Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về KINH tế và KINH tế QUÂN sự TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.16 KB, 64 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ
KINH TẾ VÀ KINH TẾ QUÂN SỰ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Nội dung
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Về đặc điểm, nhiệm vụ và độ dài của thời kỳ quá độ ở nước ta
* Về tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Trung thành với CNM-LN, HCM khẳng định việc trải qua TKQĐ là bước
đi tất yếu của con đường tiến lên CNXH, Bác chỉ rõ:
“Con đường của chúng ta ngày nay ở miền Bắc là qua TKQĐ tiến lên CNXH chỉ có đi
theo con đường ấy, miền Bắc nước ta mới vĩnh viễn thoát khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu và xây
dựng cơ sở vững chắc cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc” (Tập 10, tr 79).

* Về đặc điểm của thời kỳ quá độ
Đặc điểm lớn nhất của TKQĐ ở VN là chúng ta bước vào TKQĐ lên
CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
* Về nhiệm vụ kinh tế của TKQĐ
Theo HCM, thời kỳ quá độ có hai nhiệm vụ:
- Xây dựng quan hệ sản xuất mới.
- Xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
HCM viết: “Cuộc cách mạng XHCN là một cuộc biến đổi khó khăn và sâu sác nhất. Chúng ta phải
xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt
để những nếp sống, thói quen… có gốc rễ từ ngàn năm, chúng ta phải thay đổi QHSX cũ, xóa bỏ giai cấp bóc
lột, xây dựng QHSX mới không có áp bức bóc lột” và “phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH ”

(Tập 8, tr 493, Tập 10, tr 3).
* Về độ dài của TKQĐ
Theo Bác đó là một thời kỳ lịch sử lâu dài, song dài bao nhiêu là phụ thuộc
vào nỗ lực chủ quan của chính chúng ta: “Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, công




cuộc đổi mới xã hội cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc. TKQĐ của chúng ta chắc chắn
sẽ đòi hỏi ba, bốn kế hoạch dài hạn. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn đấu thi đua xây dựng thì TKQĐ
có thể rút ngắn hơn”

(Tập 9, tr 175).

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
a, Vai trò của nông nghiệp, nông thôn
* Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu bảo
đảm nhu cầu ăn, mặc, ở cho toàn xã hội.
- Nước ta là nước nông nghiệp, đại đa số dân cư sống ở nông thôn, phần
lớn lao động làm nông nghiệp, bởi vậy HCM luôn coi nông nghiệp là ngành SX
chính, là cơ sở để phát triển KT đất nước.
Trong thư gửi Điền chủ nông gia VN, Bác viết: “ VN

là một nước sống về nông

nghiệp. Nền kinh tế nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong
vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịch
1

thì nước ta thịnh”

.

- HCM cho rằng nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm, bảo đảm
nhu cầu, ăn, mặc, ở của nhân dân.
+ Về vấn đề ăn: Thấu hiểu nạn đói năm 1945, Bác nhắc lại: “ Việt Nam ta

có câu tục ngữ “có thực mới vực được đạo”. Trung Quốc cũng có câu tục ngữ
“Dân dĩ thực vi thiên”.
Hai câu ấy tuy đơn giản nhưng rất đúng lẽ.
Muốn nâng cao đời sống nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề
ăn (rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết vấn đề ăn thì phải
làm thế nào cho có đầy đủ lương thực” 2. Do vậy, Bác luôn nhắc nhở các tầng lớp
nhân dân phải đẩy mạnh tăng gia SX, trồng nhiều cây lương thực, hoa màu, phát
triển chăn nuôi gia súc, gia cầm…
+ Về vấn đề mặc: Người chỉ rõ chính quyền mới phải “Làm cho dân có
mặc”3.

1

HCM, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, tập 4, tr 215.
Sđd, tập 10, tr 543 – 544.
3
Sđd, tập 4, tr 152.
2


+ Về vấn đề ở: Người cho rằng đây là một mặt của vấn đề dân sinh, là vấn
đề rất quan trọng. Người đánh giá: “Nông thôn của ta, nhà ở của đồng bào phần
nhiều đang ọp ẹp, tối tăm, chẳng ra sao, chẳng có hàng lối gì… Khi trước nhà
nào lo làm nhà ấy, làm thế nào cũng được. Nhưng bây giờ không phải như thế.
Bây giờ mình phải đổi mới nông thôn. Nông thôn mình phải quang đãng sạch
sẽ”4.
HCM luôn quan tâm và lo cho dân từ những việc làm cụ thể, Người thường
xuyên vận động nhân dân trồng cây gây rừng để vừa có gỗ, tre làm nhà vừa bảo
vệ môi trường sinh thái: “Mùa xuân là tết trồng cây; Làm cho đất nước càng
ngày càng xuân”.

* Nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế
quốc dân khác.
- Thứ nhất, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp.
Người nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp đối với công nghiệp: “Sản xuất
nông nghiệp… cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ
công nghiệp, công nghiệp và cung cấp nông thổ sản để mở rộng quan hệ buôn
bán với nước ngoài”5.
- Thứ hai, phát triển nông nghiệp nhằm xây dựng cơ cấu kinh tế quốc dân
thống nhất.
+ HCM nhận thức rất rõ mối quan hệ và tác động qua lại giữa nông nghiệp,
công nghiệp và các ngành KT khác. Người nối: “Người thì có hai chân. Kinh tế
một nước thì có hai bộ phận chính: nông nghiệp và công nghiệp. Người không
thể thiếu một chân, thì nước không thể thiếu một bộ phận kinh tế” 6. Bác còn
nhấn mạnh: “Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng không phát
triển được”7.
+ HCM chỉ ra mối quan hệ giữa nông nghiệp, công nghiệp và thương
nghiệp, ba mặt này có mối quan hệ khăng khít tác động lẫn nhau trong một cơ
4

