Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THU HOẠCH KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN lực với PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.67 KB, 28 trang )

MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng và xu thế phát triển
kinh tế lấy kinh tế tri thức, công nghệ thông tin làm động lực, vai trò của
nhân lực đối với phát triển kinh tế xã hội trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Con người với khả năng nắm giữ kiến thức, kinh nghiệm đã trở thành mũi
nhọn trong phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy đào tạo nguồn nhân lực là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.Việc làm rõ vấn đề con người có tác động như thế nào, đóng góp những
gì cho quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, làm sao đế nhũng đóng
góp của họ hiệu quả hơn, tức xem xét con người từ góc độ phát triến nguồn
nhân lực đang là một vấn đề bức xúc và đòi hỏi nhiều nghiên cứu từ nhiều
khía cạnh khác nhau.
Như vậy đào tạo nguồn nhân lực chính là nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chỉ phát triển khi nền kinh tế
phát triển.
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay đã mang lại nhiều cơ hội cho tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội, là một trong những nhân tố phát triển nguồn
nhân lực, làm tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người lao
động. Đối với Việt Nam chịu tác động rất lớn của xu thế đó tới các vấn đề về
lao động, tác động đến mở rộng việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phát triến thị trường lao động, tăng thu nhập của người lao động trong
nhiều khu vực, ngành nghề. Năng suất lao động trong nhiều khu vực, ngành
đã đạt mức cao hơn nhiều so với trước kia.


Đế hiếu rõ hơn những ảnh hưởng của nguồn nhân lực tới sự phát triển
kinh tế xã hội như thế nào, bản thân chọn đề tài: “Phát triến nguồn nhân
lực với việc phát triển kinh tế- xã hội” làm nội dung thu hoạch môn kinh tế
nguồn nhân lực.
NỘI DUNG
1.



Nguồn nhân lực và các nhân tố ảnh hưởng
1.1. Nguồn

nhân lực

1.1.1.

Khái niệm

Khái niệm về Nguồn nhân lực (NNL) khá đa dạng và được đề cập đến
tù' nhiều góc độ khác nhau:
Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con
người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Nguồn nhân lực theo GS.Phạm Minh Hạc (2001) là tổng thế các tiềm
năng lao động của một nước hoặc một địa phương sẵn sàng tham gia một
công việc nào đó.
Liên Hợp Quốc cho rằng, Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước,
chủ yếu xem xét nguồn nhân lực ở phương diện chất lượng con người và vai
trò, sức mạnh của nó tới sự phát triển xã hội.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về Nguồn nhân lực nhưng nhìn
chung thì NNL được hiểu là nguồn lực về con người và theo cách nào đi nữa
khi nói về NNL đều thế hiện: khả năng lao động của một xã hội, là nguồn


cung cấp sức lao động cho xã hội, là chủ thể và là động lực của quá trình
phát triển, có chu kì sống và chịu sự khống chế của phương thức sản xuất
nhất định.
Nói đến NNL phải xem xét con người vừa là chủ thể vừa là khách thể

của các quá trình kinh tế, xã hội. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng
các nguồn lực khác hiện có, đồng thời góp phần tạo ra các nguồn lực mới, để
duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối
tượng được khai thác cả về trí lực và thể lực cho mục tiêu phát triển xã hội .
Hai tư cách này tồn tại không tách rời nhau, bởi lẽ khi khai thác các nguồn
lực khác con người phải sử dụng trí lực và thế lực của mình. Chính con
người với sức lực và trí tuệ của mình quyết định mục tiêu, cách thức, nội
dung và hiệu quả khai thác các nguồn lực khác. Ngược lại, quá trình khai
thác trí lực và thế lực ở con người đều có quan hệ với các nguồn lực khác ở
các mức độ khác nhau. Với ý nghĩa đó, con người là chủ thế, vừa là khách
thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát triển kinh tế - xã
hội. Như vậy, NNL giữ vị trí trung tâm không chỉ trong hệ thống các nguồn
lực của sự phát triển mà còn của chính sự phát triển xã hội.
Mặt khác, NNL phải được xem xét trên 2 góc độ là số lượng và chất
lượng:
1.1.2.

Số lượng NNL

Được xác định bởi các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ tăng của NNL. Ví
dụ như NNL ở nước ta tại một thời điểm xác định là bao nhiêu, chiếm tỷ lệ
bao nhiêu phần trăm trong tống dân số, tăng trưởng là bao nhiêu phần trăm


một năm..,các chỉ tiêu ảnh hưởng trực tiếp của quy mô và tốc độ phát triển.
Ớ Việt Nam, độ tuối lao động được quy định: Nam từ đủ 15 đến đủ 60 tuổi,
Nữ từ đủ15 đến đủ 55 tuổi.
1.1.3.

Chất lượng NNL


Được thể hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng phát triển thể lực, trình độ
kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu NNL về tuổi tác, giới
tính, nghề nghiệp, phân bố theo khu vực lãnh thổ, khu vực thành thị, nông
thôn...Nó không chỉ là chỉ tiêu trình độ phát triển kinh tế mà còn là chỉ tiêu
phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội. Bởi lẽ, chất lượng NNL
cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là NNL của sự
phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Chất lượng NNL được thể hiện qua một số chỉ
tiêu sau.
- Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư.
Sức khoẻ là tình trạng thoải mái về thế chất, tinh thần về xã hội chứ
không phải chỉ đơn thuần là không có bệnh tật. Nó là tống hoà nhiều yếu tố
tạo nên giữa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần. Nó được thể
hiện qua thể lực, tỷ lệ sinh thô, chết thô, tỷ lệ tăng tụ nhiên, cơ cấu giới
tính,tuối tác...
-

Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của người lao động.
Trình độ văn hoá của người lao động là sự hiểu biết của người lao động

