Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ xây DỰNG đội NGŨ nữ cán bộ, CÔNG CHỨC cấp xã ở HUYỆN u MINH, TỈNH cà MAU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (625.61 KB, 122 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính
bốn cấp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là nền tảng của
hệ thống chính trị, là đơn vị hành chính ở cơ sở. Cấp xã giữ một vai trò, vị trí
hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp tổ chức đưa đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Đây cũng là nơi gần dân nhất,
trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa Nhà nước với
nhân dân, tiếp thu những ý kiến của nhân dân để phản ánh cho Đảng và Nhà
nước hoàn thiện chính sách, pháp luật.
Trong những năm qua, đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
U Minh tỉnh Cà Mau góp phần quan trọng vào thành tựu đổi mới của địa
phương. Đặc biệt là vai trò đóng góp rất to lớn của phụ nữ trong xây dựng
nông thôn mới. Thực tế cho thấy phụ nữ nói chung và nữ cán bộ, công chức
cấp xã nói riêng là lao động chính ở nông thôn hiện nay. Họ không chỉ là
người lao động chính mà còn là người góp phần sản xuất ra phần lớn nông
phẩm. Chính họ là lực lượng đông đảo góp phần quan trọng làm thay đổi diện
mạo bộ mặt nông thôn và xây dựng đời sống mới.
Với quan điểm con người vừa là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một khi đã có đường lối
cách mạng đúng thì cán bộ là khâu quyết định “Muôn việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”.
Công tác cán bộ là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với sự
nghiệp cách mạng. Trong công tác cán bộ, Bác đặc biệt chú ý đến việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. Theo Người, phụ nữ là lực lượng xã hội lớn, đóng
vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trình độ chính trị,
văn hóa, điều kiện sinh sống của phụ nữ phản ảnh trình độ văn minh của xã

3



hội. C.Mác nói: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà
không có phụ nữ giúp vào thì chắc không làm nổi, xem tư tưởng và việc làm
của đàn bà, con gái thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào”.
Để có một đội ngũ cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu phát triển của cách
mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải có kế hoạch đào tạo cán bộ nữ: “Đảng và
Chính phủ phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để
ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo”.
Nhận thức sâu sắc vai trò của đội ngũ nữ cán bộ, công chức, thời gian
qua, cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng các cấp ở tỉnh Cà Mau nói chung,
huyện U Minh nói riêng đã có nhiều chủ trương, nghị quyết, chính sách trong
xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở địa phương. Nhờ vậy, đội ngũ
nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau đã có bước trưởng
thành về nhiều mặt, góp phần vào xây dựng hệ thống chính trị và bộ máy chính
quyền ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội và thực hiện các nhiệm vụ khác ở địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cơ bản, trong thực tế hiện nay
không ít cấp uỷ Đảng, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ quan
điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ, chưa thực sự coi cán bộ nữ là một bộ
phận quan trọng trong công tác cán bộ, chưa thấy hết tiềm năng, vai trò, vị trí
của đội ngũ nữ cán bộ, công chức nên việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị,
chính sách đối với nữ cán bộ, công chức chưa đầy đủ, còn có biểu hiện định
kiến, khắt khe, cầu toàn, chưa quan tâm đến yếu tố giới nên đội ngũ nữ cán bộ,
công chức phát triển chưa vững chắc, mất cân đối, thiếu đồng bộ, phân bố không
đồng đều ở các địa phương, các lĩnh vực. Tỷ lệ nữ cán bộ, công chức tham gia
cấp uỷ, chính quyền còn thấp, nhất là ở cơ sở. Vì vậy, quan tâm xây dựng đội
ngũ nữ cán bộ, công chức các cấp xã là vấn đề cơ bản, cấp thiết đã và đang
đặt ra hiện nay ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau.

4



Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Xây dựng đội ngũ nữ cán
bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh, tỉnh Cà Mau hiện nay” làm đề tài
luận văn thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều đề tài, luận văn, luận án nghiên cứu
về công tác cán bộ, dưới đây là một số công trình tiêu biểu (được chia theo 3
nhóm):
* Nhóm các công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp, gồm:
Nguyễn Văn Phích, “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã ở tỉnh Bình Thuận giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000; Phạm Công Khâm,
“Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn Đồng bằng sông
Cửu Long hiện nay”, Luận án Tiến sĩ, 2000; Nguyễn Hồng Tân, “Xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp quận ở Thành Phố Đà Nẵng trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch
sử, Hà Nội, 2000; Nguyễn Mậu Dựng (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận án Tiến sĩ
lịch sử; Đoàn Tất Hoài, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc
sĩ, 2001; Nguyễn Văn Côi, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc
sĩ Lịch sử, 2002; Nguyễn Thái Sơn, “Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đâị hóa đất nước”, Luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, Hà
Nội, 2002; Nguyễn Huy Châu, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị cấp xã ở tỉnh Gia Lai trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn

5



Thạc sĩ, 2003; Vũ Thị Nghĩa, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị các xã ở tỉnh Đồng nai trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn
Thạc sĩ, Hà Nội, 2004; Phạm Thị Thúy Vân, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp phường ở thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải pháp”,
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, 2005; Trần Trung Trực, “Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Chính trị, 2005; Hà Thị Bích Thủy, “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của
hệ thống chính trị cấp phường, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, 2006; Trần Đình Thu: “Giải pháp nâng
cao đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Kon Tum”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
9/2007...
Rất nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, cán bộ chủ chốt cấp xã, trong đó các công trình trên đã đề cập
chức trách, nhiệm vụ, khẳng định vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ
chốt các cấp; yêu cầu phẩm chất, năng lực, tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện, cấp xã; luận giải quan niệm, nội dung quy trình, biện pháp
xây dựng; đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề xuất những giải pháp
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp vững mạnh.
* Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ, chính
quyền cơ sở, tiêu biểu là: Lê Thị Lý, “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
xã trước yêu cầu đổi mới”, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia, Hà Nội,
2003; Nguyễn Thị Hậu: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2003;
Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; TS. Hồ Công Dũng,“Xây


6


dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở Tây Nguyên giai đoạn 2006 - 2010”,
Đề tài cấp bộ, Hà Nội, 2006; Th.S Nguyễn Thế Vịnh: Xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà
Nội, 2007; Mạc Minh Sản: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2008; Đỗ Thanh Hiệp, “Ảnh
hưởng tư duy kinh nghiệm đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh
Cà Mau”, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2010; Biện Thanh
Lâm, “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ chủ chốt các xã ở tỉnh Cà
Mau giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Hà Nội, 2010;
Trần Quang Kiểm: “Hải Phòng tạo nguồn cán bộ xã, phường, thị trấn”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 7/2010; Cao Thanh Thương, “Đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực quản lý cấp xã trên địa bàn huyện Hoài Nhơn - Bình Định”,
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đà Nẵng, 2011; Trần Thị Kim Dung, “Cán bộ,
công chức cấp xã ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc
sĩ Lý luận và lịch sử Nhà nước pháp luật, Hà Nội, 2011; Trần Văn Thanh,
“Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức hành chính cấp xã, (phường) thành phố
Quy Nhơn”, Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đà Nẵng, 2012; Trương
Ngọc Hùng, “Giải pháp tạo động lực cho cán bộ, công chức xã, phường,
thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Đà Nẵng, 2012; Nguyễn Văn
Hòa, “Đánh giá thực trạng cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở xã, phường, thị trấn
tỉnh Bạc Liêu giai đoạn hiện nay”, Bạc Liêu, 2012; Trương Minh Nguyệt:
“Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã ở Lạng Sơn”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
4/2012; Phúc Sơn: “Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, số 5/2012; Lê Ngọc Xuyên: “Giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ cơ sở ở Tây Nguyên”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 1 + 2/2014. . .
Các đề tài nghiên cứu đã chỉ rõ vai trò quan trọng của cán bộ, công

chức cấp xã đối với chính quyền cấp cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân
7


dân, giữa công dân với nhà nước; đồng thời làm rõ đặc điểm, thực trạng của
cán bộ chính quyền cơ sở qua đó khẳng định sự cần thiết phải chăm lo, xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã cho ngang tầm với
yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức chính quyền cấp cơ sở...
*Nhóm các công trình nghiên cứu về đội ngũ nữ cán bộ, công chức,
tiêu biểu là:
Đề tài khoa học năm 2004 “Một số giải pháp tăng cường công tác cán
bộ nữ hiện nay ở thành phố Đà Nẵng” chủ nhiệm đề tài Lê Thị Thắm;
Nguyễn Đức Hạt “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống
chính trị” Nhà xuất bản chính trị Quốc gia (2004); Trương Thị Khuê “Đổi
mới công tác vận động phụ nữ trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản, số 6,
tháng 9/2008; Nguyễn Thị Giáng Hương (2012) “Vấn đề phát triển nguồn
nhân lực nữ chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sỹ chuyên
ngành triết học - Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; Tạp
chí xây dựng Đảng số 10/2013 “Phát huy năng lực, trí tuệ của đội ngũ cán bộ
nữ” Nguyễn Ngọc Lâm - Phó trưởng ban tổ chức Trung ương; Đề tài khoa
học “Một số giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang”, đề tài do
đồng chí Nguyễn Hồng Thắng, Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban
Tổ chức Tỉnh ủy Tuyên Quang làm chủ nhiệm; Đề tài khoa học cấp tỉnh
“Giải pháp tăng tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý tỉnh Tây Ninh” do Ban tổ
chức Tỉnh ủy Tây Ninh chủ trì thực hiện. . .
Các công trình nghiên cứu đề cập đến đối tượng là cán bộ nữ, công tác
đào tạo, bồi dưỡng, sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ nữ. Có những công trình đã chứng minh vai trò quan trọng của