Sđd, tập 10, tr 446.
Sđd, tập 8, tr 91
6
Sđd, tập 8, tr 77
7
Sđd, tập 10, tr 619.
5


cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Trong tạp chí sinh hoạt Thương nghiệp, năm
1956, người viết: “ Về nhiệm vụ thì phải hiểu rõ trong nền kinh tế quốc dân có

ba mặt quan trọng: Nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác
quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và
công nghiệp”8.
+ Trong kháng chiến chống Pháp, nhấn mạnh nông nghiệp là chính, là mặt
trận cơ bản, là mặt trận hàng đầu: “Mặt trận kinh tế gồm có công nghệ, buôn
bán, nông nghiệp. Nghành nào cũng quan trọng. Nhưng lúc này, quan trọng nhất
là nông nghiệp, vì “có thực mới vực được đạo”.
i, Nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp lương thực cho nhân dân,
cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản để xuất khẩu.
ii, Công nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần
thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân, cung cấp máy bơm, phân bón,
thuốc trừ sâu… để đẩy mạnh nông nghiệp. “Công nghiệp phát triển thì nông
nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ nhau
và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước mới nhanh
và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế thì mới thực hiện được liên minh công
nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm lo, sung sướng cho
nhân dân”9.
* Nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp.
Nông nghiệp phát triển, nông dân sẽ có nhiều hàng hóa đưa ra thị trường do
đó lại thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Người chỉ rõ: “Thương nghiệp đưa
hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên
liệu cho thành thị tiêu dùng”10.
b, Các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
* Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp.
8

Sđd, tập 8, tr 174
Sđd, tập 10, tr 544 – 545.
10

Sđd, tập 8, tr 174.
9


- Cùng với việc nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp, nhưng HCM vẫn
khẳng định về chiến lược lâu dài là phải phát triển công nghiệp để tạo ra phân
bón, máy móc, thuốc trừ sâu, hàng tiêu dùng cần thiết phục vụ nông nghiệp,
nông thôn và nông dân. Người chỉ rõ: “Quan trọng nhất trong đời sống của nhân
dân là vấn đề ăn. Để giải quyết vấn đề ăn thì lương thực phải dồi dào. Muốn vậy
thì công nghiệp phải giúp nông nghiệp có nhiều máy móc làm thủy lợi, máy cầy,
máy bừa, nhiều phân hóa học…”11.
- Người chỉ ra rằng: muốn ấm no thực sự thì phải phát triển công nghiệp,
phải công nghiệp hóa đất nước. Năm 1960, trong bài viết Con đường phía trước,
Bác vạch rõ: “Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi
của chúng ta. Ngay đến năm ngoái, trong SX của miền Bắc, công nghiệp mới
chỉ chiếm không đầy 2 phần, còn nông nghiệp và thủ công nghiệp chiếm đến
tám phần, Mấy triệu nông dân và ngót một nửa triệu thợ thủ công là những
người đang cung cấp phần lớn thức ăn, vật dùng cho nhân dân, hiện vẫn dùng
những đồ rất thô sơ để sản xuất. Như vậy thì làm sao làm cho đời sống nhân dân
thật dồi dòa được.
Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta sử dụng máy móc
để SX một cách thực sự rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong
nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm cánh tay cho người, làm cho sức người tăng lên
gấp trăm, nghìn lần và giúp người làm những việc phi thường.
Muốn có nhiều máy móc thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra
máy móc, ra gang, thép, than, dầu… đó là con đường phải đi của chúng ta, con
đường công nghiệp hóa nước nhà.
Hiện nay, chúng ta lấy SX nông nghiệp làm chính, vì muốn mở mang công
nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường ấn no thực sự của nhân

dân ta”12.
* Xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp.
11
12

Sđd, tập 11, tr 352.
Sđd, tập 10, tr 40 - 41.


- Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức sở hữu ruộng đất trong nông nghiệp.
+ Trước 1945, nền kinh tế VN là nền kinh tế thuộc địa, mạng nặng tính chất
sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, đồng thời có yếu tố tiền tư bản chủ nghĩa.
Thực dân Pháp thi hành chính sách độc quyền kinh tế như độc quyền chiếm
ruộng đất, độc quyền ngoại thương để vơ vét, bóc lột nhân dân ta…Nhận thức rõ
điều đó, HCM đã hình thành tư tưởng về một nền kinh tế độc lập, dân chủ định
hướng XHCN sẽ được xây dựng sau khi đánh đổ thực dân phong kiến, giành độc
lập cho dân tộc. Theo Bác nền kinh tế dân chủ: “Sản nghiệp lớn (như công
nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông hòa bình quản lý.
c, Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa, lãnh chúa chia cho dân cầy
nghèo.
d, Bỏ sưu thuế cho dân cầy nghèo.
e, Mở mang công nghiệp và nông nghiệp”13.
+ Từ 1945 - 1954, khi CMT8 thành công và bước vào kháng chiến chống
Pháp, chính phủ CM và Chính phủ kháng chiến thực hiện nhiều chính sách dân
chủ đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân, đặc biệt là nông dân, như tịch thu
ruộng đất của địa chủ thực dân và địa chủ việt gian chia cho nông dân không có
ruộng đất hoặc có ít ruộng đất. Đến cuối 1958, giai cấp địa chủ phong kiến cơ
bản bị xóa bỏ, khẩu hiệu “ruộng đất về tay dân cầy” cơ bản được thực hiện.
+ Trong thời gian kháng chiến, ở vùng giải phóng, HCM đã đưa ra quan

điểm sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa dạng.
Theo Bác, nền kinh tế dân chủ ở nước ta (vùng tự do), trong kháng chiến chống
thực dân Pháp có các thành phần kinh tế sau:
- Kinh tế của địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội.
- Kinh tế hợp tác xã (hợp tác xã tiêu thụ, hợp tác xã cung cấp và các hội đổi
công của nông dân) có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội.
13

Sđd, tập 3, tr 1-2.


- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ.
- kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng
góp phần xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia (Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và
do nhà nước lãnh đạo. Trong thành phần kinh tế này, tư bản của tư nhận là chủ
nghĩa tư bản, tư bản của nhà nước là chủ nghĩa xã hội)”14.
+ Trong thời kỳ từ 1954 - 1969, HCM luận giải nhiều về CNXH, nhất là tư
tưởng về xây dựng nền kinh tế dân chủ. Bác phân tích nhiều về vấn đề xây dựng
hợp tác xã trong nông nghiệp.
Theo Bác, tiến lên CNXH, tất yếu phải tổ chức hợp tác hóa nông nghiệp.
Cuối tháng 10 - 1955, trong bài nói chuyện tại Hội nghị giảm tô và cải cách
ruộng đất, Người chỉ rõ, nông thôn không chỉ dừng lại ở cải cách ruộng đất mà
còn phải tổ chức hợp tác xã nông nghiệp theo nguyên tắc tự nguyện, tự giác,
quản lý dân chủ và cùng có lợi, “xã hội hóa nông nghiệp”15.
- Thứ hai, quản lý và phân phối phải được tiến hành công khai, minh bạch.
+ HCM khẳng định trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta, tất yếu tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc
doanh đóng vai trò lãnh đạo, làm nền tảng cho xã hội mới. Từ việc nhận thức

nhiều hình thức sở hữu đến tất yếu thừa nhận nhiều hình thức quản lý và phân
phối khác nhau: “Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý
kinh tế, làm chủ phân phối sản phẩm lao động” 16; “Một xã hội bình đảng, nghĩa
là ai cũng phải lao động và có quyền lao động”17.
+ Người chỉ rõ, CNXH là công bằng, hợp lý, nhưng sự công bằng hợp lý đó
phải theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không
hưởng, những người già yếu, bệnh tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm non.
Trên cơ sở những nguyên tắc phân phối của CNXH. Người cho rằng “Chế độ
14

Sđd, tập 7, tr 221.
Sđd, tập 8, tr 76.
16
Sđd, tập 12, tr 568.
17
Sđd, tập 9, tr 23
15


khoán là một điều kiện của CNXH”18; theo Bác: “Làm khoán là ích chung mà lại
lợi riêng… làm khoán tốt, thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”19.
c, Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
HCM luôn quan tâm xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện. Chỉ phát
triển nền nông nghiệp toàn diện mới khai thác một cách hiệu quả mọi nguồn lực
của đất nước, đáp ứng nhu cầu ngày một tăng và đa dạng của sản xuất cũng như
tiêu dùng. Ở nông thôn phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, nghĩa là phải
phát triển cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp; trong nông nghiệp lại phải
phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề phụ… Về thăm nông dân tỉnh
Hưng Yên, Người phát biểu: “Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính,
đồng thời phải rất coi trọng hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi,

thả cá và nghề phụ”20; tại hội nghị tổng kết cuộc vận động HTX nông nghiệp ở
các tỉnh miền núi, Bác nhấn mạnh: “Sản xuất phải toàn diện, trồng cây lương
thực và cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, phát triển nghề rừng, chú trọng
đẩy mạnh chăn nuôi, vì miền núi có nhiều khả năng chăn nuôi” 21. Theo HCM,
một nền nông nghiệp toàn diện là:
- Có ngành trồng trọt phát triển toàn diện.
- Có ngành chăn nuôi phát triển toàn diện.
- Có ngành lâm nghiệp phát triển toàn diện.
- Có ngành ngư nghiệp phát triển toàn diện.
- Có các ngành nghề phụ phát triển.
“Miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để
tăng thu nhập” và Người nhắc nhở: “Phát triển thích đáng kinh tế phụ gia đình
của xã viên”22
- Có quy hoạch, kế hoạch phát triển.

18

18, 19, Sđd, tập 8, tr 341.

19
20

20, 21, Sđd, tập 10, trang 397, 418.

21
22

22, Sđd, tập 10, tr 352, 407.



“Trong kế hoạch 5 năm, còn nói đến việc bắt đầu khoanh vùng nông
nghiệp. Như nơi nào SX lúa nhiều và tốt thì nơi đó thành vùng SX lúa chính, nơi
nào SX chè nhiều và tốt thì nơi đó thành vùng SX chè là chính, v.v. Làm như
vậy thì sẽ sử dụng một cách hợp lý và có lợi nhất của cải giàu có của đất nước ta
và sức lao động dồi dào của nhân dân ta. Làm như vậy thì sau này dùng máy
móc cũng dễ và tiện”23.
d, Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn
- Thứ nhất, phải quan tâm đến phát triển thủy lợi đảm bảo việc tưới, tiêu
nước kịp thời.
Nông nghiệp nước ta là nền SX lúa nước, bởi vậy vấn đề thủy lợi được đặt
lên hàng đầu. Người nói: “Làm thủy lợi thì phải khó nhọc trong vài năm để được
sung sướng muôn đời” và người chỉ ra: “Làm thủy lợi cần phải kết hợp công
trình lớn với công trình vừa và công trình nhỏ; cần phải kết hợp việc giữ nước
với việc dẫn nước và việc thoát nước”24. “Giặc lụt là đồng minh của giặc đói;
Muốn chống giặc đói thì phải chống giặc lụt; Muốn chống giặc lụt thì phải kịp
thời đắp đê, giữ đê”25.
- Thứ hai, phải quan tâm đến phát triển điện và giao thông nông thôn.
Giao thông là mạch máu của nền kinh tế đất nước. Phát triển giao thông là
góp phần thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế cũng như đời sống văn hóa của nông
dân và nông thôn. Bác nói: “Đắp đường lớn là do Trung ương phụ trách, Bộ giao
thông chịu trách nhiệm. Nhưng địa phương có thể làm những đường nhỏ, làng
này qua làng khác, thì xã tự động làm. Nhiều xã làm tốt. Nên làm cho đồng bào
thấy rõ lợi ích của việc làm thêm đường sá”26.
- Thứ ba, phải quan tâm đến xây dựng nhà ở cho nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng của C.Mác, HCM thường xuyên quan tâm đến các
các vấn đề ăn, mặc, ở cho dân. Đối với nông thôn người nói: “Chúng ta đang
23

Sđd, tập 10, tr 407, 408.
Sđd, tập 10, tr 397.