đối với những kiến thức phố thông về tự nhiên và xã hội. Trong chừng mực
nhất định trình độ văn hoá biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Trình


độ văn hoá thể hiện thông qua các quan hệ tỷ lệ: sổ lượng người biết chữ và
chưa biết chữ, số người có trình độ tiếu học, trung học cơ sở, trung học phố
thông, đại học và trên đại học. Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản
ánh chất lượng của NNL và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triến
kinh tế- xã hội. Trình độ văn hoá cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một

cách nhanh chóng nhũng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.
-

Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động.
Trình độ chuyên môn là sự hiếu biết, khả năng thực hành về chuyên

môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học
chuyên nghiệp, cao đắng, đại học và sau đại học có khả năng chỉ đạo quản lý
một công việc hay một chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn
NNL được đo bằng: tỷ lệ cán bộ trung cấp, tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại hoc, tỷ
lệ cán bộ trên đại học.
-

Chất lượng NNL còn được thể hiện thông qua chỉ số phát triển con
người (HDI)
Chỉ số này được tính bởi 3 chỉ tiêu chủ yếu: tuổi thọ bình quân, thu

nhập bình quân đầu người, trình độ học vấnế
Như vậy chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triến con người về mặt
kinh tế, mà còn nhấn mạnh chất lượng cuộc sổng và sự công bằng, tiến bộ xã
hội
1.2. Các
1.2.1.

nhân tố ảnh hưởng tới nguồn nhân lực.
Các nhân tố liên quan đến trình độ thể chất.


Các nhân tố này có ảnh hưởng lớn tới NNL như: yếu tố di truyền, y tế,
thế dục thể thao, môi trường sống của mỗi quốc gia. Chẳng hạn như y tế có

tác động tới sức khỏe, sức khỏe có tác động tới chất lượng NNL cả hiện tại
và tương lai. Người lao động có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi
nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả
năng tập trung cao khi làm việc. Sức khỏe có thế được đánh giá ở thế
lực(chiều cao, cân nặng). Điều này lại phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng và
chăm sóc sức khỏe. Đối với người đang làm việc thế lực của họ một mặt phụ
thuộc vào yếu tố dinh dưỡng mặt khác còn phụ thuộc vào dịch vụ chăm sóc
sức khỏe thường xuyên (đặc biệt đối với những ngành nghề độc hại) và
chính sách bảo hiếm y tế đối với người lao động.
Trên thực tế hầu hết các nước đều quan tâm đến NNL trong tương lai.
Thế hiện ở việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khỏe tốt cho trẻ em. Đây là
cách thức để giúp cho thế hệ tương lai phát triển tốt thể lực, lành mạnh về
tinh thần do đó cũng có đủ năng lực đế nhanh chóng tiếp thu nhũng kiến
thức, kỹ năng đế phát triến. Như vậy có thế nói hoạt động giáo dục và hoạt
động y tế, chăm sóc sức khỏe có tác động hỗ trợ lẫn nhau, bố sung cho nhau
trong việc cải thiện chất lượng NNL. Hay là yếu tố môi trường sổng cũng
vậy nếu có một môi trường sổng lành mạnh, sạch sẽ thì con người cũng sẽ
có điều kiện tốt hơn cả về thể chất lẫn tinh thần.
1.2.2.

Các nhân tố lien quan đến trình độ chuyên môn

Trình độ chuyên môn của NNL nó lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục,
đào tạo; chính sách và biện pháp sử dụng; tập quán...


Hệ thống giáo dục đào tạo có ảnh hưởng rất quan trọng, dường như là
nhân tố quyết định. Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của
con người nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả
cuộc đời.

Giáo dục phố thông (giáo dục cơ bản) nhằm cung cấp những kiến thức
cơ bản đế phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học
(đào tạo) vừa giúp người học có kiến thức đồng thời còn cung cấp tay nghề,
kỹ năng và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào tạo nhất định, người học có
thể biết được họ sẽ phải đảm nhận nhũng công việc gì? Yêu cầu kỹ năng
cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào?
Giáo dục tốt là cách thức để tăng tích lũy vốn con người đặc biệt là tri
thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới.
Nó còn tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc với
năng suất cao là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững. Không
những thế giáo dục cung cấp kiến thức và những kỹ năng đế người dân đặc
biệt là phụ nữ có thế sử dụng nhũng công nghệ nhằm tăng cường sức khỏe,
dinh dưỡng. Chẳng hạn tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm xuống, tỷ lệ dinh dưỡng
trẻ em tăng lên cùng với học vấn của cha mẹ, đặc biệt là người mẹ biết cách
sử dụng nhũng thức ăn giàu dinh dưỡng hơn...Với những ý nghĩa trên giáo
dục còn giúp bổ sung cho các dịch vụ y tế như đã nói ở trên. Một vấn đề
cũng không kém quan trọng là chính sách quản lý và sử dụng nhân lực nhằm
phát huy khả năng của nó. Nó là các yếu tố đế kích thích sản xuất và tạo ra
động cơ mới cho người lao động. Thông thường các chính sách đó được


lồng ghép vào các chính sách xã hội như: chính sách việc làm, chính sách
tiền lương, các chính sách liên quan đến phúc lợi xã hội.
1.2.3.

Các nhân tố liên quan đến trình độ phẩm chất

NNL cũng chịu tác động rất lớn của các nhân tố như: Truyền thống văn
hóa, tính cộng đồng và trình độ phát triển kinh tế- xã hội.
Mức sổng của dân cư chỉ có thế được nâng cao một khi có nền kinh tế

tăng trưởng nhanh với năng suất lao động ngày càng nâng cao, tạo được
phúc lợi xã hội lớn, mọi người lao động đều có cơ hội việc làm, có thu nhập.
Nếu một nước có trình độ phát triến kinh tế xã hội cao thì chắc chắn đời
sống của người dân cũng như người lao động sẽ được cải thiện rất đáng kể.
Một khi kinh tế đã ốn định thì sẽ là nền tảng vững chắc cho người lao động
để họ làm việc thoải mái và tập trung vào công việc.
2.