nữ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều

8


nơi, so với nam giới, nữ cán bộ, công chức vẫn phải chịu những thiệt thòi,
chưa được đánh giá đúng năng lực, sở trường, tìm năng phát triển. Trên cơ sở
đó, các công trình đã đưa ra nhiều giải pháp thiết thực để xây dựng đội ngũ nữ
cán bộ nói chung, cũng như đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã nói riêng;
các công trình có ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận để góp phần xây dựng
đội ngũ nữ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa của chính quyền cơ sở hiện nay.
Những công trình ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đã đề cập đến đổi
mới nâng cao chất lượng công tác cán bộ hoặc một số khâu của công tác cán
bộ; rút ra những kinh nghiệm và các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng. Đó là những tài
liệu có giá trị về lý luận và thực tiễn trong giải quyết các vấn đề nghiên cứu
của đề tài.
Song, do đối tượng, phương pháp tiếp cận, mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi,
nội dung nghiên cứu của mỗi công trình khác nhau, chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức
cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau hiện nay với tính chất là một công trình
khoa học độc lập. Tác giả luận văn trân trọng kế thừa những kết quả nghiên cứu
của các công trình đó để luận giải làm rõ quan niệm và những vấn đề cơ bản
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau
giai đoạn hiện nay. Đồng thời, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu nêu trên và căn cứ vào thực trạng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp
xã trong huyện, từ đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm xây dựng đội
ngũ nữ cán bộ, công chức ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau trong giai đoạn mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục đích nghiên cứu

9


Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp tăng cường xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện U Minh tỉnh Cà Mau hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về xây dựng đội ngũ nữ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau.
- Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp tăng cường xây dựng đội ngũ
nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh, tỉnh Cà Mau hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà
Mau là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu hoạt động xây dựng đội ngũ
nữ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện U Minh tỉnh Cà Mau.
- Phạm vi khảo sát thực tế: Điều tra, khảo sát tại các xã, thị trấn thuộc
huyện U Minh tỉnh Cà Mau. Các tài liệu, số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu
giới hạn chủ yếu từ 2010 đến 2016.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở hệ thống những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, nghị quyết của Đảng về
công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức.

* Cơ sở thực tiễn
10


Thực tiễn xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã huyện U Minh
tỉnh Cà Mau; qua các báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác xây dựng đội ngũ
nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh thời gian qua. Ngoài ra còn dựa
vào kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả đề tài. Bên cạnh đó, có tiếp thu
kế thừa và chọn lọc kết quả của các công trình, đề tài đã được nghiệm thu,
bảo vệ.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành. Trong đó chú trọng các phương pháp: logic - lịch sử; phân tích,
tổng hợp; tổng kết thực tiễn; điều tra xã hội học; phương pháp thống kê;
phương pháp so sánh; phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở khoa học để cấp
ủy các cấp, cán bộ chủ chốt của huyện U Minh tỉnh Cà Mau trong lãnh đạo,
chỉ đạo xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy và học tập ở các trường Chính trị tỉnh, huyện, thành phố.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu; 2 chương (4 tiết); phần kết luận; danh mục
tài liệu tham khảo, phụ lục.

11


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ NỮ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
Ở HUYỆN U MINH TỈNH CÀ MAU
1.1. Đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã và những vấn đề cơ bản xây
dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau
1.1.1. Cấp xã và đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U
Minh tỉnh Cà Mau
* Khái quát về huyện U Minh tỉnh Cà Mau.
Huyện U Minh nằm về phía Tây của tỉnh Cà Mau, cách trung tâm thành
phố Cà Mau 42 km; với diện tích tự nhiên 77.414 ha bằng 14,68% diện tích tự
nhiên của tỉnh. Có vị trí địa lý như sau: phía Bắc giáp Tỉnh Kiên Giang, phía
Nam giáp huyện Trần Văn Thời, Phía Đông giáp huyện Thới Bình, Phía Tây
giáp Biển Tây (Vịnh Thái Lan), được thành lập vào ngày 20 tháng 5 năm
1979. Do xuất phát điểm thấp, nên sau những năm mới thành lập, kinh tế - xã
hội huyện U Minh phát triển khá chậm, kết cấu hạ tầng thiếu thốn, đời sống
của nhân dân khó khăn về nhiều mặt.
Huyện U Minh có tiềm năng để phát triển kinh tế toàn diện, nhất là kinh
tế thủy sản. Với chiều dài bờ biển trên 31km và có các cửa biển Khánh Hội,
Hương Mai, diện tích nuôi trồng thủy sản nước mặn và nước ngọt 33.160 ha,
sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy sản hàng năm bình quân đạt 30.477 tấn,
trong đó sản lượng tôm nuôi 6.222 tấn, cua xen canh là 3.640 tấn, số còn lại là
cá đồng và cá ao, hồ. Huyện U Minh là một trong những huyện trọng điểm về
kinh tế biển của tỉnh Cà Mau.
Ngoài thế mạnh về thuỷ sản, huyện U Minh còn có tiềm năng về tài
nguyên rừng, khoáng sản, dầu khí và tiềm năng phát triển nông nghiệp, du
lịch, cụ thể:

12



Dự án khu khí - điện - đạm Khánh An được đầu tư xây dựng tại xã
Khánh An, khu công nghiệp Khánh An của tỉnh đang thực hiện là cơ hội đặc
biệt để kinh tế huyện tăng trưởng nhanh một cách vượt trội, chuyển dịch
nhanh cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện phát triển kinh tế dịch vụ, đô thị... , Khu
liên hợp Khí - Điện - Đạm, với hai nhà máy điện, công suất 1.500 MW đã hoà
mạng vào lưới điện quốc gia, hàng năm cung cấp từ 9 - 10 tỷ kwh điện và một
nhà máy đạm công suất 800 ngàn tấn/năm, đã đi vào hoạt động sản xuất ổn
định. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, ngoài cây lúa với diện tích khoảng 28.700
ha, U Minh còn có khả năng phát triển một số loài cây trồng khác và chăn nuôi gia
súc, gia cầm ... tạo vùng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến, lương thực,
thực phẩm.
Bên cạnh tiềm năng phát triển kinh tế, U Minh còn có tiềm năng lớn để
phát triển du lịch sinh thái, du lịch biển đảo và du lịch lịch sử- nhân văn. Là
một huyện nằm trong khu vực có điều kiện tự nhiên mang đậm nét đặc thù
của vùng đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều sông ngòi, đầm phá, có hệ sinh
thái rừng ngập nước. Trong đó, có nhiều điểm du lịch hấp dẫn như vườn dâu
Cái Tàu, khu du lịch sinh thái Sông Trẹm, rừng Tràm U Minh Hạ,. . .
Trong những năm gần đây, kinh tế - xã hội của huyện tiếp tục tăng
trưởng khá toàn diện, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Tỷ trọng nông ngư - lâm nghiệp giảm dần, từ 61% xuống còn 53%; công nghiệp - xây dựng
từ 15,5% tăng lên 20%; dịch vụ từ 23,5% tăng lên 27%; thu nhập bình quân
đầu người từ 750 USD tăng lên 1.300 USD năm 2015.
Tổng sản lượng thủy sản đến cuối năm 2015 đạt 52.492 tấn; sản lượng
lương thực năm 2015 đạt 113.578 tấn; tăng cường công tác bảo vệ và trồng
rừng, trồng mới và trồng sau khai thác thêm 11.800 ha rừng, tạo độ che phủ
rừng và cây phân tán đạt 41%; công nghiệp - xây dựng tăng trưởng bình quân
15%; dịch vụ tăng bình quân 16,5%/năm.

13



Toàn huyện có 159,5 km đường ô tô, 375 km đường giao thông nông
thôn và trên 300 cây cầu bê tông, nối liền các trục giao thông chính từ tỉnh
đến huyện và từ huyện đến xã - thị trấn bằng xe ôtô; từ xã đến ấp và liên ấp,
khóm bằng xe môtô đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đi lại của Nhân dân.
Tranh thủ được các nguồn vốn triển khai xây dựng 105 công trình thủy lợi,
với chiều dài 306,8km.
Triển khai thực hiện khá tốt chương trình giảm nghèo, giải quyết việc
làm, đảm bảo an sinh xã hội; tỷ lệ hộ nghèo của huyện bình quân giảm
2,54%/năm, từ 21,23% năm 2010 xuống còn 8,51% năm 2015; đặc biệt là
không còn hộ gia đình chính sách nghèo. Đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân được cải thiện tốt hơn.
Công tác giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển về số lượng và chất
lượng; cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được đầu tư nâng cấp, cơ bản
đáp ứng yêu cầu. Đến nay huyện có 21/46 trường học đạt chuẩn quốc gia,
chiếm 45,65%. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được thường xuyên
quan tâm chỉ đạo đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo đội ngũ
thầy thuốc. Đến nay có 8/8 trạm y tế xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế;
nâng số giường bệnh từ 10,5 giường năm 2010 lên 12 giường/vạn dân năm
2015; đội ngũ thầy thuốc và cán bộ y tế đáp ứng nhu cầu phục vụ công tác
khám, chữa bệnh, bình quân có gần 6 bác sỹ/1 vạn dân.
Các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục thể thao có nhiều chuyển
biến tích cực; phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa"
được đẩy mạnh, tỷ lệ gia đình, ấp, khóm đạt chuẩn văn hóa tiếp tục được duy
trì.
Nhìn chung, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn huyện ổn định;
quốc phòng an ninh được giữ vững. Lực lượng vũ trang duy trì ca, kíp trực
sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, thường xuyên tuần tra, canh gác tại

