Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

QUAN điểm của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM về đổi mới tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.59 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn
hoá; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là
một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh
thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.
Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác
phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to
lớn xây dựng con người; vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu
văn hoá - tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Phát triển sâu rộng văn nghệ
quần chúng, đồng thời với tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật
chuyên nghiệp. Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn
học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc
các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết
ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các
thế lực thù địch.
Tài năng văn học, nghệ thuật và vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện,
bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách
nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức
trong hệ thống chính trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo
điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo
của văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn
nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn,
gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên
nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc.
Trên cơ sở đó, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt quan điểm của Đảng về
phát triển văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết đối
với mỗi tổ chức đảng, đảng viên. Và em lựa chọn chuyên đề nghiên cứu này
để có nhận thức sâu sắc hơn về sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn
học, nghệ thuật. Trong quá trình nghiên cứu tổng hợp, vẫn còn có những hạn




2

chế nhất định, em kính mong Cô giáo góp ý, chỉnh sửa để chuyên đề được
hoàn thiện hơn. Em trân trọng cảm ơn Cô giáo.
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Đổi mới
Đổi mới là cái vốn có của mọi vận động và phát triển trong tự nhiên, xã
hội cũng như trong tư duy. Bất kỳ sinh vật nào cũng luôn luôn tự Đổi mới để
thích nghi với những sự thay đổi của môi trường sống. Đối với xã hội, Đổi
mới là một phản ứng mang tính tự nhiên của xã hội để bảo đảm sự thích nghi
của nó trước những biến đổi môi trường tự nhiên, môi trường quốc tế, để
thích ứng với tình thế. Đổi mới là quá trình vận động tự nhiên của mọi hiện
tượng xã hội.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “Đổi
mới” trong sự vận dụng cụ thể vào Đổi mới đất nước. Người viết: “Công cuộc
Đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải
không ngừng Đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới, tình
hình trong nước vốn không ngừng biến đổi, Hồ Chí Minh viết: thế giới ngày
ngày Đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục
học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Đổi mới, theo Hồ Chí Minh, còn là để
thắng sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ. Dù đó là việc khó khăn, nhưng
chẳng có việc gì là không thể Đổi mới”.
Đổi mới còn là cách để thay đổi một phương thức sống, tạo lập một
phương thức sống mới, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển. Về vấn đề này, Hồ
Chí Minh viết: “Khi trước nhà nào lo làm nhà nấy, làm thế nào cũng được.
Nhưng bây giờ không phải như thế. Bây giờ mình phải Đổi mới nông thôn”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đổi mới và phát triển là những khái niệm rất
gần gũi, đôi khi được hiểu như nhau. Trong Báo cáo tại Hội nghị Chính trị đặc

biệt năm 1964, Người viết: “Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến
những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con
người đều Đổi mới”.


3

Vận dụng vào vấn đề mà chúng ta nghiên cứu “Đổi mới’ là thay cách
nghĩ, cách làm cũ lạc hậu, lỗi thời, không đáp ứng được nhu cầu phát triển,
bằng cách nghĩ, cách làm khác, tiến bộ hơn, hợp với quy luật của sự phát
triển.
Phân tích tình hình đất nước trong những năm cuối thập niên 70, đầu thập
niên 80 thế kỷ XX, Đại hội VI của Đảng ta đã nhấn mạnh: Đổi mới là vấn đề
có ý nghĩa sống còn. Sau khi nêu nội dung Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
Đổi mới chính sách xã hội,… Đại hội tập trung làm nổi bật nội dung Đổi mới
Đảng: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; Đổi mới tổ chức; Đổi mới
đội ngũ cán bộ; Đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác của Đảng. Từ đây,
“Đổi mới” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, trong sách báo
cũng như trong ngôn ngữ hằng ngày của nhân dân ta.
Trong 20 năm qua, nhận thức về “Đổi mới ở Việt Nam” cũng không
ngừng phát triển. Thời kỳ đầu, “Đổi mới” được hiểu như là những suy nghĩ,
những hành động riêng lẻ, cụ thể nhằm thay đổi một nhận thức, một cách làm
nhất định nào đó; càng về sau, càng nhận thức đầy đủ hơn về “Đổi mới” – đó
là vấn đề chiến lược lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; nó bao
quát toàn diện, không trừ lĩnh vực nào của quá trình đó.
Đổi mới là quá trình loại bỏ những gì kìm hãm và cản trở sự phát
triển, tổ chức lại xã hội, đưa vào cơ chế vận hành của xã hội một hệ thống
đồng bộ các yết tố vật chất và tinh thần, tạo nên lực lượng cho sự phát triển
vượt bậc. “Đổi mới” – đó là quá trình giải phóng mang ý nghĩa toàn diện
của từ đó – giải phóng về tư tưởng, giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng

mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng khả năng trí tuệ của nhân
dân,… để phục vụ cho sự phát triển con người, bảo đảm tự do, sáng tạo của
nhân dân.
“Đổi mới’ còn là quá trình sửa lại những nhận thức không đúng về
“cái cũ”, nhưng “cái cũ” ấy lại là cái đúng, để hiểu đúng nó hơn, vận dụng
có hiệu quả hơn vào thực tiễn mới.