25
Sđd, tập 7, tr 532.
26
Sđd, tập 11, tr 134.
24


chuẩn bị xây dựng nông thôn mới. Việc đầu tiên của nông thôm mới là xây dựng
nhà ở cho đàng hoàng”27.
- Thứ tư, phải quan tâm đến phát triển giáo dục, y tế, nâng cao trình độ dân
trí và sức khỏe cho nhân dân.
Bác nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải
trồng người”28.
e, Tăng cường sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước đối với nông nghiệp, nông
thôn và nông dân
- Chính sách giá cả:
Người nêu phương châm định giá: “Giá cả quy định là phải chăng, vừa lợi
cho nhân dân, vừa lợi cho Chính phủ” 29; “Mua bán phải theo giá cả thích đáng…
Giá cả phải bảo đảm cho Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi để xây
dựng nước nhà”30.
- Chính sách thuế nông nghiệp:
Phải thực hiện chính sách thuế để khuyến khích sản xuất, khuyến khích
tăng năng suất lao động: “Thuế phải khuyến khích sản xuất. Cho nên Nhà nước
chỉ thu thuế những cây trồng chính. Trồng xen kẽ được miễn thuế. Tăng vụ chưa
quá ba năm, vỡ hoang chưa quá năm năm, đều chưa phải nộp thuế”31.
- Một số chính sách giúp đỡ, hỗ trợ khác của Nhà nước như: hỗ trợ về vốn,
giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, thị trường …v.v.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sở hữu và các thành phần kinh tế ở Việt Nam
a, Tư tưởng Hồ Chí Minh về sở hữu
* Quan niệm của HCM về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất.

Tư tưởng này được thể hiện chủ yếu qua ba tác phẩm: Đường cách mệnh,
viết năm 1927; Thường thức chính trị, viết năm 1953; Báo cáo về dự thảo Hiến

27

Sđd, tập 10, tr 380.
Sđd, tập 9 tr 222.
29
Sđd, tập 8, tr 422.
30
Sđd, tập 10, tr 414.
31
Sđd, tập 10, tr 414, 415.
28


pháp sửa đổi, tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa I, nước VN dân chủ cộng hòa. Thể
hiện trên các nội dung:
- Thứ nhất, HCM cho rằng: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ,
đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói
chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy” 32. Sự phát triển
tất yếu đó là do quá trình sản xuất vật chất con người đã làm cho LLSX biến đổi
không ngừng và do đó QHSX cũng không ngừng biến đổi để phù hợp với tính
chất và trình độ LLSX, Bác viết: “Lịch sử loài người là do người lao động sáng
tạo ra. Người lao động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sản
xuất phát triển tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng
vững. Nếu không hợp thì giai cấp đại biểu của sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách
mạng lật đổ chế độ cũ”33.
- Thứ hai, sở hữu là một mặt của QHSX. Nó phản ánh mối quan hệ giữa
các tầng lớp, các giai cấp trong XH đối với vấn đề chiếm hữu những TLSX. Khi

xuất hiện chế độ tư hữu thì xã hội cũng phân thành giai cấp.
“Tất cả của cải vật chất trong XH, đều do công nhân và nông dân làm ra.
Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển.
Song những người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà có một số người không
lao động thì lại “ngồi mát ăn bát vàng”. Vì đâu có nỗi chẳng công bằng này? Vì
số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội”34.
- Thứ ba, với tư cách là một mặt và là mặt quan trọng nhất của QHSX,
quan hệ sở hữu chi phối hoàn toàn quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.
Trong XH phong kiến, HCM chỉ ra: “Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là
ruộng đất, nông cụ, vân vân, làm của riêng nhưng họ không cầy cấy. Nông dân
buộc phải mướn ruộng đất của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu
hạ và lễ lạt địa chủ, nông dân không khác gì nô lệ”35.
32

Sđd, Tập 7, CTQG, H, 2002, tr 247.
Sđd, tập 7, tr 246.
34
Sđd, tập 7 tr203.
35
Sđd, tập 7, tr 203.
33


- Thứ tư, muốn kinh tế phát triển thì QHSX phải phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX. “Lao động tập thể, thì các tư liệu sản xuất và những thứ sản
xuất ra, phải là của chung mới đúng”36.
Dưới chế độ PK và chế độ TBCN, lao động đã là tập thể (đã xã hội hóa),
nhưng TLSX lại do những địa chủ và nhà tư bản chiếm giữ. Đó là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng kinh tế lậc hậu, dẫn đến mâu thuẫn và bất công xã hội. Đó
cũng là nguyên nhân dẫn đến cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là nhằm thiết

lập một QHSX phù hợp với LLSX đã xã hội hóa.
* Tư tưởng HCM về các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam.
- Trong thời đại mới ngày nay, đi lên CNXH là sự phát triển tất yếu, nhưng
đối với các nước chậm phát triển như VN, HCM cho rằng:“Phải kinh qua chế độ
dân chủ mới, rồi tiến lên CNXH”37.
- Về kinh tế, đó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trên thực tế. Theo
HCM:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản
xuất như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của HTX tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”38.
- Mục đích của nước ta là đi lên CNXH. Nền kinh tế của CNXH dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Với chế độ sở hữu, Người chỉ rõ:
“Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ hình thức sở hữu không XHCN làm cho nền
kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa
trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”39.
- Để đạt mục đích trên, Nhà nước phải có cách xử lý khác nhau đối với các
hình thức sở hữu hiện thời. Cụ thể: “Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu
36