Phát triên nguồn nhân lực
2.1. Khái

niệm

Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực (PTNNL) được tiếp cận theo
nhiều cách khác nhau.
Theo cách tiếp cận của các nhà kinh tế hiện đại: Con người là mục tiêu
của sự phát triển chứ không phải là nhân tố sản xuất thông thường. Vì vậy,
việc phát triến con người là sự mở rộng các cơ hội lựa chọn, nâng cao năng
lực nhằm hưởng thụ một cuộc sống hạnh phúc, ấm no và bền vũng. Vì thế
việc phát triến con người không chỉ là sự gia tăng về thu nhập, của cải vật
chất mà còn bao gồm cả việc mở rộng khả năng của con người, tạo cho con


người có thế tiếp cận nền giáo dục tốt hơn, chỗ ở tiện nghi hơn và việc làm
có ý nghĩa hơn.
Theo UNESCO: PTNNL là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư
luôn phù hợp với sự phát triến của đất nước.Và chỉ nên giới hạn trong phạm
vi kỹ năng lao động và thích ứng với nhu cầu việc làm.
Theo tố chức lao động thế giới: PTNNL không chỉ là sự chiếm lĩnh trình
độ lành nghề hay ngay cả vấn đề đào tạo nói chung mà còn phát triến năng

lực, phát triển năng lực đó của con người tiến tới có việc làm hiệu quả, cũng
như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sổng cá nhân.
Theo tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO): Phát
triển con người một cách hệ thống vừa là mục tiêu, vừa là đối tượng của sự
phát triển một quốc gia. Nó bao gồm mội khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã
hội như khả năng cá nhân, tăng năng lực sản xuất và khả năng sáng tạo, bồi
dưỡng chức năng chỉ đạo thông qua giáo dục, đào tao và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, có thể thấy PTNNL là quá trình biến đối cả về số lượng và
chất lượng, cơ cấu NNL. Đó là các hoạt động nhằm nâng cao và khuyến
khích đóng góp tốt hơn kiến thức và thể lực của người lao động, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của sản xuất. Kiến thức có được nhờ quá trình đà tạo và tiếp thu
kinh nghiệm, còn thế lực có được nhờ chế độ dinh dường, rèn luyện thân thể
và chăm sóc y tế. Là tổng thể các cơ chế chính sách và biện pháp hoàn thiện,
nâng cao chất lượng NNL (trí tuệ, thế chất, phẩm chất tâm lý xã hội) và điều
chỉnh hợp lý số lượng NNL nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi về NNL cho sự
phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển.


2.2, Các

nhân tố ảnh hưởng tới PTNNL

Các yếu tố tác động tới PTNNL (biến đôi số lượng, chất lượng và cơ
cấu của nguồn nhân lực) khá đa dạng và có thế phân theo các nhóm chính
sau: Sức khỏe (dinh dưỡng, vệ sinh môi trường, chăm sóc sức khỏe); Giáo
dục và đào tạo; Văn hóa và truyền thống dân tộc, mối quan hệ xã hội và gia
đình; Việc làm, trả công thu nhập và mức sống; Sự phát triến kinh tế và biến
đổi kinh tế xã hội; Lối sống và phong cách sổng; Điều tiết sinh đẻ và chăm
sóc sức khỏe sinh sản.
Hơn nữa PTNNL là những tiến bộ về chất lượng NNL của mồi quốc gia,

ngoài yếu tổ chất lượng sức lao động của mỗi cá nhân sổng và làm việc ở đó,
còn phụ thuộc vào cơ cấu của đội ngũ lao động về ngành nghề, trình độ kỹ
thuật, năng lực tổ chức, quản lý, khả năng phối hợp hành động để đạt được
mục tiêu đề ra. Một cơ cấu nhân lực hợp lý, và tổ chức hoạt động tốt sẽ có
tác dụng cộng hưởng làm tăng sức mạnh của tố chức và của từng cá nhân.
Ngược lại, một cơ cấu không hợp lý, không đồng bộ và tố chức hoạt động
không tốt sẽ không phát huy được tác dụng cộng hưởng mà có khi còn làm
giảm sức mạnh cả tổ chức đó và triệt tiêu động lực hoạt động của từng cá
nhân.
Do vậy, nội dung PTNNL phải bao gồm đồng bộ cả ba mặt chủ yếu sau:
Tăng cường thể lực; Phát triển trí lực và kỹ năng; Tạo môi trường việc làm
và đãi ngộ thỏa đáng cho con người. Cả ba mặt này có quan hệ mật thiết với
nhau và xâm nhập lẫn nhau cho nên phải giải quyết một cách đồng bộ.


-

Tăng cường thể lực: Đó là những chính sách chăm sóc, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe cho mọi người, đáp úng nhu cầu phát triến toàn diện
con người. Không chỉ tập trung vào thế hệ hiện tại mà cần chú ý chăm
lo cho thế hệ tương lai cải thiện thể chất và thể lực.