4

“Đổi mới” còn là làm rõ cái gì là đúng của ngày hôm qua, nhưng do
hoàn cảnh đã thay đổi, ngày hôm nay không còn thích hợp, cần từ tổng kết
thực tiễn để khái quát lý luận nhằm bổ sung, phát triển nhận thức, phát triển
nền tảng tư tưởng của chúng ta. Nhờ vậy, nền tảng tư tưởng đó thực hiện có
hiệu quả hơn chức năng là cơ sở hoạch định và triển khai đường lối của Đảng,
thúc đẩy đất nước phát triển.
Như vậy, “Đổi mới” có mục tiêu lý luận và mục tiêu thực tiễn. Về lý
luận, Đổi mới nhằm xác lập hệ thống quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về thực tiễn, Đổi mới để xã
hội xã hội chủ nghĩa từng bước được xác lập vững chắc. Hai mục tiêu đó có
quan hệ biện chứng với nhau: Mục tiêu lý luận phục vụ cho mục tiêu thực
tiễn; mục tiêu thực tiễn vừa là yêu cầu, là đòi hỏi nâng cao chất lượng mục
tiêu lý luận, vừa là phương thức kiểm tra thành quả đạt được của mục tiêu lý
luận. Trong sự tác động qua lại đó, mục tiêu thực tiễn là cơ quan quan trọng
nhất.
Mục tiêu lý luận và thực tiễn đó cũng khẳng định rằng, chúng ta “Đổi
mới” nhưng không “đổi mầu”. Đổi mới để giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, để làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn
hơn và được xây dựng có hiệu quả cao hơn. Đổi mới không phải là xa rời chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là làm cho lý luận đó, tư tưởng

đó được nhận thức và vận dụng, phát triển sáng tạo hơn, mang lại kết quả
thiết thực hơn.
Đổi mới không phải là phủ định sạch trơn nhận thức và cách làm trước
đây cùng những thành tựu đã được tạo ra, mà là khẳng định những gì đã nghĩ
đúng, làm đúng, giữ lại những giá trị tích cực của quá khứ, lấy đó làm tiền đề
để Đổi mới, để tiến lên; đồng thời loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai, những
hậu quả do những sai sót đó tạo ra. Cho nên, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó
giúp chúng ta tránh những sai lầm hữu khuynh cũng như “tả” khuynh.


5

Gần nghĩa với từ “Đổi mới”, có từ “Cải tổ”, “Cải cách”.
“Cải tổ”, là tổ chức lại cho khác hẳn trước; là thay đổi căn bản và toàn
diện về tổ chức, thể chế, cơ chế… trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội
nhằm khắc phục hậu quả sai lầm trong quá khứ, đưa xã hội tiến lên.
1.2. Văn học, nghệ thuật
1.2.1. Văn học
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống
xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được thông qua sự hư
cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn ngữ. Khái
niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn chương và thường
bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, về mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có
nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương thường chỉ nhấn mạnh
vào tính thẩm mĩ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ
thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình
tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống.
Văn học có các thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,
kịch bản, lí luận phê bình. Văn học có lịch sử phát triển từ lâu đời, là sự phát

triển của văn học dân gian (hay văn học truyền miệng) và văn học viết.
Lịch sử của văn học viết là lịch sử phát triển của các bản viết bằng văn xuôi
hay thơ, đây là những loại nhằm mục đích giải trí, khai sáng hoặc chỉ dẫn cho
người đọc, người nghe. Không phải tất cả các loại bản viết đều là văn học.
Một số tài liệu ghi chép như các tài liệu biên soạn về dữ liệu không được xếp
vào văn học.
- Văn học là 1 bộ phận quan trọng của văn nghệ. Văn học theo nghĩa
rộng là thuật ngữ gọi chung mọi hành vi ngôn ngữ nói - viết và các tác phẩm
ngôn ngữ. Nó bao gồm các tác phẩm mà ngày nay có thể xếp vào loại chính
trị, triết học, tôn giáo . Với nghĩa rộng, văn học đồng nghĩa với văn hóa.


6

Văn học theo nghiã hẹp chỉ khái niệm văn hóa - nghệ thuật mà ta quen
dùng hiện nay. Nó bao gồm các tác phẩm ngôn từ có tính chất được sáng tác
bằng hư cấu, tưởng tượng. Như vậy khi hiểu văn học theo nghĩa hẹp chúng ta
đã loại ra ngoài các tác phẩm chính trị, triết học, tôn giáo. Văn học theo nghĩa
hẹp chính là văn chương.
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích sáng tác của văn
chương, đến vấn đề viết để làm gì, đến ý nghĩa xã hội của nó. Văn học là 1
hoạt động tinh thần không chỉ của người sáng tạo mà của cả người tiếp nhận,
thưởng thức. Nó mang những chức năng có ý nghĩa xã hội rộng lớn bởi "chức
năng là sự biểu hiện ra bên ngoài các đặc tính của một khách thể nào đó trong
một hệ thống các quan hệ nhất định".
1.2.2. Nghệ thuật
Nghệ thuật (tiếng Anh: art) là một loạt những hoạt động khác nhau của
con người và những sản phẩm do những hoạt động đó tạo ra. Bài viết này
chủ yếu tập trung vào các môn nghệ thuật thị giác, bao gồm việc tạo ra
những hình ảnh hay vật thể trong những lĩnh vực như hội họa, điêu khắc, đồ