Sđd, tập 7, tr 205.
Sđd, tập 7, tr 247.
38
Sđd, tập 9, tr 588.
39
39, 40, Sđd, tập 9, tr 588.
37



toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó
phát triển, ưu tiên kinh tế HTX là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao
động; Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát
triển”40.
“Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Nhà nước bảo
hộ quyền sở hữu về TLSX của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tạo cách
làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Đối với những nhà tư sản công thương, nhà nước không xóa bỏ quyền sở
hữu về TLSX và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm
làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng
thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo CNXH bằng hình thức
công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác”41.
b, Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế
Tư tưởng HCM về các TPKT chủ yếu nằm trong 3 tác phẩm như đã đề cập
ở sở hữu TLSX, ngoài ra còn được đề cập trong báo cáo của Người trước Quốc
hội nước VN dân chủ cộng hòa Khóa I, Khóa II, trong các kỳ Đại hội II, III, của
Đảng.
* Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta (trong vùng tự do).
Trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tất yếu còn tồn tại
nhiều TPKT. Mặt khác, nước ta bước vào thời kỳ dân chủ mới (Thời kỳ chuyển
tiếp từ chế độ thực dân lên CNXH) nên tất yếu còn tồn tại những TPKT của chế
độ cũ mà chúng ta chưa cải tạo được và những TPKT mới được xây dựng.
HCM khẳng định: “Hiện nay kinh tế nước ta có những TPKT như sau:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội.
Vì tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ
không phải của riêng. Trong các xí ngiệp quốc doanh thì xưởng trưởng, công
40
41


Sđd, tập 9, tr 589.


trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Việc sản
xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân.
- Các HTX tiêu thụ và HTX cung cấp, có tính chất nửa CNXH. Nhân dân
góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản
xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột.
Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại HTX.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có
gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu.
- kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng
góp phần vào xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia là nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và
do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là CNTB. Tư bản của
Nhà nước là CNXH”42.
* Về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các TPKT trong thời kỳ
dân chủ mới.
- Đối với kinh tế địa chủ phong kiến và tư sản mại bản.
Bản chất của giai cấp địa chủ PK và tư sản mại bản là bóc lột và phản động.
Do đó thái độ rứt khoát của Đảng và Nhà nước ta là phải kiên quyết từng bước
xóa bỏ TPKT này thông qua con đường cải tạo QHSX và cải cách ruộng đất.
Trong Chính cương vắn tắt của Đảng do HCM biên soạn năm 1930 đã thể hiện
rõ chủ trương này. Cụ thể:
“a, Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b, Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho Chính phủ công nông binh quản lý.
c, Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
nghèo…”43.


42
43

Sđd, tập 7, tr 221.
Sđd, tập 3, tr 1,2.


Trong báo cáo trước Quốc hội nước VN dân chủ cộng hòa, khóa I, Kỳ họp
thứ 3 ngày 1/12/1953, HCM đã trình bày rõ các vấn đề về cải cách ruộng đất
như sau:
“Ý nghĩa của cải cách ruộng đất là:
Cách mạng ta là cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân chống đế quốc xâm
lược và chống phong kiến, chỗ dựa của đế quốc…
Nông dân ta chiến 90% dân số mà chỉ chiếm được 3 phần 10 ruộng đất, mà
quanh năm khó nhọc, suốt đời nghèo nàn.
Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5% dân số, mà chúng và thực dân
chiếm 7 phần 10 ruộng đất, ngồi mát, ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không
công bằng…
Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cầy có ruộng, giải phóng sức SX
ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến, mới có thể chấm
dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh mẽ
lực lượng to lớn của nông dân để phát triển SX và đẩy mạnh kháng chiến đến
thắng lợi hoàn toàn.
Mục đích của cải cách ruộng đất là: tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu
ruộng đất, thực hiện người cầy có ruộng, giải phóng sức SX ở nông thôn, phát
triển SX đẩy mạnh kháng chiến.
Phương châm của cải cách ruộng đất là: Phóng tay phát động quần chúng
nhân dân, dựa vào quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, tổ chức giáo dục
và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh một cách có kế hoạch, làm từng

bước, có trật tự, có lãnh đạo chặt chẽ.
Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc đấu tranh
giai cấp ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp, cho nên chuẩn bị phải
thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ, địa điểm
phải định cẩn thận, thời hạn phải nắm chắc chắn” và “phải kiên quyết làm cho
việc cải cách ruộng đất thành công”44.
44

Sđd, tập 7, tr 178 - 183.


Tuy nhiên trong gần 4 năm thực hiện với nhiều đợt cải cách, trong quá trình
thực hiện nhiều địa phương có tư tưởng nóng vội và thái độ quan liêu đã vấp
phải những sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng. Chính phủ và HCM đã đau
sót thừa nhận và đã phải tiến hành sửa sai.
Năm 1957, cải cách ruộng đất ở các vùng tự do cả nước cơ bản đã hoàn
thành. Thành phần kinh tế phong kiến đã bị xóa bỏ. Nền kinh tế dân chủ mới chỉ
còn 5 TPKT:
“A, Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B, Các HTX (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C, Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào
HTX, tức là nửa CNXH).
D, Tư bản của tư nhân.
E, Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).
Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho
nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo CNTB”45.
- Chính sách đối với các TPKT trong chế độ dân chủ.
HCM khẳng định 4 chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ như sau:
“1. Công tư đều có lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức

lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và
nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của
công, khai gian lậu thuế, thì phải trừng trị.
Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ
công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho công cuộc xây dựng kinh tế nước
nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự
lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2, Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột nhưng Chính phủ
ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của
45