-

Phát triến kỹ năng và trí lực:
Trước hết cần giáo dục cơ bản, nó là nền móng, tiền đề cần thiết cho đào

tạo nguồn nhân lực và là một nhân tố cơ bản của phát triển nguồn nhân lực.
Vì vậy, trong việc đánh giá phát triến nguồn nhân lực của quốc gia, trước hết
người ta dựa vào trình độ giáo dục phổ thông (tỷ lệ biết chữ, trình độ giáo

dục phổ cập- số năm giáo dục bắt buộc, tỷ lệ đi học của trẻ em trong các
nhóm tuổi của mỗi cấp học). Tiếp theo là phải phát triển đào tạo nguồn nhân
lực (phát triển kỹ năng ). Điều tiết quy mô đào tạo chung và của từng cấp độ
đào tạo khác nhau. Chính sách tài chính trong PTNNL có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu trong chính sách phát triến nguồn nhân lực. Đa dạng hóa các
nguồn tài chính nhằm huy động ngày càng nhiều và đa dạng các nguồn tài
chính cho phát triển đào tạo. Ưu tiên chi ngân sách nhà nước cho phát triển
đào tạo nguồn nhân lựcẼ Lựa chọn các lĩnh vực un tiên để phân bổ các
nguồn tài chính cho đào tạo nguồn nhân lực.
Tạo môi trường việc làm và đãi ngộ cho con người: cần có các chính
sách thu hút và sử dụng lao động. Nó sẽ tác động trực tiếp đến quá trình
quản lý nguồn nhân lực. Kích thích điều tiết phát triển thị trường lao động
phục vụ lợi ích chung và lợi ích của người lao động, cần có các chính sách
riêng đế quản lý và thúc đẩy sự phát triển của các loại thị trường đặc biệt.


2.3. Phát
2.3.1.

triến nguồn nhân lực thông qua giáo dục - đào tạo.

Nguyên nhân phát íriến nguồn nhân lực thông qua giáo dục và

đào tạo
Đóng góp chính của PTNNL cho quá trình công nghiệp hoá chính là đào
tạo và cung cấp đủ NNL đáp ứng kỹ năng và sức khoẻ. Giáo dục - đào tạo là
cơ sở và là một phương thức cho phát triển nguồn nhân lực, không chỉ góp
phần nâng cao trình độ nhân lực mà còn đóng góp vào việc nâng cao sức
khoẻ và dinh dưỡng, kế hoạch hoá dân số, tăng nguồn vốn cho xã hội... Có
vai trò quyết định đối với việc hình thành quy mô và chất lượng nguồn nhân

lực của đất nước
Giáo dục nhìn từ góc độ PTNNL hẹp hơn so với giáo dục như một quá
trình tồn tại trong xã hội. Không phải tất cả những gì thu được trong giáo
dục đào tạo đều nằm trong khuôn khổ PTNNL. Những kiến thức và kinh
nghiệm thu nhận được trong quá trình giáo dục đào tạo và làm việc không sử
dụng cho quá trình sản xuất thì không nằm trong phạm vi của PTNNL. Giáo
dục và đào tạo chuẩn bị cho con người sự phát triển bền vững trên tất cả các
lĩnh vực cho lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai của đất nước. Lịch sử đã
chứng minh rằng trong tất cả các yếu tố tạo nên sự thành công của một quốc
gia, nền giáo dục của quốc gia đó là yếu tố cơ bản. Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã khẳng định “...Giáo dục là một nhân tố có tầm quan trọng bậc nhất,
góp phần làm nên không chỉ sự nghiệp của một con người, mà còn là động
lực làm nên lịch sử của một dân tộc..


Giáo dục đào tạo đóng một vai trò quyết định trong việc gây dựng
nguồn nhân lực- nguồn lực quý giá nhất trong các nguồn lực. Nguồn lực quý
giá nhất đó lại do chúng ta gây dựng nên chứ không phải chuyển giao từ bên
ngoài như chuyển giao công nghệ, không thể thu hút từ các nước phát triển
như thu hút vốn đầu tư. Bởi thế cần phải coi trọng giáo dục và đào tạo là
“Quốc sách hàng đầu”, giáo dục đào tạo phải được đi trước một bước, thậm
chí đi trước nhiều bước. Điều quan trọng là phải làm sao cho giáo dục đào
tạo là quốc sách hàng đầu thấm vào máu thịt của các cấp, các ngành và đông
đảo nhân dân lao động, biến nó thành hành động thực tiễn trong cuộc sống.
Ngoài ra giáo dục và đào tạo còn có tác dụng thúc đẩy hiếu biết sâu sắc hơn
về thế giới quanh ta, về bản sắc tòng dân tộc, cũng như sự tương đồng và
khác biệt giữa nền văn hoá văn học - văn minh, các giai cấp, các quốc gia,
dân tộc...nghĩa là giáo dục có vai trò mở rộng tầm nhìn, nâng cao trình độ tri
thức cho người lao động, đế họ có thế tiếp thu, chọn lọc tinh hoa văn hoá của
nhân loại trong khi vẫn bảo tồn được tinh hoa văn hoá dân tộc.

Giáo dục - Đào tạo có vai trò quyết định đối với việc hình thành quy
mô và chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Giáo dục là sự nghiệp
chung, Nhà nước chăm lo xây dựng kế hoạch phát triến giáo dục và ban
hành những chính sách phù hợp với trình độ phát triến kinh tế- xã hội của
đất nước; các doanh nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tích cực
góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật
lực, tài lực cho giáo dục... và mọi người được tạo cơ hội tiếp cận với học vấn
phố thông và nghề nghiệp.


2.3.2.