họa in ấn, nhiếp ảnh, và những phương tiện truyền thông hình ảnh khác.
Nghệ thuật có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Nghệ thuật là sự sáng tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể
chứa đựng những giá trị lớn về tư tưởng-thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa
làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình cảm cho người thưởng thức. Theo ý
nghĩa này thường là các loại hình nghệ thuật khác nhau.
Nghệ thuật là cái hay cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác
quan từ đó ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng, kĩ năng, kĩ xảo cao vượt lên trên
mức thông thường phổ biến. Theo nghĩa này thường là một tác phẩm nghệ
thuật hoặc một nghệ sĩ cụ thể nào đó.
Được gọi là nghệ thuật là khi một nghề nghiệp nào đó được thực hiện ở
mức hoàn hảo với trình độ điêu luyện, thậm chí siêu việt. Chẳng hạn nghệ
thuật viết báo, nghệ thuật diễn thuyết, nghệ thuật nấu ăn, nghệ thuật đắc nhân


7

tâm, nghệ thuật dùng phím chuột của PC... Theo nghĩa này thường là một tài
khéo đặc biệt nào đó.
"Nghệ thuật đấy là ngữ cảnh địa phương của cá nhân và cộng đồng".
Đây là quan điểm đương đại về nghệ thuật và được đa số học giả chấp nhận.
Mọi sự miêu tả cảm tính bất kỳ một vật thể sống hay hiện tượng nào từ
giác độ trạng thái cuối cùng của nó, hay là dưới ánh sáng của thế giới tương
lai, sẽ là tác phẩm nghệ thuật.” Soloviev - nhà thơ triết gia vĩ đại người Nga
Một số khái niệm đi liền với nghệ thuật là nghệ sĩ, nghệ nhân
2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐỔI
MỚI PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
2.1. Tiếp tục khẳng định văn học, nghệ thuật là một bộ phận trọng
yếu của văn hóa dân tộc

Văn kiện Đảng hội VI khẳng định: "Không hình thái tư tưởng nào có
thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành
mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người”
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI (1987) xác định: "Văn hoá là
nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát
triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo
ra những giá trị văn hoá, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời
này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người (...) Văn học nghệ
thuật là bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hoá, thể hiện khát vọng của con
người về chân thiện mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm tâm hồn nhân cách
bản lĩnh của các thế hệ công dân xây dựng môi trường đạo đức trong xã hội,
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa".
Văn kiện Đại hội VII (1991) nêu rõ: "Văn học, nghệ thuật là một bộ
phận quan trọng trong nền văn hoá, gắn bó với đời sống nhân dân và sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo".
Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII khẳng định: "Văn học nghệ thuật là


8

một bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc, thể hiện khát vọng của nhân
dân về chân, thiện, mỹ".
Nghị quyết Trung ương 5 Khoá VIII coi văn học nghệ thuật là một
trong những lĩnh vực quan trọng nhất của văn hoá-nền tảng tinh thần của xã
hội.
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khoá X (2008) nêu rõ: “Văn học nghệ
thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá, là nhu cầu thiết
yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người”
2.2. Khuyến khích sáng tạo văn nghệ theo hướng đa dạng hoá về
phương pháp và phong cách sáng tác

Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI nêu rõ: "Đảng khuyến khích
văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những thể nghiệm
mạnh bạo và rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển sáng
tạo các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện".
Nghị quyết Trung ương khoá VIII (1998) tiếp tục khẳng định:
"Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp (sáng tác - NDB), mọi
phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh bổ ích
cho công chúng.".
Cùng với việc khuyến khích sáng tạo theo hướng đa dạng hoá là yêu
cầu coi trọng việc đảm bảo và phát huy tự do sáng tác chân chính cho văn
nghệ sỹ:
Văn kiện Đại hội Đảng VI nêu rõ: “Đối với trí thức, điều quan trọng
nhất là đảm bảo quyền tự do sáng tạo, đánh giá đúng năng lực và tạo điều
kiện cho năng lực được sử dụng đúng và phát triển”.
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI khẳng định: "Tự do sáng tác là
điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hoá văn nghệ, phát
triển tài năng.
Văn kiện Đại hội Đảng VII (1991) nêu rõ: "Khuyến khích tự do sáng
tạo văn học, nghệ thuật vì sự hoàn thiện con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình


9

cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, phấn
đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, phê phán những thói hư tật xấu, cái độc
ác, thấp hèn...".
Văn kiện Đại hội VIII (1996) yêu cầu: "Bảo đảm dân chủ, tự do cho
mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hoá, vun đắp các tài năng, đồng thời đề cao
trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại. Khuyến
khích, tạo điều kiện thúc đẩy sáng tác văn học, nghệ thuật phản ánh các nhân

tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án
cái xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ, phổ biến kịp thời các tác phẩm tốt"
.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII xác định: Vừa bảo đảm cho văn
hoá, văn học nghệ thuật... phát triển đúng định hướng chính trị tư tưởng của
Đảng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn
hoá, văn học nghệ thuật"
Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khoá IX (2004) tiếp tục khẳng định:
"Bảo đảm định hướng chính trị đi đôi với vận dụng đúng đắn những đặc trưng
của công tác văn hoá (...) tôn trọng tự do sáng tác, xây dựng quan hệ chân
thành cởi mở đối với đội ngũ những người hoạt động văn hoá, có chính sách
trọng dụng người tài đồng thời chăm lo định hướng chính trị và ý thức trách
nhiệm công dân nhằm phát huy cao nhất đóng góp của đội ngũ trí thức, văn
nghệ sĩ (...) cho sự nghiệp phát triển văn hoá"...
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị (khoá X) đã ghi nhận: “Tự do sáng tạo
nghệ thuật và sự đa dạng về nội dung, phong cách sáng tác, phương thức biểu
hiện được tôn trọng, dấu ấn con người, cá tính sáng tạo được khẳng định”
Như vậy, tinh thần chung của các chính sách, biện pháp mới trong
lãnh đạo và quản lý văn nghệ là “bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao
trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ” , tạo những điều
kiện vật chất và tinh thần để văn nghệ sĩ làm tốt vai trò xã hội và chức năng
cao cả của mình. Trân trọng nhân cách, tài năng và sự độc đáo của văn nghệ


10

sĩ, chu đáo, tế nhị, chân tình trong quan hệ đối xử, có cách làm việc thích hợp
với từng cá tính sáng tạo. Khắc phục “biểu hiện giản đơn, thô thiển, thiếu dân
chủ” , “tình trạng can thiệp thô bạo, tuỳ tiện, xâm phạm quyền tự do, dân chủ

của văn nghệ sĩ trong sáng tạo và hoạt động văn hoá, văn nghệ".
2.3. Xác định rõ những tiêu chuẩn, giá trị mới trong sáng tạo văn
nghệ
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII xác định: "Phấn đấu sáng tạo nhiều
tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm
nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ có tác dụng sâu sắc xây dựng con người
(...) Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Hướng văn
nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động chân thực và sâu sắc"
Chỉ thị 61 của Ban Bí thư khoá VI nêu rõ: "Cần căn cứ vào thực tế mà
quy định cụ thể hơn nữa định hướng trong Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị:
"Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp luật, không phản động (chống lại
dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hoà bình) và không đồi truỵ
(truyền bá tội ác, sự sa đoạ, phá hoại nhân phẩm) đều có quyền được lưu hành
và đặt dưới sự lãnh đạo, phán xét của công luận và sự phê bình".
Chỉ thị 18 của Ban Bí thư khoá IX (2003) Về tiếp tục thực hiện có hiệu
quả Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về công tác văn học, nghệ thuật trong
tình hình mới, đã nêu rõ: "Phát huy truyền thống cao đẹp của dân tộc và tiếp
thu tinh hoa văn hoá của thế giới, thực hiện tốt phương châm: lấy tác phẩm tốt
cổ vũ giáo dục con người và xã hội; tạo nguồn giải trí lành mạnh, đẩy lùi
những hoạt động văn nghệ phản động, đồi truỵ, phi nhân tính, phản dân tộc" .

2.4. Công tác tác quản lý nhà nước
Chỉ thị 61/CT-TW ngày 21-6-1990 của Ban Bí thư khoá VI yêu cầu: "Về
quản lý nhà nước, cần tạo thuận lợi cho việc sáng tác và công bố các tác phẩm
tốt, tăng kinh phí thích đáng, tạo điều kiện cho các hội văn học - nghệ thuật tiến
tới tự chủ, tự quản về tài chính, chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn


11


nghệ sĩ, giúp anh chị em có điều kiện đi sát cuộc sống, mua các tác phẩm văn
học - nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, đặt hàng xây dựng các công
trình và tác phẩm có ý nghĩa lịch sử xã hội quan trọng, tặng các giải thưởng văn
học, nghệ thuật, trợ cấp cho các nghệ sĩ có công đã già yếu và gia đình các
nghệ sĩ có công đã qua đời đang gặp khó khăn... cải tiến chế độ nhuận bút để
cho các nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống và yên tâm hoạt động sáng tạo bằng
tiền nhuận bút và phụ cấp nghề nghiệp".
Chỉ thị 18 của Ban Bí thư khóa IX (2003) tiếp tục nhấn mạnh: "Chính
phủ chỉ đạo Bộ Văn hoá - Thông tin phối hợp với các bộ, ngành có liên quan
nghiên cứu, đề xuất chính sách cụ thể giúp đỡ văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế
theo kế hoạch của từng loại hình văn nghệ. Vận động, xây dựng thành phong
trào các ngành, các địa phương hỗ trợ, giúp đỡ, cổ vũ văn nghệ sĩ bám cơ sở
để sáng tác; triển khai hoạt động bảo hộ quyền tác giả đối với các loại hình
văn học, nghệ thuật; xây dựng chính sách phát triển nghệ thuật truyền thống,
chính sách thu hút, khuyến khích các tài năng văn nghệ, cung cấp những điều
kiện thuận lợi để phát huy cao nhất tiềm năng lao động nghệ thuật. Nhà nước
tăng cường nguồn kinh phí để mua các sản phẩm văn hoá tốt… vừa khuyến
khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, vừa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá
của nhân dân. Nghiên cứu chế độ, chính sách đối với hoạt động của các nghệ
sĩ biểu diễn, đặc biệt là với các nghệ sĩ múa, xiếc, múa rối... Chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần và phát huy khả năng đóng góp của văn nghệ sĩ cao tuổi.
Coi trọng việc phổ biến các tác phẩm có giá trị. Nâng cao chất lượng các giải
thưởng văn học nghệ thuật".
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị yêu cầu: “Chính phủ xây dựng Nghị
định về các hội văn học, nghệ thuật, khẳng định các hội là tổ chức chính trị-xã
hội- nghề nghiệp phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, được đầu tư, chăm lo cho sự phát
triển”
Nhà nước đã thể chế hoá đường lối quan điểm văn nghệ của Đảng trong
nhiều bộ luật và chính sách quan trọng: Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Di