14



các khu vực đóng quân và các vị trí trọng yếu trên địa bàn. Làm tốt công tác
phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động phạm tội; thường xuyên tổ chức tuần
tra, kiểm soát đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phát động phong trào toàn
dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội
trên địa bàn huyện.
* Cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau
Quan niệm cấp xã ở huyện U Minh, tỉnh Cà Mau:
Theo Từ điển tiếng Việt: “Xã là cơ quan hành chính ở nông thôn” [82 tr.
1117]; Thị trấn là khu vực tập trung dân cư, sinh hoạt chủ yếu là sản xuất thủ
công nghiệp, quy mô nhỏ hơn thị xã” [82 tr. 922].
Trong hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp ở nước ta, xã, phường, thị trấn (gọi
chung là cấp xã) là những đơn vị hành chính có vị trí tương đương ở cấp cơ
sở, được tổ chức ở nông thôn, nội thành, nội thị, theo khu vực dân cư, lãnh
thổ, bao gồm có các thôn, bản, tổ dân phố. Từ sự tương đồng về vị trí, địa vị
pháp lý, xã, phường, thị trấn có vai trò tương đương nhau trong hệ thống tổ
chức hành chính - vai trò là đơn vị hành chính cơ sở. Với tư cách là đơn vị cơ
sở, xã, phường, thị trấn là cấp chấp hành, thực hiện sự tác động quản lý từ các
cấp trên, nơi hiện thực hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thành
hoạt động thực tiễn của dân; đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm tính đúng
đắn, hiệu quả của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Là đơn vị hành chính cơ sở, cấp xã là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh
hoạt, quan hệ của dân cư trên hai địa bàn cơ bản là nông thôn và đô thị. Ở cấp
xã, chính quyền trong dân, quan hệ trực tiếp với dân; là nơi chính quyền và
các đoàn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào trong đời sống
dân cư, thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân
bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Cấp xã là nơi

15



HTCT thể hiện trực tiếp nhất việc tổ chức và phát huy khả năng sáng tạo, mọi
tiềm năng trong dân, khai thác và phát triển những khả năng đó tại địa bàn để
giải quyết tại chỗ những yêu cầu phát triển của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu
chính đáng của dân, đem lại lợi ích thiết thực nhất cho đời sống vật chất và
tinh thần của dân.
Như vậy có thể hiểu: Các xã, thị trấn huyện U Minh tỉnh Cà Mau là
đơn vị hành chính cơ sở trong hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước ta
được tổ chức theo khu vực dân cư ở nông thôn và thành thị, hợp thành bởi
các ấp, khóm trên địa bàn, có địa giới hành chính, tổ chức bộ máy và dân số
theo quy định của cấp có thẩm quyền; là nơi nhân dân địa phương sinh sống,
trực tiếp lao động sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh ở địa phương, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Sau khi huyện U Minh được thành lập vào ngày 20/5/1979 các xã, thị
trấn có những bước đi phù hợp, cơ cấu kinh tế có sự phát triển đa dạng, có cả
nông, lâm nghiệp, thủy sản, dịch vụ và công nghiệp, song kinh tế nông nghiệp
vẫn là chủ yếu, tỉ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm 63, 40%, công nghiệp
xây dựng chiếm 16,96%, dịch vụ 19,64%. Kết cấu hạ tầng kinh tế cũng còn
yếu kém, thu nhập bình quân đầu người 296 USD, đời sống người dân còn
gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 27,9%, lao động qua đào tạo, dạy
nghề 15%, sử dụng máy điện thoại bình quân 5 máy cho 100 dân.
Cho đến nay, toàn huyện có 7 xã, 1 thị trấn (Xã Khánh An, xã Nguyễn
Phích, xã Khánh Thuận, xã Khánh Hòa, xã Khánh Tiến, xã Khánh Lâm, xã
Khánh Hội và thị trấn U Minh), có 94 ấp và 04 khóm; dân số là 24.521 hộ với
108.909 khẩu, trong đó 1.350 hộ dân tộc Khmer với 5.686 khẩu. Đa số nhân

16



dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, một số hộ
đánh bắt thủy sản, thương mại dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp.

17


Về cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của cấp xã ở huyện
U Minh.
Hệ thống tổ chức đảng gồm: Đảng ủy xã, chi bộ khóm, ấp. Toàn huyện
U Minh hiện có 28 tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Huyện ủy, gồm có 14 đảng
bộ (trong đó có 08 đảng bộ xã, thị trấn) và 14 chi bộ (có 226 chi bộ trực thuộc
đảng bộ cơ sở), với 3.030 đảng viên.
Đảng bộ, chi bộ cơ sở là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác
ở cơ sở, nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước đến mọi người dân và tổ chức thực
hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân
sinh, dân trí, dân chủ ở cơ sở. Với vị trí là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính
ở cấp xã, trong những năm qua, tổ chức cơ sở Đảng ở huyện U Minh luôn
khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương.
Về bộ máy chính quyền cấp xã ở huyện U Minh gồm có: Một là, Hội
đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời
là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Hội
đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương; quyết
định các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định

các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp
bảo đảm việc thi hành pháp luật ở địa phương, quyết định những vấn đề
thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính

18


quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính; Hai là, Ủy ban nhân dân
cấp xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan
hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một cách
toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp. UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp
bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân
tộc, tôn giáo và bảo đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
Các tổ chức chính trị - xã hội cấp xã ở huyện U Minh gồm có:
- Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời
sống chính trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các
thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ
của công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Hội Nông dân là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông
dân, đại biểu cho quyền làm chủ, lợi ích của nông dân. Đoàn kết và tập hợp
nông dân tham gia phong trào hành động cách mạng; thực hiện thắng lợi
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức chăm lo, bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng, hợp pháp của phụ nữ. Hội phụ nữ ở cấp xã ở huyện U
Minh được tổ chức theo hai mô hình: Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ - Tổ
phụ nữ (mô hình này phù hợp với mô hình tổ chức của Đảng và các đoàn thể
ở cấp cơ sở).
- Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện

vọng và quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai
trò tham mưu giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết,
vận động cựu chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách
mạng, của Hội; tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ viên chức nhà nước ở địa phương.
19


- Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội có
vai trò đoàn kết, tập hợp thanh niên, phát huy vai trò xung kích của thanh niên
trong sự nghiệp cách mạng. Bằng nhiều hình thức và biện pháp sáng tạo, Đoàn
đã thường xuyên tổ chức việc học tập quán triệt các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đồng thời chú trọng cung cấp thông
tin về tình hình thời sự, chính trị trong nước và quốc tế, nâng cao ý thức cảnh
giác cách mạng cho cán bộ Đoàn viên thanh niên. Các hoạt động giáo dục của
Đoàn đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức chính trị cho Đoàn
viên thanh niên, tạo bầu không khí chính trị - xã hội ổn định, thúc đẩy việc
hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
* Quan niệm đội ngũ cán bộ, công chức và đội ngũ nữ cán bộ, công
chức cấp xã ở huyện U Minh:
Từ khi Đảng ra đời lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, từ “Cán bộ” mới được
sử dụng để chỉ những người có trọng trách trong tuyên truyền, tổ chức, tập hợp
quần chúng, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh; một lòng, một dạ đấu tranh vì
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự phát triển của cách mạng, đội
ngũ cán bộ ngày càng đông đảo. Ngày nay, trong hệ thống tổ chức đảng và các
đoàn thể chính trị, cán bộ là những người được bầu vào cơ quan lãnh đạo các cấp
và những người được bổ nhiệm làm công tác chuyên môn; trong hệ thống chính
quyền, cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan nhà nước có chức vụ
lãnh đạo, quản lý thuộc các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ

chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của

20


Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng”.
Vì vậy quan niệm cán bộ cần được hiểu là: những người có chức vụ
lãnh đạo, quản lý, chỉ huy được bầu, được bổ nhiệm hoặc có chuyên môn
nghiệp vụ, hoạt động trong các ngành, các lĩnh vực khác nhau, giữ trọng trách
trong một tổ chức, cơ quan, đơn vị; có tác động, ảnh hưởng quan trọng đến sự
phát triển của tổ chức, cơ quan, đơn vị đó.
Đội ngũ cán bộ là tập hợp những người cán bộ thành một lực lượng có
số lượng, cơ cấu, chất lượng (nghề nghiệp, trình độ, tuổi đời, thâm niên công
tác, giới tính...) đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị, chức năng của một tổ
chức, một lĩnh vực hoạt động.
Cán bộ cấp xã, là công dân Việt Nam, được bầu cử, hoặc bổ nhiệm giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
Theo quy định tại Điều 4, khoản 3 của Luật cán bộ, công chức năm
2008, cán bộ cấp xã có các chức danh sau đây:
1. Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
2. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
3. Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
4. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

5. Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
6. Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
7. Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam;
8. Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Việt Nam.

21


Công chức: Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức quy định, Công chức
là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức
danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây: Trưởng Công an; Chỉ huy
trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và
môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã
hội. Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý.
Từ những vấn đề trên có thể quan niệm: Đội ngũ nữ cán bộ, công chức
cấp xã ở huyện U Minh, tỉnh Cà Mau là một bộ phận cán bộ, công chức của
Đảng và Nhà nước, đó là những nữ công dân Việt Nam được đào tạo, bồi
dưỡng, có đủ phẩm chất, năng lực và tiêu chuẩn cần thiết khác, được bầu cử, bổ
nhiệm, tuyển dụng vào những chức vụ, chức danh theo biên chế trong các cơ

quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau.
* Đặc điểm của đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh:
Một là, đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã huyện U Minh phần lớn
là trưởng thành sau miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước. Từ
đó, họ được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản và nhạy bén, năng động,
sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành, quản lý, tiếp cận trình độ khoa học- kỷ
thuật và những vấn đề mới rất nhanh. Đồng thời, họ được kế thừa truyền