Phát triển nguồn nhãn lực thông qua giáo dục đào tạo

Các cơ sở giáo dục, đào tạo là nơi thực hiện nhiệm vụ cung ứng cho xã
hội những con người có đủ phấm chất, trình độ nghề nghiệp đáp ứng được
yêu cầu của công việc cụ thể. Trong đó các trường đại học, cao đẳng nắm vai
trò đào tạo con người ở trình độ cao có thế hoàn thành một công việc theo
yêu cầu, đồng thời nghiên cứu đề ra phương án tối ưu đế thực hiện công việc
hiệu quả hơn. Như vậy vấn đề đặt ra là nhà trường trong một thời gian, một
giai đoạn cụ thể phải đào tạo những ngành nghề gì? Trình độ nào? số lượng
bao nhiêu là phù hợp? Một vấn đề cũng không kém phần quan trọng là đào
tạo nhũng chuyên ngành hẹp nào đế đáp ứng đúng với nhu cầu của từng
doanh nghiệp cụ thể, chuyên môn sâu nào đế đi vào nền kinh tế hiện tại một
cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Để xác định nhiệm vụ đào tạo cơ sở
giáo dục, đào tạo tìm hiếu rõ nhu cầu của địa phương, của vùng và rộng hơn
là của cả nước, thậm chí của khu vực. Vì rằng học sinh, sinh viên tốt nghiệp
có thế tìm việc làm ở bất cứ nơi nào có nhu cầu chứ không phải chỉ



ở địa phương nơi được đào tạo và khi hội nhập kinh tế thế giới thì việc làm
có thể đến với người lao động bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu- khu vực nhà
nước, liên doanh, tư nhân,...Như vậy đào tạo phải đáp ứng đúng với nhu cầu
của xã hội, đáp ứng đúng với yêu cầu cụ thể của nguồn nhân lực, nghĩa là
liên quan đến số lượng và chất lượng.
Việc đào tạo nguồn nhân lực nhất thiết phải nhắm vào nhu cầu về nhân
lực. Người học sau khi tốt nghiệp phải được sử dụng đúng chồ và người sử
dụng phải được đáp ứng theo yêu cầu sử dụng. Mục tiêu đào tạo phải được
xác định đúng, chương trình đào tạo phải được thiết kế phù hợp với nhu cầu
sử dụng nhân lực, do đó cần có sự góp ý rộng rãi. Thời gian qua chỉ tiêu
tuyển sinh của từng ngành chưa thực sự dựa trên các kết quả thăm dò nhu
cầu của xã hội, việc xây dựng chương trình chưa đạt đến mức phù hợp với
thực tiễn xã hội. Tuyển sinh ngành nào có tính thuận lợi cho công tác đào
tạo, ít tốn kém, dễ thực hiện hoặc đáp ứng theo nguyện vọng của người học
chứ không phải theo nhu cầu nhân lực của xã hội, theo mục tiêu phát triển
kinh tế lâu dài. Do không có sự phù hợp giữa đào tạo với nhu cầu nên việc
bố trí việc làm có khó khăn và phần nào người lao động phải chịu làm việc
trái với ngành nghề.
Nhũng năm gần đây, các trường đại học trên cả nước đã có những bước
phát triển đáng kể cả về số lượng, chất lượng và quy mô đào tạo. Hầu hết
các tỉnh, thành phố đều có trường đại học. Sự phân tầng về chất lượng đào
tạo trong khu vục ngày càng rõ nét, những trường đại học lớn đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ, chất lượng cao bậc đại học và sau đại học, một số
trường mới thành lập, tập trung đào tạo nghề cho số đông. Các trường đã
-


góp phần đáng kế vào sự phát triến kinh tế-xã hội của các địa phương trong
khu vực.
Tuy nhiên hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập

cần được giả quyết như:
Việc phân luồng đào tạo như hiện nay còn nhiều bất cập. Xuất phát từ
tâm lý xã hội, ai cũng mong muốn con em vào đại học, vì vậy áp lực xã hội
đối với các trường đại học khá nặng nề, trong khi nhu cầu nhân lực ở các bậc
thấp hơn như: Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân lành nghề.. lại
lớn hơn nhiều. Sự bất cập trong phân luồng dẫn đến tình trạng lãng phí quá
lớn cả về thời gian, vật chất của người học. Tình trạng những người có bằng
đại học đang làm công việc của nhũng người công nhân hiện nay khá phô
biến. Do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và cơ sở sản xuất
trong đào tạo nhân lực, nên hiện tại các đơn vị sản xuất, các doanh nghiệp
gần như sử dụng “miễn phí” nguồn nhân lực từ các trường đào tạo ra. Chính
vì không có sự hỗ trợ từ phía các đơn vị sử dụng lao động, nên nội dung,
chương trình và chất lượng đào tạo chưa thật sự gắn kết với nhu cầu doanh
nghiệp. Ớ bậc sau đại học, chương trình đào tạo thạc sĩ chủ yếu dành cho
những người nghiên cứu, trong khi đại bộ phận học xong bậc thạc sĩ lại tiếp
tục gắn bó với công việc thực tiễn.
Do quy mô đào tạo của các trường đại học tăng nhanh, đội ngũ cán bộ
giảng dạy phát triến không kịp nên đại bộ phận giảng viên đại học phải tập
trung vào giảng dạy là chính, xem nhẹ công tác nghiên cún khoa học, dẫn tới
nguy cơ giảng viên đại học quên mất nghĩa vụ nghiên cứu khoa học.

-


Hơn 10 năm nay Nhà nước quy định không được tăng học phí, trong khi
các trường phải trích trên 80% nguồn thu từ học phí để phục vụ lộ trình tăng
lương của Nhà nước, miễn giảm học phí cho con em gia đình chính sách, gia
đình nghèo và cấp học bống cho sinh viên, phần còn lại (chưa tới 20%) dùng
đầu tư cơ sở vật chất, chi trả giờ giảng... Do thù lao giờ giảng quá thấp khiến
giảng viên không mặn mà với việc dạy nhiều giờ, họ chỉ dạy vừa đủ giờ

chuẩn ở trường công lập, thời gian còn lại dạy thêm ở các trường tư. Nguy
cơ giảng viên giỏi, có học hàm, học vị bỏ trường công ra làm việc ở các đơn
vị khác, hoặc bỏ trường có thu nhập thấp sang trường có thu nhập cao hơn
ngày càng tăng.. .Vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo là điều không thế
tránh khỏi.
3.

Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục
đào tạo với phát triến kinh tế xã hội
3.1. Vai

trò của PTNNL thông qua giáo dục đào tạo đến tăng trưởng

kinh tế.
Phát triển kinh tế nhanh và bền vũng đặt nền tảng trên chủ trương, chính
sách phù hợp với các bước phát triển của nền kinh tế, xây dựng kế hoạch và
thực hiện các mục tiêu đúng với kế hoạch đã được đề ra. Việc đào tạo thích
ứng nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng đế thực hiện các mục tiêu kinh
tế vì nó tạo ra con người có đủ trình độ, khả năng phù hợp với một công việc
nhất định được xã hội phân công giao phó. Muốn thực hiện phát triển kinh
tế, nhất thiết phải có những điều kiện cần thiết phục vụ cho phát triển, trong
đó có nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu. PTNNL thông qua giáo dục và
đào tạo tạo dựng được nguồn vốn con người.
-


Nâng cao nguồn vốn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế
Nguồn vốn nhân lực như một sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm sức khoẻ và dinh dường của một con người là một nguồn tạo tăng
trưởng và phát triến kinh tế cho đất nước. Bởi vì nó cho phép sử dụng được

các nguồn lực thiên nhiên hiệu quả hơn, sử dụng các công nghệ tiên tiến hơn
và cách tố chức sản xuất hợp lý hơn. Thực tiễn cho thấy không một nước
nào trong số các nước công nghiệp hoá hiện nay lại đạt được tăng trưởng
kinh tế đáng kế trước khi đạt được giáo dục phổ cập trong cả nước. Giáo dục
là yếu tố lớn nhất giải thích sự khác biệt trong tăng trưởng kinh tế giữa các
vùng lãnh thổ. Giáo dục còn có vai trò đáng kể khuyến khích sự phân bô hợp
lý các nguồn lực. Làm giảm chi phí và làm tăng lợi nhuận cận biên đối với
các thông tin về sản xuất. Những nước có trình độ vốn nhân lực cao thường
có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên đằng sau các mức vốn nhân lực cao là
các chính sách đầu tư hợp lý và giải pháp phát triển giáo dục hợp lý. Cùng
với giáo dục, tình hình sức khoẻ và thế trạng của người lao động cũng góp
phần làm tăng GDP.
Nâng cao trình độ giáo dục và giảm nghèo, bất bình đắng và ốn định
kinh tế vĩ mô.
Giáo dục và sức khoẻ là yếu tố quan trọng giúp cải thiện cơ hội của một
người kể cả khi tìm việc trên thị trường lao động lẫn khi thành lập một
doanh nghiệp mới, do vậy tạo thu nhập tốt hơn và góp phần làm giảm đối
nghèo. Thu nhập cao hơn giúp cho nhóm người có thu nhập thấp cải thiện
đời sống, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nhóm xã hội.
Phát triển giáo dục đào tạo và tiến bộ công nghệ.
-


Trình độ nguồn vốn nhân lực là yếu tố chủ chốt trong phát triển công
nghệ của một quốc gia. Trong quá trình sáng tạo công nghệ, năng suất tăng
tỷ lệ với trình độ vốn nhân lực được tích luỹ tù' trước, trong quá trình mô
phỏng và du nhập công nghệ, năng suất phụ thuộc vào khoảng cách giữa
trình độ kiến thức công nghệ bên ngoài và trình độ nguồn vốn trong nước.
Quy mô hấp thụ công nghệ của một nước phụ thuộc vào năng lực của nguồn
nhân lực trong thu hút, lựa chọn, thích ứng và mô phỏng công nghệ theo

điều kiện đặc thù của đất nước ế Khả năng thu hút, năng lực thích ứng, trình
độ lựa chọn và sử dụng hiệu quả nguồn công nghệ nước ngoài lại phụ thuộc
vào trình độ nguồn vốn nhân lực của nước tiếp cận. Thực tế cho thấy nếu
nước nào có chất lượng nguồn nhân lực tốt thì sẽ có khả năng tiếp thu tốt
tiến bộ khoa học công nghệ.
Nguồn vốn nhân lực nâng cao năng suất.
Bên cạnh thực tế rằng sự nâng cao nguồn vốn nhân lực làm tăng năng
suất nhờ biến đối công nghệ, nó còn trực tiếp đóng góp thúc đấy năng suất.
Giáo dục và sức khoẻ làm tăng năng suất thông qua việc giúp giải mã các
thông tin về công nghệ mới và hiếu được chúng. Đồng thời năng suất phụ
thuộc vào sức khoẻ công nhân. Suy dinh dưỡng và ốm đau thường xuyên
ngăn cản làm việc trong thời gian dài quy định. Trong khi đó, một hệ thống
dinh dưỡng phù hợp có thế làm tăng suất, giảm bệnh tật cũng như tăng khả
năng hưởng thụ cuộc sống. Ngoài ra, vốn tích luỹ từ chế độ dinh dưỡng
trước tuổi làm việc là quan trọng đối với năng suất.
3.2. Xu

thế phát triển nguồn nhân lực ở nước ta thời gian tới.