12

sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Pháp lệnh
Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện, Pháp lệnh Internet, Pháp lệnh Giải thưởng
Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, Pháp lệnh về
Phong tặng danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú,…
Chính phủ đã có Quyết định số 25/TTg ngày 29-1-1993 và Quyết định số
583/QĐ-TTg ngày 1-6-1999 về tài trợ cho hoạt động sáng tạo tác phẩm văn
nghệ, công trình văn học nghệ thuật. Quyết định số 25/TTg ngày 29-1-1993
của Thủ tướng Chính phủ Về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự
nghiệp văn hoá nghệ thuật nêu rõ: Phát triển văn hoá nghệ thuật mang bản sắc
dân tộc Việt Nam là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn dân. Nhà nước tạo điều
kiện, xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị phương tiện cho việc phát triển văn
hoá nghệ thuật mang bản sắc dân tộc.
Bắt đầu từ năm 1993 và những năm sau, hàng năm ngân sách nhà
nước dành kinh phí đầu tư cho các hoạt động văn hoá nghệ thuật, xây dựng
các công trình văn hoá quy mô lớn, không nhằm mục đích kinh doanh mà
nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Thực hiện
chế độ đặt hàng, hỗ trợ trong một số hoạt động văn nghệ.
Quyết định số 583/QĐ-TTg ngày 1-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ
Về tài trợ cho hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật,
báo chí nêu rõ: Nhà nước tiếp tục thực hiện việc tài trợ cho các văn nghệ sĩ,
nhà báo đi thực tế, thâm nhập cuộc sống, sáng tạo tác phẩm; hỗ trợ cho việc giới
thiệu, phổ biến các tác phẩm có chất lượng cao.
Từ năm 1995 đến nay, Đảng và Nhà nước đã tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, phong tặng danh hiệu
nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú cho những nghệ sĩ có đóng góp lớn cho sự
nghiệp văn nghệ của dân tộc và cách mạng. Ngoài ra, còn có các giải thưởng

của các hội chuyên ngành văn học nghệ thuật được trao thường niên hoặc đột
xuất. Từ năm 1999 đến nay Thủ tướng Chính phủ đã quyết định dành khoản
kinh phí hàng chục tỷ đồng/ năm để tài trợ cho hoạt động sáng tạo văn học
nghệ thuật ở trung ương và địa phương.


13

2.5. Công tác phổ biến, truyền bá các tác phẩm văn học nghệ thuật
cho công chúng
Chỉ thị 61-CT/TW ngày 21-6-1990 của Ban Bí thư Trung ương (khoá
VI) nêu rõ: "Việc xét duyệt tác phẩm cần được thực hiện trước khi phổ biến
rộng rãi trong công chúng (...). Đối với những tác phẩm đã tồn tại trước Cách
mạng tháng Tám, trong vùng địch tạm chiếm cũ thời kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ trước 30-4-1975 và các tác phẩm nhập từ nước ngoài, nhất thiết
phải qua sự xét duyệt và được phép của cấp có thẩm quyền mới được phổ
biến rộng rãi.
Cần thành lập Hội đồng văn học - nghệ thuật (gọi tắt là Hội đồng nghệ
thuật) ở trung ương, ở địa phương (tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung
ương) và ở cơ sở theo quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước
(Bộ Văn hoá - thông tin - thể thao và du lịch, UỶ ban nhân dân hoặc Sở văn
hoá thông tin được uỷ nhiệm). Hội đồng có chức năng tư vấn cho thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước trong việc thẩm định giá trị và kiến nghị về việc
phổ biến tác phẩm.
Luật xuất bản được Quốc hội khoá IX thông qua tại kỳ họp thứ ba
(1992) ở Chương I, Điều 2 ghi rõ: "Nhà nước đảm bảo quyền phổ biến tác
phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm... Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm
trước khi xuất bản, trừ trường hợp cần thiết do Thủ tướng Chính phủ quyết
định".
Nghị định số 79/CP ngày 6-11-1993 của Chính phủ Quy định chi tiết

thi hành Luật xuất bản ghi rõ: "Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước
khi xuất bản, trừ trường hợp nội dung tác phẩm có dấu hiệu vi phạm Điều 22
Luật xuất bản".
Chương III, Điều 11 Luật xuất bản yêu cầu: "... Giám đốc có trách
nhiệm quản lý nhà xuất bản về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ, mục đích
phục vụ đúng đối tượng của nhà xuất bản (...) ký duyệt bản thảo (...) chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của nhà xuất bản. Giám đốc, tổng biên tập nhà
xuất bản chịu trách nhiệm trước pháp luật về xuất bản phẩm của nhà xuất