22


thống cách mạng của cha ông và được sự giúp đỡ, hướng dẫn của thế hệ cán
bộ đi trước, nên trưởng thành nhanh chóng trở thành nguồn bổ sung cho cán
bộ cấp huyện U Minh và cho tỉnh Cà Mau. Mặt khác, đại bộ phận là người
dân tại địa phương, gắn liền với điều kiện sản xuất, kinh doanh tạo cuộc sống
gia đình. Bên cạnh đó, phần lớn được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản và
có tư duy, nhạy bén, năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành, quản lý,
tiếp cận trình độ khoa học - kỹ thuật và những vấn đề mới rất nhanh.
Hai là, tỷ lệ đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã tham gia cấp uỷ viên cơ
sở; đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp chiếm tỷ lệ thấp. Tham gia đại biểu
HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2011-2016 nữ cán bộ, công chức có 55/222 đại biểu
(chiếm 24,77%); nhiệm kỳ 2016 - 2021 có 47/234 (chiếm 20,08%). Bên cạnh đó,
số nữ cán bộ, công chức cấp xã trúng cử đại biểu HĐND cấp huyện lại càng thấp,
nhiệm kỳ 2011-2016 có 3/32 (đạt 9,37%); nhiệm kỳ 2016 - 2021 có 5/32 nữ (đạt
15,62%).
Chất lượng chính trị đội ngũ nữ cán bộ, công chức xã tham gia các tổ chức
trong HTCT ở cơ sở và cấp trên đảm bảo tốt, họ là lực lượng nắm vững đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và vận dụng phù
hợp vào điều kiện cụ thể từng cơ sở, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
huyện khá nhanh.

Ba là, cơ cấu đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh đa
dạng và thường xuyên biến động. Về cơ cấu đội ngũ, mặc dù Huyện ủy rất quan
tâm đến quy hoạch, đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ, nữ. Nhưng tỷ lệ cơ cấu nữ cán
bộ, công chức cấp xã trong toàn huyện đạt rất thấp (nữ 36/174, chiếm
20,68%). .Tỷ lệ nữ tham gia làm công tác đảng, quản lý nhà nước còn thấp (toàn
huyện có 01 đồng chí nữ là Bí thư xã (chiếm 12.5%); 02 đồng chí nữ là Phó Chủ
tịch UBND xã (chiếm 13.3%). Về cơ cấu độ tuổi được các cấp uỷ đảng quan
tâm, qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng và bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân, các đoàn thể quần chúng đều có định hướng về cơ cấu độ tuổi mang

23


tính kế thừa liên tục. Tuy nhiên, lực lượng cán bộ trẻ đến nay vẫn còn thấp, dưới
30 tuổi chỉ chiếm khoảng 15% (chủ yếu là lực lượng Đoàn thanh niên và Hội
Liên hiệp phụ nữ).
Bốn là, đại bộ phận đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U
Minh chưa được đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, toàn diện.
Đại bộ phận cán bộ xã trên địa bàn huyện U Minh được rèn luyện,
trưởng thành từ thực tiễn địa phương; về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý
luận chính trị, quản lý nhà nước,. . . còn có một bộ phận chưa được đào tạo,
bồi dưỡng một cách cơ bản, toàn diện; về trình độ chuyên môn của cán bộ cấp
xã trong toàn huyện chưa qua đào tạo 10 người, chiếm 11,49%. Về trình độ
chuyên môn của công chức cấp xã trong toàn huyện chưa qua đào tạo 03 người,
chiếm 4,44% [Phụ lục 3].
Xét về điều kiện kinh tế - xã hội, huyện U Minh và một huyện nghèo,
kinh tế - xã hội phát triển khá chậm, kết cấu hạ tầng thiếu thốn, đời sống của
nhân dân khó khăn về nhiều mặt. Do đó, trình độ dân trí còn thấp nên vẫn còn
một bộ phận người dân có tư tưởng “trọng nam kinh nữ”; không ủng hộ việc
phụ nữ tham gia học tập và hoạt động xã hội, chính trị. Có những nơi định

kiến xem nhẹ vai trò và năng lực công tác của nữ cán bộ, công chức không
quan tâm xem xét giữa yếu tố đặc thù về giới.
Từ những đặc điểm trên, đòi hỏi quá trình xây dựng đội ngũ cần nắm
vững những ưu điểm, thuận lợi, đồng thời cả những hạn chế, bấp cập của đội
ngũ cán bộ xã trên địa bàn huyện U Minh, để có chủ trương, giải pháp đúng
trong công tác xây dựng đội ngũ đáp ứng yêu cầu hiện nay.
* Vai trò đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau:
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước yêu cầu phát triển của địa
phương, vai trò của đội ngũ cán bộ xã, thị trấn của huyện U Minh trở nên rất
quan trọng, biểu hiện như sau:
24