-


Nhận thấy rõ vai trò của phát triển nguồn nhân lực đến tăng trưởng kinh
tế, nước ta cần phát triển theo các hướng chủ yếu sau đây:
Lao động có chuyên môn kỹ thuật, lao động lành nghề và lành nghề cao
ngày càng tăng, lao động giản đơn sẽ giảm xuống trong cơ cấu lao động của
vùng.Trong những năm qua, tỷ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp
không ngừng giảm, tuy nhiên sự tăng lên về trình độ văn hoá đặc biệt là
trình độ văn hoá bậc cao giữa các địa phương không đồng đều. Số lao động
có trình độ phố thông cao hơn so với bình quân chung cả nước. Đây sẽ là

một vấn đề khó khăn trong phát triến kinh tế xã hội ở các nước này. số lao
động có chuyên môn kỹ thuật ở đây cũng rất thấp, mặt bằng không đồng
đều. Những địa phương có tỷ trọng lao động cao chủ yếu tập trung ở các
tỉnh, thành phố mà ở đó tập trung nhiều trường đại học, cao đắng cùng các
trung tâm nghiên cứu.
Những xu hướng biến đổi cấu trúc của nguồn nhân lực trong điều kiện
cách mạng khoa học công nghệ hiện nay làm cho nguồn nhân lực đông và rẻ
không còn có ưu thế nữa. Yêu cầu nguồn nhân lực hiện nay phải là nguồn
nhân lực được đào tạo với trình độ chuyên môn nghề nghiệp cao. Họ phải
được phân bố và sử dụng hợp lý, phù hợp với trình độ công nghệ và cơ cấu
sản xuất. Đó là quá trình chuyến dịch lao động theo hướng tăng hàm lượng
chất xám lẫn kỹ năng thực hành cao, giảm lao động giản đơn, lao động có
tay nghề thấp trong cơ cấu nguồn nhân lực của vùng. Xu hướng tăng lao
động có chuyên môn kỹ thuật, lao động lành nghề còn xuất phát từ lợi thế
phát triển của các tỉnh. Trong phát triển kinh tế các tỉnh với vị trí địa lý thuận
lợi có thể hình thành các khu công nghiệp, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế và
-


thu hút nhiều lao động trong khu vực. Việc phát triển các khu công nghiệp
cần một lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật rất lớn. Như vậy theo
đà phát triển như thế này thì nhu cầu về lao động có kỹ thuật, lao động có
tay nghề cao sẽ ngày càng tăng.
Để tăng đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật, những người thợ
lành nghề thì vấn đề giáo dục đào tạo có ý nghĩa quan trọng nhất. Để phát
triển giáo dục đào tạo trong điều kiện ngân sách của Nhà nước giành cho
giáo dục đào tạo tại các địa phương còn hạn hẹp, cần phải đa dạng hoá các
nguồn lực, muốn vậy cần huy động tích cực sự đóng góp của toàn xã hội.
Sức khoẻ và thể lực của người lao động được coi là một nhân tố quan
trọng đế nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sức khoẻ, đặc biệt là tầm vóc

thế, lực có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy hướng phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta không chỉ quan tâm đến việc đào tạo lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật, mà còn chú trọng đến chăm lo sức khoẻ, thể lực cho
người lao động, chú ý đến việc chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em để có được
những lao động khoẻ mạnh trong tương lai. Đây là điều kiện tiền đề quan
trọng để tạo ra sự cường tráng về thể chất của người lao động, vốn quý để
tạo ra tài sản trí tuệ tinh thần cho xã hội.
Để đáp ứng xu thế đó, đòi hỏi các nhà quản lý, lãnh đạo phải quan tâm
tới vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho người lao động. Giải pháp trước mắt là
cần tập trung đầu tư cả về nhân lực và vật lực nhằm cải thiện một bước về
sức khoẻ, chú trọng chế độ dinh dưỡng với phụ nữ đang mang thai và trẻ em
dưới 5 tuổi, lồng ghép các chương trình y tế với các chương trình phát triến
kinh tế xã hội.
-


Con người với tư cách và trình độ cá nhân ngày càng đóng vai trò quan
trọng, vì vậy xu hướng phát triến năng lực cá nhân và tư cách của từng
người sẽ được chú trọng.
Con người trong xã hội hiện đại đều có mong muốn được tự khẳng định
mình. Vì vậy để phát huy tiềm năng trí tuệ thì điều quan trọng nhất là tạo
điều kiện đế mỗi cá nhân tự khắng định và tự thực hiện nhân cách bản thân
một cách sáng tạo. Đế phát triến năng lực tư duy của cá nhân người lao
động, công tác đào tạo cần đổi mới trên nhiều mặt. Quá trình học tập không
chỉ dừng lại ở việc truyền đạt cho người học những tri thức đã biết mà cần
phải đế người học tự tìm tòi và phát huy khả năng sáng tạo của mình. Học
viên không chỉ tham gia với tư cách là đối tượng thụ động nhận thông tin mà
còn là một chủ thế phát triển tích cực năng lực của mình và áp dụng chúng
vào thực tiễn. Trong quá trình giáo dục phải thường xuyên tiếp cận cá nhân
nhằm phát hiện năng lực của mọi người, khuyến khích người học tự chọn

nhóm bộ môn. Các doanh nghiệp phải thường xuyên điều động các nhân
viên của mình qua các vị trí khác nhau, bởi vì như thế sẽ giúp cho mỗi người
tự tìm thấy năng lực mạnh nhất của mình. Phải tìm cách biến công ty thành
hệ thống đào tạo hoặc sử dụng xí nghiệp như những phòng thí nghiệm đế thử
kinh nghiệm tiên tiến và thu hút đào tạo công nhân vào quá trình ra quyết
định.
Đội ngũ các chuyên gia, cán bộ khoa học, các cán bộ quản lý giỏi sẽ
được tăng lên ở một số ngành và lĩnh vực của vùng.
Đội ngũ cán bộ khoa học đặc biệt là cán bộ khoa học đầu đàn có vai
trò đặc biệt quan trọng. Họ là những người trực tiếp sáng tạo, vận dụng và
-