14

bản...".
Như vậy, là có ba loại tác phẩm bị cấm công bố, lưu hành là: Tác
phẩm vi phạm pháp luật; tác phẩm phản động; tác phẩm đồi truỵ. Các văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành gần đây đã "cụ thể hoá" loại tác phẩm
này. Điều 22, Chương III Luật xuất bản ghi rõ: "Nghiêm cấm các xuất bản
phẩm có nội dung:
1. Chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại
đoàn kết toàn dân.
2. Tuyên truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các
dân tộc và nhân dân các nước; truyền bá tư tưởng, văn hoá phản động, lối
sống dâm ô đồi truỵ, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại
thuần phong mỹ tục.
3. Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế,
đối ngoại, bí mật đời tư của công dân và bí mật khác do pháp luật quy định.
4. Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ
nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và
nhân phẩm của công dân".
- Luật báo chí (được Quốc hội ban hành năm 1989 và sửa đổi, bổ sung

năm 1999) đã quy định (Điều 10) Những điều không được thông tin trên báo
chí (trong đó bao gồm cả tác phẩm văn nghệ).
"1. Không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Không được kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược
gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, kích động dâm ô, đồi
truỵ, tội ác.
3. Không được tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh
tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định.
4. Không được đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc


15

phạm danh dự của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của công dân"...
- Chỉ thị 61-CT/TW của Ban bí thư (khoá VI) xác định: “Cần thực hiện
sự kiểm tra và xử lý nghiêm đối với việc xuất bản, phát hành những tác phẩm
có nội dung xấu. Đối với tác phẩm đáng phải cấm mà không cấm thì người có
trách nhiệm ở cơ quan quản lý nhà nước và người đại diện cho cơ quan chủ
quản cũng phải bị xử phạt”.
2.6. Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn
nghệ
Đây "là yếu tố có ý nghĩa quyết định để khai thác mọi tiềm năng sáng
tạo, phát triển sự nghiệp văn hoá, văn nghệ một cách thuận lợi"1.
Đảng yêu cầu xây dựng một cơ chế lãnh đạo và quản lý văn học nghệ
thuật phù hợp với tình hình mới. Khắc phục tình trạng "Nhiều cấp uỷ đảng
chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo và ít được bồi dưỡng kiến thức về lĩnh vực
quan trọng nhưng phức tạp này. Công tác lãnh đạo và quản lý văn hoá văn
nghệ có nhiều Cơ chế và chính sách quản lý, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
lãnh đạo và quản lý sự nghiệp văn hoá văn nghệ (...) chưa được coi trọng..."2.

Chỉ thị 61-CT/TW ngày 21-6-1990 của Ban Bí thư (khoá VI) đã yêu
cầu: "Cần khắc phục tình trạng buông lỏng không ngăn chặn có hiệu quả sự hỗn
loạn trong hoạt động văn hoá, văn nghệ, đặc biệt là những biểu hiện xuyên tạc sự
thật, phủ nhận thành quả cách mạng, kích động tâm trạng bất bình, chống đối sự
lãnh đạo của Đảng và khuynh hướng "thương mại" đang gây hại rất lớn” .
Nghị quyết Trung ương 5 của Bộ Chính trị khoá VI đã quyết định:
"Lập các Hội đồng nghệ thuật quốc gia, Hội đồng nghệ thuật địa phương và
Hội đồng nghệ thuật cơ sở theo kiểu các Hội đồng khoa học ở các ngành khoa
học (...) bao gồm những người có uy tín và am hiểu nhất về một ngành nghệ
thuật hoặc một số ngành nghệ thuật gần nhau. Các Hội đồng có nhiệm vụ và
quyền hạn đầy đủ để quyết định những vấn đề nghệ thuật thuộc phạm vi xem
1 Về lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Tlđd, tr.24.
2 Về lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Tlđd, tr. 15.


16

xét của mình (...) có thể thành lập các Hội đồng tư vấn, Hội đồng lâm thời để
giúp các cơ quan lãnh đạo quản lý xử lý các vấn đề về văn hoá, văn nghệ (...)
tổ chức tốt và tạo điều kiện hoạt động thuận lợi cho các Hội đồng nghệ thuật,
là phương thức lãnh đạo rất quan trọng để nâng cao sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng đối với văn hoá, nghệ thuật, khắc phục và ngăn ngừa những hiện
tượng cấp uỷ đảng và chính quyền can thiệp thô bạo vào các vấn đề văn học,
nghệ thuật và từng cá nhân quyết định số phận một tác phẩm hoặc một tiết
mục trừ trường hợp những vấn đề nghệ thuật trở thành những vấn đề chính trị
có phương hại chung đến quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân"3.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII xác định: "Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm cho văn hoá, văn học nghệ
thuật... phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm
thực hiện quyền tự do dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn hoá, văn học nghệ

thuật (...) trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn"4.
Chỉ thị 18 của Ban Bí thư khoá IX tiếp tục nhấn mạnh: "Đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với văn học, nghệ thuật (...)
không ngừng nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý văn nghệ của các
cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Làm tốt
công tác tập hợp văn nghệ sĩ, tôn trọng quyền tự do sáng tác đi đôi với giữ
vững định hướng và trách nhiệm trong sáng tạo văn nghệ giúp đỡ, hỗ trợ kịp
thời các hội văn nghệ, các văn nghệ sĩ hoạt động (...) Tiếp tục thể chế hoá
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) bằng chính sách, luật pháp và các giải
pháp cụ thể, thiết thực; thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện. Rà soát
và sửa đổi những văn bản pháp quy trước đây không còn phù hợp, bổ sung
những văn bản mới đáp ứng hoạt động văn học, nghệ thuật trong giai đoạn
hiện nay. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn học nghệ
thuật, kịp thời ngăn chặn, phê phán các âm mưu, thủ đoạn của các phần tử cơ
hội chính trị, các thế lực thù địch chống phá ta trên lĩnh vực văn nghệ. Quản
3 Về lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Tlđd, tr.24-25.
4 Về lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật trong công cuộc đổi mới, Tlđd, tr. 59, 73 - 74.