Sđd, tập 7, tr 247 - 248.


công nhân. Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số
lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia SX lợi cả đội bên.
3, Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức SX nông cụ và các thứ cần dùng
khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia SX để cung cấp
lương thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên
minh giữa công nông.
4, Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước
bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua các thứ ta đưa ra và
bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là những chính sách mậu
dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế nước ta”46.
Một điều rất đặc biệt là trong các bài viết, bài nói, HCM chưa bao giờ đề
cập đến TPKT có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng tuyệt nhiên người không có
thái độ đối lập, kỳ thị với những người nước ngoài đang làm ăn sinh sống tại
VN. Trong lời kêu gọi nhân ngày Thủ đô giải phóng 10/10/1954: “Nhân dịp này

tôi có vài lời cùng các bạn ngoại kiều. Các bạn người buôn bán, kinh doanh, tiểu
thương, tiểu chủ, công nhân và trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt Nam,
các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở Việt Nam… Vì vậy, tôi khuyên các bạn: Các bạn
cứ yên lòng làm ăn như thường. Nhân dân và Chính phủ Việt Nam sẽ giúp đỡ và
bảo hộ các bạn”47. Đó là tư duy rất cởi mở và tiến bộ.
c, Phát triển kinh tế hợp tác xã - nội dung trọng tâm trong tư tưởng HCM
về thành phần kinh tế
Trong tất cả các TPKT tồn tại ở nước ta. HCM quan tâm nhiều nhất đến
phát triển của kinh tế HTX. Người đã dành nhiều thời gian và công sức để
nghiên cứu lý luận tuyên truyền, vận động và chỉ đạo thực hiện phong trào hợp
tác hóa nhằm thúc đẩy sự ra đời, phát triển và củng cố HTX. Sự quan tâm đặc
biệt của người đến TPKT này xuất phát từ tình thương đối với nhân dân lao
46
47

Sđd, tập 7, tr 221 – 222.
Sđd, tập 7, tr 361.


động và xuất phát từ tình hình KT - CT - XH cụ thể của nước ta thời kỳ trước và
sau CM tháng 8.
a, Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám
HCM đã nhận định chắc chắn rằng: Cách mạng sẽ thành công và sau cách
mạng thành công phải xây dựng đời sống mới. Do đó một phần nội dung trong
tác phẩm “Đường cách mệnh” đã được HCM trình bày một cách hệ thống, toàn
diện và chặt chẽ những vấn đề lý luận về HTX. Trong tác phẩm được chia thành
nhiều phần nội dung: Tư cách một người cách mệnh; Cách mệnh là gì?; Lịch sử
cách mệnh mỹ; Cách mệnh Pháp; Lịch sử cách mệnh Nga; Quốc tế và các tổ
chức quốc tế; Cách tổ chức công hội; tổ chức dân cày; Hợp tác xã.
* Về mục đích của HTX

“Tuy cách làm thì có khác nhau ít nhiều, nhưng mục đích thì nước nào cũng
như nhau. Mục đích ấy thì trong Tuyên ngôn của HTX Anh đã nói: “Cốt làm cho
những người vô sản giai cấp hóa ra anh em. Anh em thì phải làm giùm nhau,
nhờ lẫn nhau. Bỏ hết thói cạnh tranh”; “HTX trước là có ích lợi cho dân, sau là
bớt sức bóp nặn của tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa”48.
* Về lý luận hình thành HTX
“Tục ngữ An Nam có những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành
khó” và “Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”.
Lý luận HTX ở trong những điều ấy”49.
* Về các hình thức HTX
“HTX có bốn cách:
1. HTX tiền bạc;
2. HTX mua;
3. HTX bán;
4. HTX sinh sản”50.
* Về cách thức tổ chức HTX
48

48, 49, 50, Sđd, tập 2, tr 313 – 314.

49
50


“Không phải làng nào cũng lập mỗi làng một HTX. Cũng không phải mỗi
làng phải lập cả mấy HTX. Cũng không phải có HTX này thì không lập được
HTX kia. Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi nào lập được HTX nào và có khi hai
HTX - mua và bán - lập chung cũng được… HTX chỉ có hội viên mới được
hưởng lợi, chỉ có hội viên mới có quyền, nhưng những việc kỹ thuật như tính
toán, xem hàng hóa, cầm máy, v.v, thì có phép mướn người ngoài.

Đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều góp ít, vào trước vào sau, ai cũng bình
đẳng như nhau”51.
b, Trong thời gian cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc
Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế (1955 - 1957), miền Bắc
bước vào thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH, mặc dù bận rất nhiều công việc
nhưng HCM luôn quan tâm đến việc xây dựng và củng cố HTX. Trên giường
bệnh Bác vẫn cố gắng viết lời giới thiệu Điều lệ tóm tắt HTX sản xuất nông
nghiệp.
* Về đường lối xây dựng HTX
HCM đã chỉ rõ: “Muốn phát triển nông nghiệp thì trước hết phải xây dựng
tốt phong trào đổi công ở khắp mọi nơi và trên cơ sở đó sẽ xây dựng HTX nông
nghiệp từ thấp đến cao”52 và “Đường lối cải tạo XHCN của Đảng đối với nông
nghiệp là đưa nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mần mống
XHCN), tiến lên HTX cấp thấp (nửa XHCN), rồi tiến lên HTX cấp cao
(XHCN)”53.
* Về mục đích của việc tổ chức HTX
“Là cải thiện đời sống của nông dân, làm cho nông dân được lo ấm, mạnh
khỏe, được học tập, làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới
mạnh. Đó là mục địch riêng và mục đích chung của việc xây dựng HTX”54.
* Về nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX
51

Sđd, tập 2, tr 318.
Sđd, tập 9, tr 136.
53
Sđd, tập 10, tr 15.
54
Sđd, tập 9, tr 537.
52