làm chủ công nghệ hiện đại tiên tiến, họ là người chỉ ra những hướng đi
khoa học có triển vọng, biết tập hợp lực lượng nghiên cứu, khai phá những
vấn đề khoa học quan trọng. Tuy nhiên ở nước ta đang đứng trước nguy cơ
thiếu hụt cán bộ đầu đàn trong khoa học, thiếu chuyên gia giỏi về công nghệ,
thiếu các doanh nghiệp giỏi có tầm cỡ quốc gia, có uy tín trên thị trường
quốc tế. Đội ngũ cán bộ đầu đàn đều đã có tuối trong khi lớp trẻ kế cận chưa
trưởng thành về chuyên môn và uy tín. Cán bộ phần lớn trưởng thành trong
cơ chế cũ, khi bước sang cơ chế thị trường còn nhiều bất cập về số lượng và
trình độ.
Nhũng hạn chế đó làm cho việc ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ vào sản xuất trong các doanh nghiệp để nâng cao năng suất lao động,
chất lượng sản phấm, hiệu quả kinh doanh gặp khó khăn, ảnh hưởng đến
việc phát triến ngành mũi nhọn của vùng. Trong thời gian qua chưa khai
thác hết tiềm năng, một mặt cũng do đội ngũ cán bộ khoa học quản lý còn
quá mỏng, nhất là nhũng chuyên gia có khả năng đảm đương các dự án lớn.
Nếu như phát triến được đội ngũ các nhà quản lý, những chuyên gia, cán bộ
khoa học sẽ là nền tảng để tạo ra động lực phát triển các ngành này. Để phát

triển được đội ngũ cán bộ khoa học ở khu vục này trước hết phải xây dựng
chiến lược tuyến dụng, thu hút nhân tài của từng địa phương và từng khu
vực. Điều này có liên quan đến cơ chế chính sách tuyển dụng và sử dụng, do
đó cần gấp rút tạo ra một hệ thống đồng bộ các cơ chế đánh giá, cạnh tranh,
chính sách lương, đặc biệt là tạo môi trường làm việc và phát huy tài
năng...Trọng dụng nhân tài và chuyên gia khoa học công nghệ, không phân
biệt xuất xứ địa phương, nguồn đào tạo và nơi làm việc.
-


Xu hướng tăng nhanh về mặt số lượng của tất cả các loại lao động trong
những năm gần đây và sẽ dần dần đi vào ốn định.
Ở nước ta những năm gần đây do tỷ lệ dân số vẫn còn tăng nhanh, do
vậy tốc độ gia tăng lao động hằng năm vẫn cao. Sự phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở, việc hình thành các ngành nghề mới.
Tất cả những vấn đề đó đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về lao động kế cả
lao động có chuyên môn kỹ thuật và lao động phổ thông trong khi đó nguồn
lao động tại chồ chưa đáp ứng đủ.
Tuy nhiên, sau đó với việc thực hiện kiểm soát mức gia tăng dân số,
bằng việc đầu tư thêm kinh phí và phương tiện kỹ thuật, tăng cường giáo dục
truyền thông, bố sung các chính sách về hạn chế sinh đẻ, củng cố hệ thống
dân số kế hoạch hoá gia đình ở các cấp sẽ góp phần làm giảm nguồn lao
động tự nhiên. Mặt khác, khi các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
mở đi vào hoạt động ốn định, nhu cầu về lao động cũng sẽ dần được ốn định,
sẽ có sự phân loại về lao động, theo đó lao động có chuyên môn kỹ thuật cao
sẽ tăng lên, lao động phổ thông có xu hướng giảm.
Dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất ngày
nay đã phát triển và đạt tới trình độ cao, vượt qua ngoài phạm vi mỗi quốc
gia. Sản xuất lớn chỉ có thế đạt hiệu quả cao khi quan hệ họp tác và phân
công lao động được thông thoáng trong phạm vi một nước và mở rộng giữa

các quốc gia. Để làm điều đó tất yếu phải làm xuất hiện các hình thức hợp
tác quốc tế về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.
Trong lĩnh vực PTNNL, có rất nhiều hình thức hợp tác quốc tế, một số
hình thức PTNNL đã được triển khai và thực hiện như: hỗ trợ phát triển giáo
-


dục và kỹ thuật, chăm sóc sức khoẻ ban đầu, bảo vệ môi trường sống, ngăn
chặn “chảy máu chất xám” và đền bù thiệt hại, giảm chi phí quốc phòng,
tăng viện trợ cho các nước nghèo...Ở nước ta những năm qua bước đầu đã
tham gia một số hình thức PTNNL bao gồm: hỗ trợ phát triển giáo dục và kỹ
thuật, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi trường, di chuyến nhân lực sang một
sổ nước...dưới dạng cử cán bộ, chuyên gia, học sinh ra nước ngoài học tập
và công tác, mời chuyên gia đào tạo ở một số trung tâm đào tạo của vùng,
xuất khẩu lao động...
Để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế
trong thời gian tới cần phải chú trọng những vấn đề sau:
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng mà nghị quyết Đại hội XI của
Đảng đề ra, tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đổi mới toàn diện
và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Đây là một đột phá chiến lược bảo
đảm cho phát triển nhanh và bền vững.
-

Cần phải tăng cường công tác giảng dạy ngoại ngữ cho sinh viên, đồng
thời mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp nhận sinh viên nước ngoài
đến học tập, nghiên cún đế nhanh chóng cập nhật, tiếp nhận chương
trình đào tạo tiên tiến, cần áp dụng mô hình quản lý đại học theo kiếu
công ty, vì mô hình này sẽ giúp cho các trường đại học năng động
hơn.


-

Nên cho phép các trường công lập được điều chỉnh học phí theo tình
hình cụ thế của từng địa phương và từng ngành nghề, các khoản chi
phải được công khai hóa cho toàn xã hội biết đế kiểm soát và đánh
-


×