17

lý chặt chẽ thị trường văn nghệ, chấn chỉnh công tác xuất bản, biểu diễn, xử lý
kịp thời và nghiêm minh những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật"5.
Thành lập Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung ương
nhiệm kỳ Đại hội IX và nhiệm kỳ Đại hội X là một nội dung và phương thức
mới trong lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật.
Hội đồng có chức năng và nhiệm vụ "tư vấn cho Đảng, Nhà nước về
công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật; đánh giá tình hình sáng tác, lý
luận, phê bình văn học, nghệ thuật; tổng kết việc thực hiện đường lối văn
nghệ của Đảng; đề xuất các nội dung đổi mới, hoàn chỉnh đường lối văn học,

nghệ thuật của Đảng; cơ sở lý luận của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam
trong tình hình mới; đấu tranh với những quan điểm lý luận sai trái, lệch lạc
trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, góp phần hình thành đời sống văn nghệ
phong phú, lành mạnh...".
Nhìn chung những đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo, quản
lý văn học nghệ thuật của Đảng ta trong thời gian vừa qua phù hợp với tình
hình mới của đất nước và thời đại, phù hợp với bản chất, đặc trưng của văn
nghệ. Những quan điểm trên hàm chứa rất rõ sự đổi mới của Đảng ta trong
quan niệm về văn nghệ, về nội dung và phương thức lãnh đạo văn nghệ. Đây
là cơ sở phương pháp luận cho việc giải quyết nhiều vấn đề về lý luận và thực
tiễn sáng tác văn học nghệ thuật hiện nay.
2.7. Phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới theo tinh thần
Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị
Mục tiêu
Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp

5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị 18 của Ban bí thư khóa IX về tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII về công tác văn học, nghệ thuật trong tình hình mới , sách "Các nghị quyết của
Trung ương Đảng 2001 - 2004", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.476-477.


18

nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ một cách toàn diện cả về số
lượng, chất lượng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước,

bảo đảm yêu cầu phát triển của lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới.
Quan điểm chỉ đạo
- Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn
hóa; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người.
- Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh
mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ.
- Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời với tập trung xây
dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp.
- Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn
học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội.
- Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn học, nghệ
thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nông nàn,
gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên
nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc.
- Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế về văn học, nghệ thuật.
Các giải pháp chủ yếu
1/ Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ,
đa dạng của văn học, nghệ thuật
Chú trọng các mặt: đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác,
sự tìm tòi, thể nghiệm nhằm nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ
thuật nước nhà.


19

2/ Tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo của Đảng
đối với văn học, nghệ thuật
- Bồi dưỡng nâng cao nhật thức vai trò, vị trí, đặc trưng của nền văn

học, nghệ thuật XHCN cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo,
quản lý trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực
này.
- Xây dựng và đưa vào chương trình đào tạo cán bộ thuộc hệ thống các
trường đảng nội dung về văn học, nghệ thuật.
- Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng địa
phương, từng ngành.
- Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm được định
hướng chính trị; khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp thô
bạo đối với hoạt động văn học, nghệ thuật, cũng như xu hướng thả nổi, không
phê phán những tác giả, tác phẩm đi ngược lại các giá trị chân, thiện, mỹ,
những giá trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng.
- Cấp ủy đảng các cấp có kế hoạch định kỳ làm việc với lực lượng sáng
tạo và hoạt động văn học, nghệ thuật.
3/ Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn học, nghệ
thuật
- Hoàn thành cơ bản việc thể chế hóa các quan điểm, đường lối, định
hướng của Đảng về văn học, nghệ thuật.
- Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn
học, nghệ thuật; rà soát, bổ sung và xây dựng mới các chế độ, chính sách đối
với hoạt động văn học, nghệ thuật như chế độ lương, nhuận bút, đãi ngộ tài
năng, bồi dưỡng lao động nghề nghiệp, chế độ hưu.
- Xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch xã hội hóa các hoạt động
văn học, nghệ thuật, làm rõ lĩnh vực cần xã hội hóa, lĩnh vực Nhà nước và nhân
dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải đầu tư bảo tồn, xây dựng và phát triển.


20


- Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; bảo đảm kinh phí cho các
chương trình mục tiêu lớn, cho hoạt động sáng tạo của các hội văn học, nghệ
thuật, xác định việc đầu tư này là đầu tư cho phát triển.
- Xây dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học,
nghệ thuật cổ truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ,
chữ viết và văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số.
- Có kế hoạch đầu tư xây dựng các công trình văn học, nghệ thuật; nâng
cấp, cải tạo và xây mới một số nhà hát, rạp chiếu phim, trung tâm triển lãm
văn học, nghệ thuật có chất lượng cao, tầm cỡ lớn, tính chất hiện đại ở các
thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước.