- Việc xây dựng các tổ đổi công và HTX phải làm từ nhỏ đến lớn và “phải
theo nguyên tắc tự nguyện, tự giác, không gò ép”55.
- Việc quản lý phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh.
- Việc phân phối “phải chú ý phân phối cho công bằng” và “Phải làm thế
nào cho xã viên trong HTX thu nhập nhiều hơn thu nhập của nông dân trong tổ
đổi công và tổ viên trong tổ đổi công thu nhập cao hơn thu nhập của nông dân
còn làm ăn riêng lẻ”56.
* Về nhiệm vụ của HTX
“Để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, các HTX cần phải làm đúng 9
điều sau đây:
1. Mọi người phải nâng cao tinh thần đoàn kết, tinh thần làm chủ, thực hiện
cần kiệm xây dựng HTX, chống lãng phí, tham ô.
2. Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải rất coi
trọng hoa màu, cây ăn quả, cây nông nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ, phải
coi trọng tăng vụ, vỡ hoang và tăng năng suất.
3. Phát triển SX chung của HTX là chính, nhưng cần chiếu cố đúng mức
SX gia đình của xã viên.
4. Về quy mô HTX chỉ nên có từ 150 hộ đến 200 hộ, không nên quá nhiều,
quá nhiều thì khó quản lý.
5. HTX bậc cao thì SX và thu nhập cũng phải cao mới xứng danh cao của
nó.
7. Quản trị phải dân chủ, công bằng, minh bạch.
8. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động và dân quân tự vệ cần
phải xung phong gương mẫu trong mọi công việc.
9. Phải chú ý phát triển công nghiệp địa phương nhằm phục vụ cho nông
nghiệp”57.
* Nhà nước đối với HTX
55
56

57

Sđd, tập 9, tr 410.
Sđd, tập 10, tr 397 - 398.


“Chính phủ phải cố gắng phục vụ lợi ích của HTX của nông dân và nhân
dân nói chung. HTX nông dân phải bảo đảm làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Làm như vậy thì ích nước lợi nhà, xã viên có lợi, HTX có lợi”58.
* Sự lãnh đạo của Đảng đối với HTX
“Ngày nay Đảng lãnh đạo nông dân xây dựng HTX. Phong trào hợp tác hóa
phát triển mạnh mẽ, mở đường cho nông dân tiến tới no ấm. Đảng lại đề ra kế
hoạch 5 năm phát triển nông nghiệp… Để hoàn thành kế hoạch đó, Đảng phải
tăng cường sự lãnh đạo của mình… cái gốc trong việc lãnh đạo HTX vẫn là chi
bộ đảng ở cơ sở”59.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý kinh tế
a, Tư tưởng HCM về quản lý nền kinh tế quốc dân
* Về cơ cấu kinh tế trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta
- Về cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ đặc điểm đất nước, ngay từ đầu, HCM đã xác định cơ cấu kinh
tế nước ta là: cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại và đưa ra quan niệm độc đáo
về cơ cấu công - nông nghiệp và vai trò của thương nghiệp trong phát triển KT XH ở TKQĐ.
i, Công nông nghiệp là hai ngành SX ra những SP đáp ứng những nhu cầu
khác nhau của nền kinh tế và XH.
ii, Hai ngành không tách rời nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau:
“Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… Công nghiệp
phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp
phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều
thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”60.
iii, Tại Hội nghị BCT bàn về những phương hướng khôi phục và phát triển

kinh tế sau hòa bình lập lại, có ý kiến muốn tập trung lực lượng vào XD, phát
triển CN nặng để nhanh chóng đưa nền kinh tế tiến lên, HCM cho rằng: “Mấy
58

Sđd, tập 10, tr 415.
Sđd, tập 10, tr 415.
60
HCM, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2002, tập 10, tr 544 – 545.
59


năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị, nếu muốn CNH
gấp thì chủ quan…, cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp… Ta cho
nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp
nhẹ, sau mới đến công nghiệp nặng”61.
iiii, Lý do HCM lựa chọn con đường phát triển kinh tế sau 1954 là ưu tiên
phát triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm gốc.
Một là, Miền Bắc vừa thoát khỏi hậu quả chiến tranh, hậu quả do địch lập
vành đai trắng, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh đồng bằng rất nghiêm
trọng nên vấn đề quan trọng hàng đầu là giải quyết cái ăn, cái mặc, rồi mới đến
các vấn đề khác.
Hai là, phát triển nông nghiệp tạo cơ sở để phát triển nông nghiệp, vì nước
ta là một nước nông nghiệp, mọi việc phải dựa vào nông nghiệp.
“Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới phát triển
nhanh”; “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy
phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp
thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên
liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm
ra”62.
Ba là, nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.

Đó là 3 nhân tố “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, vì vây, phải đi từ nông
nghiệp, phải coi “phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”63.
Nhiệm vụ quan trọng trong suốt TKQĐ lên CNXH là CNH để biến nước ta
từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp: “Nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội”64.
Sự tồn tại và khả năng tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp được
thực hiện qua một mắt khâu trung gian là thương nghiệp. Vì vậy, việc cải tạo và
61

Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị ngày 10/12/1954, Văn bản lưu tại Văn phòng Trung ương Đảng.
Sđd, tập 10, tr 14 -15; tr180.
63
Sđd, tập 10, tr 544.
64
Sđd, tập 10, tr 13.
62


xây dựng nông nghiệp, công nghiệp không thể tách rời cải tạo và xây dựng
ngành thương nghiệp. Vì: “Trong nền kinh tế quốc dân có 3 mặt quan trọng
nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật thiết với
nhau. Thương nghiệp là khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp
đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản,
nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không
liên kết được giữa nông nghiệp và công nghiệp, không củng cố được công nông
liên minh. Công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công
nghiệp sẽ bị rời rạc”65.
- Về cơ cấu thành phần của nền kinh tế.
+ HCM là người đầu tiên chủ trương phát triển nền kinh tế với CCNTP

trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta.
Về lý luận, Người kế thừa trực tiếp các luận điểm của Lênin về nền kinh tế
nhiều thành phần trong NEP. Cách sắp xếp thứ tự các TPKT của Lênin là làm rõ
sự vận động của các chế độ sở hữu trong lịch sử theo hướng từ thấp đến cao,
đồng thời chỉ ra tính chất tiệm cận và mức độ gần gũi của các TPKT khác nhau
với TPKT xã hội chủ nghĩa (Kinh tế nông dân gia trưởng, có tính chất tự nhiên;
SX hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ
nghĩa xã hội).
Theo HCM, dưới chế độ dân chủ mới: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm
loại kinh tế khác nhau:
A. Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH…).
B. Các HTX (nó là nửa CNXH…).
C. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ…
D. Tư bản của tư nhân.
E. Tư bản nhà nước”66.
Cách sắp xếp TPKT của HCM bề ngoài ngược với cách xếp của Lênin
nhưng không tạo nên sự đối lập mà là sự bổ sung hợp lý. HCM căn cứ vào vai
65
66

Sđd, tập 8, tr 174.
Sđd, tập 7, tr 247, 248.


trò thực tế của từng TPKT trong đời sống KTXH Việt Nam. Theo tiêu trí này,
TPKT XHCN ở vị trí cao nhất, bởi nó là nền tảng kinh tế của chế độ mới, là chỗ
dựa của Nhà nước.
+ HCM cũng là người Việt Nam đầu tiên dành sự quan tâm đặc biệt đến sự
phát triển kinh tế hợp tác. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” HCM đã dành
hẳn một chương viết về HTX.

+ Ngoài TPKT xã hội chủ nghĩa, HCM còn thừa nhận sự tồn tại khách
quan, tất yếu, lâu dài của các TPKT khác (Như đã trình bầy ở trên).
* Về cơ chế quản lý kinh tế.
- Hệ thống bộ máy quản lý kinh tế quốc dân.
Theo HCM hạnh phúc của ND từng bước được nhân lên, trước hết do thành
quả lao động của chính họ; song để đem lại hạnh phúc thực sự, lâu bền và toàn
diện cho toàn XH thì vai trò của Nhà nước hết sức to lớn, có ý nghĩa quyết định,
vì nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
+ Vai trò thể hiện ở chính sách cụ thể phát triển KT - XH trong từng gia
đoạn, thời kỳ, theo mục tiêu chiến lược…
+ Thể hiện ở hệ thống pháp luật đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, bảo đảm cho
mọi người trong xã hội thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, được hưởng những
quyền lợi chung.
+ Đặc điểm cơ bản trong tư duy quản lý kinh tế của HCM là tất cả mọi thao
tác đều quy về nhân tố người lao động. Tổ chức SX và QLKT cũng xuất phát từ
nhân tố con người và nhằm mục đích phục vụ con người. Sử dụng đúng người,
đúng việc như dụng mộc. Sử dụng không đúng người đúng việc thì không có
ĐK để tăng năng suất LĐ, nâng cao chất lượng. Tổ chức lao động hợp lý là vì
việc xếp người, không vì người mà đặt việc.
i, Quản lý kinh tế, trước hết là phải quản lý người lao động. Quản lý chặt
chẽ phải đi đôi với giáo dục; giáo dục hệ thống luật, giáo dục tính tự giác cho
người lao động “Ở xí nghiệp phải biết quản lý; có quản lý mới biết thu vào, tiêu


ra, mới biết lỗ lãi, mới biết ai làm tốt, ai làm xấu, ai làm vượt mức, ai không
vượt múc, muốn làm được như thế phải biết quản lý”67.
ii, Muốn quản lý tốt phải có người quản lý giỏi, nhưng trước hết người quản lý
phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn.
HCM yêu cầu “Cán bộ tham gia lao động, công nhân tham gia quản lý”.
iii, Tham gia quản lý, người lao động thực sự thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi

công dân của mình; có điều kiện phát hiện những hợp lý hay chưa hợp lý để đề
xuất với người quản lý cách thức phát huy hoặc biện pháp khắc phục, giúp người
QL điều chỉnh phương pháp, biện pháp kịp thời, làm tốt nhiệm vụ quản lý.
iiii, HCM cho rằng công tác cải tiến quản lý, công tác cải tiến kỹ thuật và
cải tiến tổ chức như kiềng ba chân. Ba cái chân phải bằng nhau thì kiềng mới
đứng vững được. Muốn làm tốt cả 3 việc phải thực hiện dân chủ; dân chủ là
động lực phát triển, mất dân chủ là mất đi thái độ thực sự cầu thị, lắng nghe ý
kiến thẳng thắn, làm mất đi sự bàn bạc để đi tới khẳng định sáng kiến, có khả
năng thực hiện để đem lại nhiều lợi ích cho tập thể. Cái yếu kém nhất và cũng là
cái xấu nhất của người quản lý là bóc nghẹt dân chủ. Bác nhắc nhở: ‘Phải tìm
cách tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để 1 người có thể làm việc như 2 người, 1 ngày
có thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng có thể dùng bằng 2 đồng”68.
- Về phương thức tác động
+ Hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế và quản lý kinh tế.
i, Về mục tiêu phát triển kinh tế
Năm 1945, HCM khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập tự do rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết
rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” 69, “Tất cả
đường lối, phương châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời
sống nhân dân”70.
67

Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Cao bằng, Bác Hồ với Cao Bằng, 1985, tr 165 – 157.
Sđd, tập 6, tr 468.
69
Sđd, tập 4, tr 152.
70
Sđd, tập 10, tr 380.
68



×