Một là, đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã là người giữ vai trò quan
trọng trong việc hiện thực hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước
về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở cơ sở.
Là những người giữ vai trò “trung tâm” tại cơ sở, có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng, là chỗ dựa cho nhân dân, là công cụ sắc bén để thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn.
Đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã góp phần thực hiện thắng lợi chủ
trương, đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Không có đội
ngũ này vững mạnh thì dù đường lối, chủ trương chính trị có đúng đắn cũng
khó biến thành hiện thực. Cán bộ, công chức cấp xã nói chung, nữ cán bộ,
công chức cấp xã nói riêng vừa là người trực tiếp đem các chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật Nhà nước giải thích cho nhân dân hiểu rõ và thi
hành, vừa là người phản ánh nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với
Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp
với thực tiễn. Họ có vai trò quan trọng trong quản lý và tổ chức công việc của
chính quyền cơ sở. Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ mang tính tự quản

theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất của thực thi quyền lực nhà nước ở
cơ sở thông qua việc giải quyết các công việc hằng ngày có tính chất quản lý,
tự quản mọi mặt ở địa phương.
Hai là, là những người trực tiếp, gắn bó với nhân dân, triển khai,
hướng dẫn và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước.
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ nói chung cũng như đội ngũ nữ cán
bộ, công chức cấp xã nói riêng ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc
thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa công dân với
Nhà nước. Sở dĩ như vậy vì họ là những cán bộ trực tiếp tuyên truyền, phổ

25


biến, vận động và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn dân cư, giải quyết mọi
nhu cầu chính đáng của người dân, bảo đảm sự phát triển kinh tế của địa
phương, duy trì trật tự, an ninh, an toàn xã hội trên địa bàn cấp xã. Do tính
chất công việc của cấp xã, họ vừa giải quyết những công việc hàng ngày, vừa
phải quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của cấp trên, lại phải nắm tình hình
thực tiễn ở địa phương để từ đó đề ra kế hoạch, chủ trương, biện pháp đúng
đắn, thiết thực, phù hợp. Nhiệm vụ của họ rất nặng nề, vai trò của họ có tính
then chốt xét cả trong quan hệ giữa Đảng với dân, giữa công dân với Nhà
nước. Thực tế đã chứng minh, đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò quan trọng
trong việc phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, tạo dựng các phong trào
cách mạng của quần chúng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Sức mạnh của hệ thống chính trị,
sự ổn định của xã hội, sự phát triển sâu rộng và hiệu quả của phong trào cách
mạng của quần chúng luôn gắn liền với năng lực, phẩm chất đạo đức của đội
ngũ cán bộ này.

Như vậy, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước có đi vào đời sống xã hội và trở thành hiện thực trên địa bàn huyện U Minh
hay không là tuỳ thuộc vào sự vận động, tuyên truyền nhân dân thực hiện của
đội ngũ cán bộ cơ sở trong huyện, nhất là đội ngũ nữ cán bộ chuyên trách. Vì
vậy, xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã góp phần thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn của huyện U Minh.
Ba là, đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã giữ vai trò quan trọng
trong việc xây dựng và thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ
sở, là cầu nối giữa Đảng, nhà nước với nhân dân.
Thực tế đã qua, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện
U Minh trong tiếp xúc, quan hệ với dân và chăm lo đến dân. Nhân dân lao

26


động là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách
nhiệm, cống hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ với nhau; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Thực tiễn cho thấy, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng, mọi người dân U Minh đều cảm nhận được rất rõ, được
thực sự thụ hưởng cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Mọi đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự
tham gia ý kiến của nhân dân. Mọi người dân đều trực tiếp hay gián tiếp đề
đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của dân ngày càng được mở rộng và hoạt
động hiệu quả. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trở thành quy chế,
thiết chế dân chủ trong xã hội; là phương châm hành động của người dân
trong xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Đảng vững mạnh.
Bốn là, đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan trọng
trong việc xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy của HTCT ở cơ sở.

Mặt khác, nữ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan trọng ảnh hưởng
đến năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; năng lực quản lý, điều
hành của bộ máy chính quyền và mọi hoạt động của đoàn thể quần chúng của
cơ sở. Xây dựng đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã có đầy đủ phẩm chất,
năng lực ngang tầm với nhiệm vụ mới là nhằm xây dựng, củng cố, tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng; điều hành, hoạt động của Nhà nước, đoàn thể quần
chúng ở cơ sở và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ xã hội của quần chúng
nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của huyện U Minh.
Đội ngũ nữ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện U Minh tỉnh Cà Mau
thực sự là hạt nhân xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trên cơ sở vì nhiệm vụ
của địa phương. Trong mọi hoạt động, đội ngũ này luôn là người gương mẫu
trong việc chấp hành các Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là

27


×