4/ Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, phát triển lý luận văn học, nghệ
thuật
- Kiên quyết khắc phục những yếu kém kéo dài của hoạt động phê bình
văn học, nghệ thuật, nâng cao tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần
hướng dẫn, điều chỉnh sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động công bố, giới thiệu,
truyền bá các sản phẩm tốt phục vụ đông đảo nhân dân ở mọi miền đất nước.
- Tổ chức nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học,
nghệ thuật của ông cha ta và của thế giới, vận dụng sáng tạo, làm phong phú
lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
- Tôn trọng những ý kiến khác nhau về lý luận và phê bình văn học,
nghệ thuật vì lợi ích chung và sự phát triển lành mạnh của văn học, nghệ
thuật.
- Xây dựng cơ chế quản lý và chế tài ngăn chặn, xử lý các hoạt động
sáng tác, truyền bá những sản phẩm văn học, nghệ thuật có nội dung, tư tưởng
nghệ thuật thấp, ảnh hưởng xấu tới xã hội. Đấu tranh chống các khuynh
hướng đi ngược lại đường lối văn nghệ của Đảng, lợi ích của dân tộc.



21

- Xây dựng và hoàn thiện các đạo luật điều chỉnh lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, có những chế tài nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm định, đánh
giá, quyết định công bố.
- Phối hợp tốt lực lượng làm công tác văn hóa đối ngoại.
5/ Xây dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục
phát triển mạnh mẽ nền văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới
Nâng cao chất lượng các trường đạo tạo văn học, nghệ thuật. Hoàn
thiện chương trình, nội dung, giáo trình trong các trường cao đẳng, đại học,
giảng dạy các ngành đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng tác, nghiên cứu, lý
luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo diễn...).
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này.
- Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài các năng khiếu, tài năng
văn học, nghệ thuật.
- Xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi nghệ sĩ
có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong xã hội.
6/ Củng cố, đổi mới hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật ở Trung
ương và các địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên phát
huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ.
- Các hội văn học, nghệ thuật phải làm tốt vai trò tập hợp, đoàn kết, phát
huy tính chủ động, tích cực xã hội và tài năng sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ.
- Nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của các hội phù
hợp với thời kỳ mới, khuyến khích tìm tòi các phương thức hoạt động gắn
chặt với thực tiễn cuộc sống.
- Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong việc thực hiện
Luật Sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền tác giả văn học, nghệ thuật.
- Chính phủ xây dựng nghị định về các hội văn học, nghệ thuật, khẳng
định các hội là tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp phục vụ sự nghiệp



22

cách mạng của dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà
nước, được đầu tư nhiều hơn, chăm lo cho sự phát triển.
- Xây dựng và đổi mới cơ chế, chính sách, chế tài điều chỉnh việc Nhà
nước đặt hàng mua tác phẩm, tổ chức sản xuất, xuất bản, công diễn, trình
chiếu, triển lãm, tặng giải thưởng các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
cao về tư tưởng và nghệ thuật.
- Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng đoàn các hội, hiệu quả hoạt
động của các tổ chức đảng trong các đơn vị hoạt động văn nghệ, quan tâm bồi
dưỡng, kết nạp vào Đoàn, vào Đảng những văn nghệ sĩ trẻ tuổi.
7/ Tăng cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ quần
chúng
Hướng dẫn, khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền
dạy và phát huy các giá trị văn hóa, văn nghệ truyền thống của dân tộc.


23

3. KẾT LUẬN
3.1. Văn học, nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, là một
thành tố quan trọng của văn hóa. Với đặc trưng riêng, nó tác động rất sâu sắc
đến tư tưởng, tình cảm của con người mà không một hình thái ý thức xã hội
nào thay thế được.
3.2. Xây dựng và phát triển nền văn học, nghệ thuật xã hội chủ nghĩa
sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng và hoàn thiện con người Việt Nam trong giai đoạn mới, tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

3.3. Cải tiến phương thức lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn nghệ phải
quán triệt quan điểm của Đảng trước hết phải củng cố các tổ chức đảng trong
lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, xây dựng và kiện toàn các cơ quan chuyên môn
làm tham mưu giúp cấp uỷ lãnh đạo văn hoá, văn nghệ từ Trung ương đến địa
phương. Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch cần đổi mới tổ chức và cán bộ,
phong cách công tác cho phù hợp với yêu cầu phát triển của văn hoá, văn
nghệ, làm tròn chức năng một cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn
hoá, văn nghệ.
-----------------


24

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X
2. Nghị quyết số 05, ngày 28/11/1987 của Bộ Chính trị về văn hóa văn
nghệ
3. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, ngày 14/11/1993 về một số nhiệm
vụ văn hóa, văn nghệ trong những năm trước mắt
4. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5. Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp
tục xây dựng và phát triển văn hóa, nghệ thuật trong thời kỳ mới
6. Quyết định số 25/TTg ngày 29-1-1993 và Quyết định số 583/QĐ-TTg
ngày 1-6-1999 về tài trợ cho hoạt động sáng tạo tác phẩm văn nghệ, công
trình văn học nghệ thuật.
7. Quyết định số 25/TTg ngày 29-1-1993 của Thủ tướng Chính phủ Về
một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hoá nghệ thuật
8. Quyết định số 583/QĐ-TTg ngày 1-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ
Về tài trợ cho hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật,

báo chí
9. Chỉ thị 61-CT/TW ngày 21-6-1990 của Ban Bí thư Trung ương (khoá
VI)
10. Chỉ thị 18 của Ban Bí thư khoá IX



×