủ nghĩa.
Trên thực tế hiện nay, những hiện tượng đáng báo động về “đức” trong nhân
cách người cán bộ như: tham ô, lãng phí, coi thường, thập chí trù dập quần chúng
nhân dân lao động; chỉ nghĩa đến lợi ích cá nhân mà không chăm lo tới việc chung,
9



không nghĩ tới lợi ích của tập thể, lối sống thiếu trong sạch, lành mạnh; không dám
đấu tranh với những sai trái của đồng chí đồng đội, không dám đấu tranh với hiện
tượng tiêu cực trong nội bộ và ngoài xã hội… đang là những mối nguy hại cho tập
thể nói riêng và cho cách mạng Việt Nam nói chung.
Tình hình trên đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần phải suy nghĩ một cách
thấu đáo và có những biện pháp cụ thể để bồi dưỡng phẩm chất – năng lực cho đội
ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Một là, làm tốt hơn nữa công tác giáo dục về chính trị, tư tưởng, đạo đức nói
chung, giáo dục về tư tưởng, tấm gương của Hồ Chí Minh nói riêng. Trong giáo
dục cần sử dụng những tấm gương sáng của cán bộ đảng viên trong việc phấn
đấu, tu dưỡng, rèn luyện để mọi người noi theo. Công tác giáo dục cần phải được
triển khai thường xuyên, liên tục sát, gần với từng đối tượng; làm sao để tạo ra
được động cơ cho mọi người nỗ lực, phấn đấu, chiếm lĩnh những giá trị tốt đẹp về
“đức”, ra sức học tập để luyện “tài” trong mọi lĩnh vực, công việc mà bản thân
tham gia.
Hai là, đội ngũ cán bộ cấp trên phải là tấm gương sáng cho cán bộ cấp dưới về
phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, về ý chí vươn lên trong việc tự học tập rèn
luyện để không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực cho mình. Tấm gương của
người cán bộ cấp trên luôn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với người cán bộ cấp dưới
và toàn thể quần chúng nhân dân lao động. Phải quán triệt và thực hiện theo
phương châm đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Có như vậy mới xây dựng
được lòng tin ở quần chúng nhân dân, xây dựng được không khí thi đua không chỉ
trong một ngành, một lĩnh vực mà rộng hơn là trong cả nước.
Người cán bộ phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt, phát triển
năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn công việc. “Đức” và “Tài”
luôn phải đi đối với nhau trong nhân cách người cán bộ theo quan điểm của Hồ Chí
Minh. Do đó, rèn đức phải luôn đi đôi với luyện tài. Học tập không chỉ phục vụ cho
10



công việc trước mắt, cho chức vụ đảm nhiệm mà học tập phải là một quá trình liên
tục, học tập suốt đời.
Ba là, các cấp, các ngành và mọi cán bộ đảng viên phải kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống lại mọi biểu hiện vi phạm
đạo đức cách mạng, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm kỷ cương của Nhà nước.
Xây phải luôn đi đôi với chống, lấy xây làm chính song không quên chống
bởi, những biểu hiện không phù hợp với đạo đức của người cán bộ, với chuẩn mực
của xã hội, truyền thống của dân tộc luôn là những nguy cơ tiềm ẩn tạo ra sự mất
đoàn kết, tạo ra lỗ hổng trong tập thể mà dẫn tới suy giảm, mất khả năng chiến đấu.
Bốn là, Mỗi cán bộ đảng viên cần phải tích cực nghiên cứu học tập tư tưởng
của Hồ Chí Minh nói chung và quan điểm, tư tưởng của Người về đức và tại trong
nhân cách người cán bộ nói riêng. Phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên hơn
nữa, phải thực sự cầu thị, kiến quyết đấu tranh với chính bản thân mình để gạt bỏ
những cám dỗ, nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hóa ra khỏi bản thân mình.

11



×